Đề tài Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA

MỤC LỤC

Trang

 

LỜI NÓI ĐẦU 3

Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư có sử dụng nguồn vốn ODA.

5

I. Quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư. 5

1. Khái niệm. 5

2. Bản chất quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư. 5

3. Mục đích của quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư. 6

4. Nguyên tắc quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư. 7

5. Nội dung của công tác quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư. 8

II. Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA.

(Official Development Assistance).

10

1. Lịch sử nguồn vốn ODA. 10

2. Khái niệm về ODA. 11

3. Bản chất, đặc điểm và các hình thức cung cấp nguồn vốn ODA. 11

4. Tầm quan trọng của nguồn vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và ở Việt Nam.

 

13

Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA. 16

I. Quản lý Nhà nước đối với việc huy động và sử dụng nguồn

vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam. 16

1. Quản lý Nhà nước về tình hình thu hút và giải ngân nguồn vốn ODA. 16

2. Sử dụng nguồn vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam. 22

II. Hoạt động quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA. 24

1. Quá trình đàm phán ký kết. 24

2. Quá trình phê duyệt và tổ chức QLNN về ODA. 24

3. Tổ chức thực hiện các chương trình dự án sử dụng vốn ODA. 27

4. Những quy định về thuế đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

28

Chương III: Một số vấn đề còn tồn tại và những giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

 

30

I. Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động QLNN đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

30

II. Những giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả QLNN đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

31

1. Những giải pháp để nâng cao hiệu quả QLNN đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

31

2. Một số kiến nghị để thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.

 

33

KẾT LUẬN 35

TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

 

