MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH 3
I - Khái niệm 3
1. Cạnh tranh 3
2. Khả năng cạnh tranh 4
3. Vai trò của cạnh tranh 5
II - Phân loại khả năng cạnh tranh 6
1. Khả năng cạnh tranh quốc gia 6
2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp 6
3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm 7
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ 8
I – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua 8
1. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ. 16
2. Xuất khẩu sang thị trường EU: 19
3. Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản: 20
II - Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam 22
1. Về chất lượng sản phẩm 24
2. Về giá 25
3. Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng 26
4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi 26
III. Nguyên nhân 26
CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ 31
I. Kiến nghị từ phía doanh nghiệp 31
II. Kiến nghị với Nhà nước và Hiệp hội dệt may Việt Nam 34
1. Kiến nghị với Nhà nước 34
2. Kiến nghị với Hiệp hội dệt may Việt Nam 36
KẾT LUẬN 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1984 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khá.Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch đứng thứ hai sau giày dép. Số liệu thồng kê cho thấy, nếu năm 2003 KNXK hàng dệt may của Việt Nam sang EU chỉ đạt 537,1 triệu USD, đến năm 2004 tăng lên mức 760 triệu USD, năm 2005 tiếp tục tăng lên mức 882,8 triệu USD, năm 2006 vượt qua ngưỡng 1 tỉ USD (đạt 1,245 tỷ USD), năm 2007 đạt 1,432 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2006, tăng 62,2% so với năm 2005, gấp gần 3 lần so với năm 2003.
Theo các chuyên gia thương mại, đặc điểm của khu vực thị trường EU là nhiều thị trường “ngách” có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc mất giá của đồng đôla Mỹ so với đồng Euro là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2008, EU cũng sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng dệt may của các nước( trong đó có Việt Nam) sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc vốn có năng lực cạnh tranh lớn do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại phẩm cấp hàng hoá.
Mặc dù vậy, Bộ Công Thương Việt Nam vẫn tự tin cho rằng, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn có cơ hội không chỉ giữ vững thị trường mà còn có mức tăng trưởng do duy trì tốt thị trường này trong những năm qua.
Theo kế hoạch của Bộ Công Thương Việt Nam, xuất khẩu hàng dệt trong năm 2008 là 9,5 tỷ USD, tăng 23,4% so với năm 2007. Trong đó dự kiến các thị trường chính như sau: Thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6-1,8 tỷ USD, thị trường Nhật đạt khoảng 800 triệu USD.
Bộ Công Thương Việt Nam cho biết, Hoa Kỳ và EU đang có đề xuất trong khuôn khổ WTO về dự thảo thoả thuận quy định về nhãn mác đối với hàng dệt may, giày dép và hàng du lịch. Theo đó, hàng dệt may xuất khẩu cần phải có nhãn mác nêu rõ xuất xứ hàng hoá, thành phần vải và hướng dẫn sử dụng. Với đề xuất này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần nghiên cứu kỹ và chuẩn bị cho việc nhận đơn hàng và sản xuất của mình cho phù hợp.
Trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang hai thị trường truyền thống Mỹ và EU đạt được mức tăng trưởng thấp thì xuất khẩu mặt hàng này của nước ta sang các thị trường Đông Bắc lại tăng trưởng rất khả quan.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong năm 2008, xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 820 triệu USD, tăng 16,38% so với năm 2007, cao hơn nhiều so với mức tăng 12% của năm 2006.
Nhìn lại diễn biến tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong năm 2008 ta thấy sự nỗ lực bứt phá mạnh của các doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này đặc biệt từ tháng 7 đến cuối năm. Vào tháng 8/2008, KNXK hàng dệt may sang Nhật Bản lần đầu tiên tăng vọt và vượt xa mức đỉnh 78 triệu vào năm 2007, đạt trên 113 triệu USD. Và đến tháng 12, kim ngạch đạt trên 79 triệu USD, tăng 20 triệu so với cùng kỳ năm 2007. Kết quả này có thể coi là tiền đề để tạo đà cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường này sẽ có nhiều đột phá trong năm 2009, trong bối cảnh hàng dệt may của nước ta sang các thị trường lớn đang gặp khó khăn.
Năm 2009, hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản không phải chịu thuế nhập khẩu, điều này sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho hàng dệt may xuất khẩu của nước ta. Dự báo, năm 2009, KNXK mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản tăng 20% so với năm 2009.