doc39 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang phát triển và ởViệt Nam: 4.1 Vai trò của ODA trong chiền lược phàt trỉên của các nườc đang phát triển: Nguồn vốn OĐA có một vai trò quan trọng đồi vời sự phàt triển của các nước đang phát triển thể hiện rõ nét ở các khía cạnh sau.. Thứ nhất: ODA có vai trò bổ xung cho nguồn vốn trong nước trong thời kì đầu của công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Việc huy động vốn trong nước vẫn rất khó khăn nên ODA là nguồn quan trọng trong việc bổ xung cho nguồn vốn trong nước. Thứ hai: ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp cho các nước nhận viện trợ tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Thứ ba: ODA giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Đối với các nước đang phát triển, khó khăn kinh tế là điều không thể tránh khỏi, trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán can thanh toán quốc tế ngày một gia tăng là tình trạng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đều phải cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế. Thứ tư: ODA tăng khẳ năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển. Thứ năm: Xét vế mặt tổng thể ODA là những công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang phát triển và chậm phát triển thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo. 4.2 Huy động vốn ODA để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam: Tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội là một chủ chương lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mở của. Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ tranh thủ thu hút vốn ODA đa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và nâng cao trình độ khoa học công nghệ, quản lý đồng thời dành một phần vốn tín dụng đầu tư cho ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và ưu tiên viện trợ không hoàn lại cho vùng chậm phát triển. Đối với nước ta nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất lớn vì vậy chúng ta cần phải tranh thủ mọi nguồn vốn trong đó có ODA và các nguồn viện trợ khác. Trong những năm trước đây nguồn viện trợ ODA chủ yếu là NGO và từ các nước thành viên hội đồng tương trợ kinh tế (trước hết là Liên xô) và các nước DAC, OPEC. Vì vậy huy động nguồn vốn ODA để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là công việc hết sức cần thiết tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển đồng thời nó cũng là động lực giúp đỡ cho việc thu hút FDI ngày càng nhiều vào Việt Nam. 4.3 Những nguồn vốn ODA quan trọng đối với Việt Nam. Viện trợ phát triển ODA dù là song phương hay đa phương đều gắn với yếu tố chính trị và sự ổn định của chính trị là điều kiện tiên quyết để tranh thủ viện trợ phát triển ODA. Đối với Việt Nam ta thì thu hút nguồn viện trợ ODA của phương Tây không dễ dàng, nước ta chỉ bắt đầu tiếp cận thực sự với ODA khi vấn đề Campuchia được giải quyết dứt điểm và đặc biệt là với sự nỗ lực ngoại giao và uy tín do sự thành công của đường lối đổi mới kinh tế đã ngày càng nhận được nhiều nguồn vốn ODA. Trong thập kỷ 80 ngoài sự giúp đỡ của các nước XHCN, trong điều kiện thuận lợi Việt Nam đã bắt đầu nhận được sự hỗ trợ từ chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) và tổ chức này đã hỗ trợ cho Việt Nam trong việc tiếp cận với các tổ chức viện trợ quốc tế. Từ đầu thập kỷ 90 với sự kết thúc của chiến tranh lạnh đối tượng trực tiếp nhận vốn ODA được mở rộng rất nhiều, do vậy tình trạng cạnh tranh thu hút vốn ODA trở nên đặc biệt gay gắt. Tuy nhiên nước ta vẫn huy động được nguồn vốn này một cách đáng kể, các tổ chức viện trợ ODA chủ yếu là: Chính phủ Nhật Bản, IMF, WB, ADB. Ngoài ra chúng ta còn tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các tổ chức tài chính đa phương khác như hội phát triển kinh tế (IDA), công ty tài chính quốc tế (IFC). Các cơ quan chuyên môn của LHQ trong đó có một số các tổ chức đã có văn phòng thường trú tại Hà Nội như: tổ chức Lương thực thế giới (FAO), tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá (UNESCO), tổ chức Y tế thế giới (WHO), tổ chức phát triển công nghiệp LHQ (UNIDO) và chương trình phát triển LHQ (UNDP). Đối với nguồn ODA song phương, Việt Nam đã nhận được viện trợ chủ yếu ở các nước phát triển và tổ chức hợp tác phát triển kinh tế thế giới OECD trong đó quan trọng nhất là Nhật Bản, Pháp, Úc và các nước Bắc Âu. quỹ Koweit đã tài trợ một số dự án cho Việt Nam nhưng với số lượng vốn không lớn. Chương II THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN ODA. I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM. Quản lý nhà nước về tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA: Tình hình thu hút vốn ODA: Thu hút nguồn vốn viện trợ ODA vào Việt Nam có thể chia ra thành hai giai đoạn, giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ (trước năm 1991) và giai đoạn từ năm 1991 đến nay. Giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ (Trước năm 1991). Trong thời kỳ 1975 đến 1991 theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, Việt Nam đã nhận được tổng nguồn vốn ODA khoảng 16 tỷ RUP chuyển đổi và 5 tỷ USD, riêng thời kỳ từ năm 1979 đến 1988 hàng năm các chính phủ và các tổ chức quốc tế viện trợ cho Việt Nam khoảng 130 đến 190 triệu USD. Giai đoạn này các nước viện trợ cho Việt Nam chủ yếu là Liên Xô và các nước trong khối SEV, trong đó Liên Xô là nước tài trợ lớn nhất. Tổng cộng Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam 12,6 tỷ RUP chuyển đổi với lãi suất 2,8%/ năm, trong đó nửa số viện trợ là viện trợ không hoàn lại. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA từ khu vực này cho Việt Nam bị gián đoạn. Giai đoạn từ 1991 đến nay: Từ năm 1991 đến năm 1993 các nước phương Tây và các tổ chức quốc tế dần khôi phục lại viện trợ cho Việt Nam nhưng còn ở mức khiêm tốn và chủ yếu để trả các khoản nợ ngắn hạn. Vốn ODA thời kỳ này do các nước Pháp, Ý, Úc, Nhật Bản, Canada, Bỉ,... đạt khoảng 500 triệu USD để trả các khoản nợ quá hạn cho IMF, WB. Tại các câu lạc bộ Paris, London đã xin xoá nợ cho Việt Nam một khoản lớn. Nguồn vốn ODA chỉ được phục hồi nhanh chóng sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam năm 1993. Từ đó đến nay hàng năm các nhà tổ chức hội nghị tư vấn, nhóm các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho Việt Nam với nguồn số liệu cụ thể trong bảng 1 như sau: Bảng 1: Nguồn vốn ODA cam kết cho vay. Đơn vị: tỷ USD Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Vốn cam kết 1,81 1,94 2,26 2,43 2,4 2,2 2,1 2,8 Nguồn: Kinh tế và Dự báo 2/2000 Như vậy từ năm 1993 đến nay, thông qua 7 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam do WB tổ chức, lượng ODA được cam kết tài trợ cho nước ta đạt trên 17,9 tỷ USD. Riêng năm 1999 các nhà tài trợ đã cam kết viện trợ cho Việt nam 2,1 tỷ (trong đó chưa kể đến 0,7 tỷ hỗ trợ cải cách kinh tế), năm 2000 cam kết viện trợ là 2,8 tỷ USD trong đó 0,7 tỷ USD hỗ trợ đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế. Như vậy dưới áp lực ngày càng tăng của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn ODA, nguồn vốn này được siết chặt và việc cam kết viện trợ bị chững lại thậm chí một số quốc gia còn bị cắt giảm, tuy vậy vốn cam kết viện trợ cho Việt Nam trong năm 2000 đã tăng lên so với năm 1999. Điều đó chứng tỏ rằng cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao đường lối đổi mới kinh tế của Việt Nam và những thành quả mà Việt Nam đã đạt được, nhất là hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ngày càng được nâng cao, cơ chế chính sách các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn chỉnh, như quy chế đầu tư và xây dựng kèm theo nghị định 42/CP nay sửa đổi thành nghị định 52/CP của Thủ tướng chính phủ, quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn phát triển chính thức ODA kèm theo nghị định 87/CP của Thủ tướng chính phủ. Hàng năm Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ ngành tổng kết đánh giá hiệu quả các dự án sử dụng vốn ODA, xây dựng kế hoạch huy động vốn ODA và lập danh mục các dự án ưu tiên thu hút vốn ODA. Đây là cơ sở để các nhà tài trợ xem xét đánh giá tiến tới cam kết tài trợ. Cùng với sự đẩy mạnh cơ cấu chính sách để nối lại các khoản viện trợ ODA thì Việt Nam hàng năm đã đào tạo các lớp cán bộ có trình độ năng lực để tiến hành đàm phán ký kết các điều ước, hiệp định khung và các khoản viện trợ ODA. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nguồn vốn ODA bao gồm việc xác định chủ trương, phương hướng thu hút vận động vốn ODA, phân bổ việc sử dụng vốn ODA qua ngân sách Nhà nước. Ngoài ra còn có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và các nhà tài trợ, giữa các nhà tài trợ, giữa các cơ quan của chính phủ đến tất cả các khâu của quá trình tiếp cận và sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các khâu: @ Xây dựng chiến lược và các kế hoạch trung hạn phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, các chương trình quốc gia trong một số lĩnh vực cụ thể. @ Hình thành các chương trình dự án ODA. @ Tổ chức thực hiện các chương trình dự án ODA. @ Theo dõi đánh giá các chương trình dự án ODA. Mặt khác trong bối cảnh khủng hoảng khu vực, thiên tai trong nước và nhiều yếu tố bất lợi khác nhưng năm 1998 nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định. Đó là điều kiện cực kỳ quan trọng để các nhà tài trợ công nhận và cam kết tiếp tục hỗ trợ vốn ODA cho Việt Nam với số lượng lớn. Giám đốc của WB tại Việt Nam cũng đánh giá rằng số tiền mà các nước cam kết như vậy cho Việt Nam là xứng đáng, ông cho rằng thời gian qua ODA được Việt Nam sử dụng một cách hữu hiệu và Việt Nam đang tiến hành cải tổ kinh tế một cách nghiêm túc. Cho đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 24 nhà tài trợ song phương, 15 nhà tà trợ đa phương và hơn 300 tổ chức phi chính phủ với tổng số vốn ODA các nhà tài trợ cung cấp cho Việt Nam lên đến 17,9 tỷ USD, trong tổng số vốn ODA đuợc các nhà tài trợ cam kết thì Nhật Bản, WB và ADB là ba nhà tài trợ lớn nhất họ cam kết vốn tài trợ chiếm tới 70%. 1.2 Tình hình giải ngân vốn ODA. Giải ngân vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển, sau khi nhà tài trợ cam kết về nguồn vốn phía Viêt Nam lập dự án khả thi sử dụng vốn đó theo điều kiện đã thoả thuận ban đầu với nhà tài trợ, sau đó Chính phủ sẽ thành lập ban quản lí dự án chịu trấch nhiệm về việc thực hiện dự án theo tiến độ giải ngân, nhà tài trợ sẽ căn cứ vào tiến độ thực hiện của mỗi dự án làm căn cứ để giải ngân. Các dự án sẽ thực hiện một, hai năm đầu còn chưa hoàn toàn quen với các thủ tục và quy định của nhà tài trợ dẫn tới giải ngân vốn còn chậm nhưng về sau thực hiện tương đối trôi chảy. Xét về số tuyệt đối và số tương đối, số vốn giải ngân qua các năm đã tăng lên nhanh chóng theo từng năm. Số liệu vốn ODA được giải ngân trong Bảng 2 sau đây cho thấy điều đó. Bảng 2: Vốn được giải ngân từ năm 1993 đến năm 1999. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Vốn giải ngân (triệu USD) 431 725 737 958 1025 1430 1452 Vốn giải ngân/ Vốn cam kết (%) 22 36 31 39 42 60 53,7 Nguồn: Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương số 2 (27)/ 2000. Như vậy tính đến năm 1999 Việt Nam đã giải ngân được khoảng 6.47 tỷ USD chiếm khoảng 42% vốn ODA đã cam kết. Số liệu giải ngân qua các năm được thể hiện cụ thể ở trong Bảng 2. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2000 vốn ODA được giải ngân là 875.4 triệu USD. Do đó tính từ năm 1993 đến tháng 6 năm 2000 chúng ta đã giải ngân được 7.346 tỷ USD. Với mực độ giải ngân như vậy là còn chậm do nhiều nguyên nhân gây ra trong đó nguyên nhân chủ yếu là do vấn đề về hiệu quả quản lý Nhà nước về nguồn vốn này còn nhiều mặt tồn tại cụ thể là: @ Do những năm đầu chưa quen với thủ tục giải ngân nên các khâu chuẩn bị dự án, tiền khả thi, khả thi, thiết kế và thi công dự án với cơ chế chính sách chưa hoàn chỉnh. @ Quá trình duyệt còn kéo dài thường mất từ một đến ba năm, phân bổ vốn chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế, có trường hợp ký hợp đồng khung với nước ngoài rồi mới làm thủ tục phê duyệt. @ Khâu chuẩn bị dự án còn bị động, chưa có chiến lược, chương trình, lĩnh vực ưu tiên gọi vốn hỗ trợ từ nước ngoài. Quá trình chuẩn bị dự án giữa bên Việt Nam và phía nhà tài trợ nước ngoài còn chưa phối hợp hài hoà nên việc chuẩn bị dự án còn lúng túng, kéo dài thời gian thẩm định và phê duyệt dự án. @ Quy trình đấu thầu phức tạp, tổ chức lỏng lẻo xuất hiện tình trạng chạy đua hạ giá bỏ thầu đến mức vượt qua hệ số an toàn về chất lượng công trình, các nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế chưa được làm quen và chưa công khai nên chưa đạt được những chuẩn mực và chất lượng các công trình không đảm bảo. Mặt khác những trang thiết bị phải mua từ các nhà tài trợ vốn ODA với giá cao, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, các khoản thanh toán, lương bổng phải trả rất cao cho các chuyên gia nước ngoài, chịu sự lệ thuộc vào thị trường kỹ thuật công nghệ của