Tháng 12/2009, KNXK hàng dệt may của Việt Nam là 882 triệu USD, tăng 20,8% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này năm 2009 lên 9,06 tỷ USD, giảm 0,6% so với năm 2008.
Năm 2009, Hoa kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam, chiếm tỷ trọng xuất khẩu lần lượt là 55,1%; 18,2% và 10,5% trong tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tuy nhiên so với năm 2008, chỉ có xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là có tốc độ tăng trưởng dương (tăng 16,3%), đạt kim ngạch 954 triệu USD còn thị trường Hoa Kỳ đạt 4,99 tỷ USD, giảm 2,2% và EU đạt 1,65 tỷ USD, giảm 3,1%.
Trong tháng 12/2009 trị giá nhập khẩu nguyên phụ liệu là 730 triệu USD, tăng 6,6% so với tháng 11/2009. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là gần 400 triệu USD, tăng 4,5%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 191 triệu USD, tăng 0,6%; xơ sợi dệt là gần 94 triệu USD, tăng 14,8% và bông 44,5 triệu USD, tăng 20,4%.
Hết tháng 12/2009, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày có kim ngạch là 7,36 tỷ USD, giảm 8,5% so với năm 2008. Trong đó, nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 4,6 tỷ USD, giảm 6,2% so với năm 2008.
Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm qua là: Trung Quốc: 2,09 tỷ USD, Đài Loan: 1,47 tỷ USD, Hàn Quốc: 1,44 tỷ USD, Nhật Bản: 466 triệu USD, Hồng Kông: 415 triệu USD.
Tổng KNXK tháng 1 năm 2010 đạt 5,01 tỷ USD, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,39 tỷ USD, giảm 6,4% so với tháng 12/2009 và chiếm 47,7% tổng KNXK hàng hoá của cả nước.
Xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 810 triệu USD, giảm 8,2% so với tháng 12/2009. Hàng dệt may là mặt hàng dẫn đầu về KNXK và chiếm gần 16,2% tổng KNXK của cả nước trong tháng 1/2010.
Trong tháng, Hoa Kỳ và EU vẫn là hai thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ đạt kim ngạch là 468 triệu USD và EU đạt kim ngạch là 136 triệu USD.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trường : thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch. Trong các thị trường xuất khẩu đó thì ba thị trường quan trọng nhất là: thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường Nhật Bản với tình hình xuất khẩu cụ thể như sau:
1. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Trong 6 tháng đầu năm 2008, KNXK hàng dệt may của nước ta sang Mỹ đạt 2,394 tỷ USD, tăng 17,24%, thấp hơn so với tốc độ tăng xuất khẩu sang các thị trường như EU, Nga, Canada… và đặc biệt tăng thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 32% của năm 2007.
Nguyên nhân khiến xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Mỹ tăng chậm là do kinh tế nước này suy giảm mạnh tốc độ tăng trưởng và có nguy cơ rơi vào suy thoái. Chính những khó khăn của nền kinh tế đã khiến nhập khẩu hàng hoá của Mỹ 6 tháng đầu năm nay giảm, nhất là ở mặt hàng tiêu dùng. Như đã thống kê, KNXK hàng dệt may của Mỹ 5 tháng đầu năm nay giảm 4% so với cùng kỳ. Nhưng nhập khẩu từ Việt Nam trong thời gian này vẫn tăng 25,51%.
Như vậy, mặc dù xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ 6 tháng đầu năm đạt thấp so với kế hoạch nhưng trong bối cảnh suy giảm của kinh tế Mỹ thì KNXK hàng dệt may những tháng đầu năm 2008 của nước ta sang thị trường này tăng tới 17,24% vẫn là một tín hiệu tốt. Đây sẽ là cơ sở để xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Mỹ sẽ tiếp tục duy trì và sẽ bứt phá mạnh khi kinh tế Mỹ thoát ra khỏi những khó khăn hiện nay và tăng trưởng cao trở lại.
Suy thoái kinh tế đã khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ. Trong quý I/2009, KNXK hàng dệt may của cả nước sang thị trường Mỹ giảm 4,46% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi đó cùng kỳ năm 2008 và so với 2007 chỉ số này tăng 18,86%.
Riêng tháng 3 năm 2009, KNXK mặt hàng này của Việt Nam sang Mỹ đã tăng 18% so với tháng 2/2009, nhưng vẫn giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 361 triệu USD.