nước tài trợ. @ Nhiều dự án do phía nước ngoài tài trợ thiết kế nhưng lại không nắm sát tình hình thực tế của Việt Nam nên phải mất nhiều thời gian điều chỉnh hoàn thiện. @ Vấn đề giải ngân vốn ODA còn chưa hợp lý, không đúng tiến độ của các dự án đã ký kết từ trước nên gây cản trở cho việc giải ngân đối với các dự án tiếp theo và làm chậm tiến độ giải ngân chung. @ Chính sách công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư chưa hợp lý dẫn tới một số dự án trong lĩnh vực giao thông chậm tiến độ thực hiện. @ Chưa có khoản vốn đối ứng phù hợp để kêu gọi, thu hút được các khoản ODA cho những dự án có quy mô lớn. @ Một số cán bộ địa phương còn có những sai lầm trong nhận thức coi ODA như một khoản “ trời cho”, “của chùa” nên không quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của các dự án ODA. Có nhiều địa phương còn cho rằng “chạy” được càng nhiều vốn ODA càng tốt mà không quan tâm đến hiệu quả và khả năng trả nợ. Chúng ta cần hiểu rằng ODA không có nghĩa là cho không mà chủ yếu là các khoản vay ưu đãi sau này phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi vì vậy nếu không sử dụng tốt nguồn vốn này thì sẽ để lại gánh nặng khá lớn trong tương lai. @ Một khía cạnh khác là vốn ODA chưa được sử dụng hiệu quả nên cũng làm giảm tiến độ giải ngân nguồn vốn này như: Dự án cải tạo hệ thống cấp thoát nước TP Hồ Chí Minh cuối năm 1996 ADB đã quyết định tạm ngừng cấp vốn cho dự án này nguyên nhân do tiến độ thực hiện dự án còn chậm nên mới chỉ đưa vào sử dụng được 1.8 triệu USD trong tổng số vốn cấp cho dự án là 7 triệu USD; Một số dự án khác chưa được giải ngân do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực như dự án cảng Hải Phòng, dự án nhà máy nước Thiện Tân, dự án Quốc lộ 18 (đoạn Chế Linh- Phả Lại)... Từ những tồn tại trên dẫn đến việc giải ngân ODA không đạt được kế hoạch đề ra, bình quân trong bốn năm từ 1996 đến năm 1999 chỉ đạt hơn 1,1 tỷ USD/năm; tương đương với 70% kế hoạch đã đề ra. Tại hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam (từ 11- 15/12/1999) ông Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) đã nói: “Việt Nam cần phải giải ngân mỗi năm nhanh hơn 1.5 tỷ USD trong vòng 8 năm tới mới có thể đẩy nhanh mức tăng trưởng”. Hiện tại Việt Nam còn hơn 9 tỷ USD đã cam kết nhưng chưa được giải ngân, đây là một khối lượng vốn lớn nếu được giải ngân sẽ góp phần xây dựng một số những công trình quan trọng thúc đầy nền kinh tế phát triển. Nhưng để thực hiện được điều đó cần có một phương hướng thực hiện đúng đắn mà vấn đề của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhận thức được điều đó trong những năm gần đây Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục hành chính, các văn bản luật, dưới luật cũng như chính trị ngày càng ổn định làm yên tâm các nhà đầu tư rót vốn ODA vào Việt Nam và công tác giải ngân cũng được cải thiện đáng kể, cụ thể là: Từ năm 1995 đến năm 1999 tuy số vốn ODA cam kết cho Việt Nam không tăng là mấy, thậm chí trong 2 năm 1998 và 1999 vốn cam kết có xu hướng giảm, tuy nhiên số vốn được giải ngân qua các năm lại tăng lên rõ rệt, năm 1998 nguồn vốn ODA được giải ngân khoảng 1,43 tỷ USD cao hơn năm 1997 là 415 triệu USD và đạt tỷ lệ giải ngân trên số vốn cam kết là 60%, năm 1999 giải ngân được 1,452 tỷ USD đạt tỷ lệ giải ngân là 69%, đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay cả về mặt tuyệt đối và tương đối. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2000 vốn ODA được giải ngân là 876 triệu USD. Điều đó cho thấy rằng năng lực thực hiện các chương trình dự án ODA của các cơ quan quản lý có tiến bộ rất nhiều, năng lực quản lý Nhà nước được nâng cao. Qua đó ta thấy được vai trò và năng lực của Đảng và Nhà nước cũng như các ban ngành liên quan về việc quản lý đối với các chương trình dự án sử dụng vốn ODA từ đó tạo ra sự tin tưởng đối với các nhà tài trợ. Bên cạnh đó nhà nước ta còn tổ chức tập huấn cho cán bộ 53 tỉnh về các văn bản liên quan đến đấu thầu của Chính phủ. Triển khai nghiên cứu thực hiện hệ thống theo dõi đánh giá các chương trình dự án ODA và nghiên cứu hướng dẫn quy trình rút vốn và lập kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án. Trong những năm gần đây đã có sự ưu tiên để bố trí nguồn vốn đối ứng trong nước nên tiến độ giải ngân đã tăng lên đáng kể. Sự thành công của việc giải ngân vốn ODA trong năm 1998 và năm 1999 một phần nhờ việc bố trí hợp lý nguồn vốn đối ứng trong nước cho các chương trình dự án, đặc biệt là các dự án có giá trị lớn hàng trăm triệu USD như: nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I, cầu Mỹ Thuận đều được bố trí đầy đủ kịp thời theo tiến độ giải ngân. Năm 1998 chính phủ cũng đã ban hành một số Nghị định mới về đền bù và giải phóng mặt bằng, hoàn thiện quy chế đấu thầu điều đó tạo điều kiện thuận lợi tháo gỡ được những vướng mắc lớn trong việc giải ngân nguồn vốn ODA. Chính phủ Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục hành chính đơn giản hơn đã giúp tiến trình giải ngân nguồn vốn ODA được nhanh hơn. Nhìn chung tiến độ giải ngân vốn ODA phải thực hiện theo một quy trình chặt chẽ từ khâu đàm phán ký kết hiệp định, chọn tư vấn, khảo sát lập dự án nghiên cứu khả thi đến khâu đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị. Quy trình này nó đòi hỏi quá trình giải ngân vốn ODA quá dài, nhưng quá trình thực hiện giải ngân vốn ODA chậm chạp chủ yếu do phía Việt Nam. Sử dụng vốn ODA trong sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam. Giai đoạn trước khi Liên Xô và các nước Đông Âuu sụp đổ (trước năm 1991). Trước năm 1991 nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA chủ yếu do Liên Xô và một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cung cấp, nguồn vốn này đã góp phần tạo nguồn ngân sách của Nhà nước và đã giúp ta xây dựng một số công trình, cơ sở hạ tầng quan trọng trong nền kinh tế đến nay nó đang phát huy hiệu quả cung cấp nguồn lực lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình công suất là 1920 KW, thuỷ điện Trị An công suất là 440 KW, nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất là 440 KW, xây dựng cầu Thăng Long... Giai đoạn từ năm 1991 đến nay: Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nguồn vốn ODA từ khu vực này đã bị cắt giảm, với quá ttrình đổi mới của đất nước nguồn viện trợ ODA đã được các nước phương tây và các tổ chức quốc tế nối lại viện trợ cho Việt Nam, nguồn vốn ODA này được ưu tiên sử dụng tập trung vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế xã hội như năng lượng, giao thông vận tải, cấp thoát nước, nông lâm ngư nghiệp, giáo dục và đào tạo, y tế... Tỷ trọng ODA cụ thể đầu tư cho các ngành như sau: năng lượng 25%; giao thông vận tải 19%; tín dụng điều chỉnh cơ cấu 16%; nông lâm thuỷ sản 13%; y tế giáo dục 11%; cấp thoát nước 7% và các lĩnh vực khác chiếm 9%. @ Lĩnh vực năng lượng: Các dự án năng lượng chủ yếu là đập thuỷ điện và nhà máy nhiệt điện, các dự án này có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá như các dự án: Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ i, Phú Mỹ ii, thuỷ điiện Yaly, thuỷ điện Hàm Thuận- Đa Mi, nâng cấp nhà máy nhiệt điện Phả Lại. Ngoài ra còn một số dự án khác như dự án nâng cấp hệ thống mạng lưới điện của thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. @ Lĩnh vực giao thông vận tải: Ngành giao thông vận tải xác định nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng công cộng thuộc lĩnh vực giao thông trong giai đoạn 1996- 2000 khoảng 5 tỷ USD và các dự án đường bộ chiếm 1/2 tổng số vốn đầu tư dự kiến cho toàn bộ ngành giao hông vận tải là 6,2 tỷ USD tương đương 15% tổng vốn đầu tư cho công trình công cộng trong đó nguồn vốn quan trọng nhất là vốn ODA. Hiện nay các nhà tài trợ đã cam kết tài trợ cho hàng chục dự án thuộc lĩnh vực giao thông vận tải với số vốn lên đến hàng tỷ USD trong đó có những dự án có giá trị lớn như dự án xây dựng cầu Mỹ Thuận, cầu Sài Gòn, dự án nâng cấp và cải tạo quốc lộ 5, quốc lộ 1 trên các đoạn Hà Nội - Vinh, Nha Trang- Thành phố Hồ Chí Minh, dự án cải tạo và nâng cấp từng đoạn quốc lộ 18, dự án cải tạo cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn và xây dựng cảng nước sâu Cái Lân, chương trình phát triển 5000 km đường giao thông nông thôn tại 15 tỉnh. Những công trình về cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn, công trình điện lực, thuỷ điện, điện khí hoá nông thôn và chương trình mở mạng điện thoại về nông thôn là những dự án phát triển kinh tế xã hội mang ý nghĩa sâu sắc và nó làm hạn chế những bất bình đẳng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. @ Về lĩnh vực nông lâm nghư nghiệp: Trong lĩnh vực này các