Các mặt hàng có KNXK chính đều giảm là áo thun, quần short, áo sơ mi, áo jacket, quần áo trẻ em, quần áo bơi, quần áo vest, quần áo thể thao, găng tay, áo len, khăn….Cụ thể:
+ KNXK áo thun giảm nhẹ 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 327 triệu USD. Bên cạnh đó, xuất khẩu quần short giảm mạnh trên 25,2% so với cùng kỳ năm 2008.
+ KNXK mặt hàng áo sơ mi và áo jacket cùng xu hướng giảm lần lượt 10,6%; 11,5% so với cùng kỳ năm 2008, đạt lần lượt 52,3 triệu USD và 52 triệu USD.
+ KNXK các mặt hàng khác như quần áo, đồ lót, váy, áo khoác, quần áo ngủ…vẫn duy trì mức tăng trưởng trong quý I như: quần tăng 3,5%, đạt 180,4 triệu USD; váy tăng 4,8%, đạt 87,1 triệu USD; đồ lót tăng 161,9% đạt 24,8 triệu USD; áo khoác tăng 23,5%,d dạt 23,1 triệu USD; quần áo ngủ tăng 3,14%, đạt 15,4 triệu USD…
Mặc dù KNXK mặt hàng khác có mức tăng trưởng khả quan so với cùng kỳ năm 2008 nhưng kim ngạch thấp. Cụ thể:
+ KNXK quần Jean tăng 1269,3%, đạt 6,28 triệu USD
+ KNXK sợi tăng 7.041,1% , đạt 4,0 triệu USD
+ KNXK khăn bông tăng 2580%, đạt 1,5 triệu USD
Tham khảo một số chủng loại hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong quí I/2009:
Chủng loại
Lượng
(cái)
Trị giá
(USD)
Đơn giá
(USD/cái)
Áo thun
97.183.545
327.081.948
3,37
Quần
33.453.053
180.478.550
5,39
Quần short
25.420.778
107.790.010
4,24
Váy
15.158.399
87.137.359
5,75
Áo
18.494.877
67.412.679
3,64
Áo sơ mi
10.337.246
52.325.490
5,06
Áo jacket
4.885.609
52.034.069
10,65
Quần áo trẻ em
46.848.956
Đồ lót
24.876.670
Áo khoác
2.701.178
23.181.144
4,50
Quần áo bơi
20.834.526
Quần áo ngủ
15.460.392
Quần áo các loại
9.210.832
Quần áo vest
7.504.685
Sợi
4.029.732
Áo y tế
1.528.475
3.589.910
2,35
Găng tay
3.190.900
Áo len
524.135
2.907.888
5,55
Khăn
1.886.208
Khăn bông
1.505.716
Vải
1.413.977
Hàng may mặc
1.152.478
Áo nỉ
193.128
1.033.531
5,35
Bít tất
990.005
Quần áo BHLĐ
932.716
Áo ghilê
175.645
907.530
5,17
Quần áo thun
591.435
Khăn lông
576.327
PL may
497.106
Áo gió
31.798
284.278
8,94
Quần áo jacket
191.671
Màn
156.204
Áo lễ hội
18.409
94.765
5,15
Tạp dề
39.919
Quần áo mưa
30.570
Khăn bàn
22.835
Tủ vải
22.731
2. Xuất khẩu sang thị trường EU:
Đúng như dự đoán của Thông tin Thương mại, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang EU vẫn tăng trưởng rất tốt cho dù xuất khẩu sang Mỹ tăng chậm. Trong 6 tháng đầu năm 2008 KNXK sang EU đạt 771 triệu USD, tăng 20,28% so với nửa đầu năm 2007.
Tháng 1/2009, KNXK hàng dệt may của nước ta sang thị trường EU đạt 102 triệu USD, giảm 39% so với tháng 1 năm 2008, đạt 102 triệu USD.
Trong đó, xuất khẩu dệt may sang Đức đạt 42,3 triệu USD, chiếm 41,5% trong tổng KNXK mặt hàng dệt may vào thị trường Đức. Tiếp đến là thị trường Tây Ban Nha, KNXK sang thị trường này đạt 23,1 triệu USD, tăng 6,28% so với tháng 1/2008.