dự án đàu tư bằng nguôn vốn ODA đang được tập trung triển khai thực hiện như các dự án khôi phục hệ thống thuỷ lợi Bài thượng- Đô lương, dự án xây dựng hệ thống thuỷ lợi các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên và tp HCM; dự án củng cố đê Hà Nội; chương trình xây dựng đê biển năm tỉnh phía bắc (Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Quảng Ninh); chương trình phục hồi nghề cá và nâng cấp một số cảng cá của 10 tỉnh ven biển, mua trang thiết bị động cơ công suất lớn cho tàu đánh cá, các kho đông lạnh và thiết bị kiểm tra chất lượng hải sản xuất khẩu. Tỷ trọng vốn ODA đầu tư cho lĩnh vực này chiếm 13% và sẽ tăng lên trong những năm tiếp theo vì trong 2 năm gần đây ODA được chú trọng đầu tư cho phát triển nông thôn trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Báo cáo của Việt Nam tại hội nghị tư vấn nhóm các nước tài trợ cho Việt Nam lần thứ 6 tại Paris tháng 12/1998 có viết: “Trong số các hiệp định đã ký kết trong 9 tháng đầu năm 1998 có nhiều dự án quan trọng nhất là các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn như công nghiệp hoá nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển y tế giáo dục và xây dựng một số các trường đại học ở miền núi”. Theo dự kiến của Bộ trưởng bộ Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá thì nguồn vốn ODA năm 1999 và 2000 sẽ chú trọng cho các chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là đầu tư cho 1700 xã đặc biệt khó khăn. @ Về văn hoá giáo dục: Thì tập trung vào các chương trìng xoá đói giảm nghèo, chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc, chương trình giáo dục tiểu học do tổ chức UNICEF tài trợ, chương trình định canh định cư phát triển vùng kinh tế mới và chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình. @ Lĩnh vực cấp nước sạch và vệ sinh môi trường: Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt cho tất cả các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM và rất nhiều nguồn nước sạch vùng nông thôn đặc biệt là các vùng núi như Hoà Bình, Bắc Giang... và vùng đồng bằng sông Cửu Long đã và đang xây dựng và nâng cấp hệ thống cung cấp nước bằng nguốn vốn ODA. @ Các ngành và các lĩnh vực khác có sử dụng vốn ODA như thông tin liên lạc có các dự án tổng đài điện thoại viễn thông nông thôn, dự án mở rộng mạng thông tin di động Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh;dự án tổng đài điện thoại viễn thông tại Hà Nội và TP HCM; công tác nghiên cứu quy hoach điều tra cơ bản như tăng cường trang thiết bị cho cho đài khí tượng thuỷ văn Phú Liễu, quy hoạch phát triển khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, một số các khu vực kinh tế trọng điểm và nhiều dự án quy hoạch các ngành khác cũng được soạn thảo và sử dụng bằng nguồn vốn ODA như quy hoạch năng lượng điện, nghiên cứu nguồn lợi hải sản, nâng cao thể chế pháp luật, ngân hàng, tài chính và cải cách hành chính. Như vậy nhìn chung mục tiêu và nội dung của các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA đều phù hợp với chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là tập trung nguồn vốn ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội trước hết là ngành năng lượng, giao thông vận tải , thuỷ lợi, đổi mới quản lý giáo dục tiểu học, phát triển y tế, văn hoá và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng tài chính. Hiện nay đã có một số dự án hoàn thành đưa vào khai thác phát huy hiệu quả, đem lại lợi ích to lớn cho đất nước như: Nhà máy điện Phú MỹII; quốc lộ 1; quốc lộ 5; bệnh viện Chợ rẫy; bệnh viện Việt Đức (Hà nội); chương trình chăm sóc sức khoẻ; nâng cấp và xây dựng một số trường học bị bão lụt phá huỷ; nâng cấp khoa nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ... trong các năm tới nguồn vốn ODA sẽ tiếp tục được đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng chiến lược. Đó chính là những lĩnh vực then chốt để đem lại phúc lợi xã hội cao và bảo đảm sự phát triển bền vững của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. II. HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN ODA. 1. Qúa trình đàm phán ký kết điều ước quốc tế về ODA. Thủ tướng Chính phủ chỉ định cơ quan thay mặt mình để ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các công trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA.doc
Tài liệu liên quan