Ngoài ra, một số thị trường khác mà hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang cũng đạt kim ngạch khá cao trong tháng 1/2009. Cụ thể:
- Xuất sang Anh đạt trị giá 18,9 triệu USD
- Xuất sang Hà Lan đạt 11,8 triệu USD
- Xuất sang Italia đạt 11,4 triệu USD
- Xuất sang Pháp đạt 10,5 triệu USD
- Xuất sang Bỉ đạt 5,4 triệu USD
- Xuất sang CH Séc đạt 4,1 triệu USD.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 1/2009, xuất khẩu áo jackét và áo khoác của nước ta sang EU tiếp tục tăng trưởng khá. Xuất khẩu áo jackét tăng 11% về lượng và tăng 10% về trị giá so với tháng 1 năm 2008, đạt 1,7 triệu chiếc và 28,2 triệu USD. Đơn giá áo jackét xuất khẩu giảm nhẹ, đạt trung bình 16,01 USD/chiếc. Tương tự xuất khẩu áo khoác của nước ta sang EU tăng 18,9% về lượng và tăng 38,78% về trị giá so với tháng 1 năm ngoái, đạt 1,34 triệu chiếc và 10,8 triệu USD. Đơn giá áo khoác xuất khẩu tăng khá cao, tăng 16,6%, đạt trung bình 8,01 USD/chiếc.
Đáng chú ý, giá áo sơmi xuất khẩu của nước ta sang EU tăng cao, tăng 30%, đạt trung bình 6,54 USD/chiếc. Vì vậy, dù khối lượng xuất khẩu áo sơ mi giảm 22%, nhưng KNXK vẫn tăng 1% so với tháng 1 năm 2008.
Trong khi đó, xuất khẩu mặt hàng quần dài, áo thun giảm khá mạnh. Xuất khẩu quần dài của ta sang EU giảm 38% về lượng và giảm 25% về trị giá; xuất khẩu áo thun giảm 21% về lượng và giảm 17% về trị giá.
3. Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản:
Trong 6 tháng đầu năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản vẫn tăng chậm, chưa có sự bứt phá với kim ngạch đạt 365 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này sẽ thuận lợi sau khi Việt Nam và Nhật Bản ký hiệp định thương mại hợp tác song phương. Khi đó, hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật Bản nếu có nguyên phụ liệu nội địa hoặc từ khối Asean, Nhật Bản sẽ không còn bị đánh thuế nhập khẩu (0%) so với thuế suất hiện nay là 10%.
Về chủng loại, trong năm 2008, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Nhật Bản đạt được mức tăng trưởng khá chủ yếu nhờ KNXK các mặt hàng áo kimono, áo thun, áo sơ mi, khăn bông, váy… tăng mạnh so với năm 2007. Cụ thể, KNXK áo kimono sang Nhật Bản đạt cao nhất với mức tăng trưởng mạnh, gần 131 triệu USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Tiếp đến là mặt hàng quần, đạt 118,29 triệu USD, nhưng giảm 5,7% so với năm 2007, áo thun là mặt hàng có tốc độ tăng mạnh nhất với 161,1%, đạt 81,37 triệu USD. Ngoài ra, một số mặt hàng cũng đạt được tốc độ tăng trưởng cao như áo sơ mi tăng 36,3%, váy tăng 59%…
Về doanh nghiệp: Theo số liệu thống kê, năm 2008 có 575 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản, tăng 10 doanh nghiệp so với năm 2007. Trong đó, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lần đầu sang thị trường này khá lớn và nhiều doanh nghiệp đạt được kim ngạch xuất khẩu cao. Có khoảng 10 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1-5 triệu USD.
Trong năm 2008, Tổng công ty may Việt Tiến là đơn vị đi đầu trong xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản cả về trị giá và tốc độ tăng trưởng, đạt 56,3 triệu USD, tăng 36% so với năm 2007.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 1/2009, KNXK hàng dệt may của nước ta sang Nhật Bản đạt 66 triệu USD, tăng 2,2% so với tháng 1 năm 2008. Đây là tín hiệu tích cực đối với ngành dệt may Việt Nam, trong bối cảnh xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang các thị trường chủ chốt Mỹ và EU chậm lại.
Trong tháng 1/2009, xuất khẩu áo thun của nước ta sang Nhật bản đã tăng 100% về lượng và 106% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,58 triệu chiếc và 10,5 triệu USD. Đơn giá áo thun xuất khẩu của các doanh nghiệp nước ta cũng tăng nhẹ 2,56%, đạt trung bình 4,09 USD/chiếc.
Cụ thể: xuất khẩu một số mặt hàng dệt may của Việt Nam trong tháng 1/2009 như sau:
KNXK mặt hàng đồ lót tăng 8,4% so với tháng 1 năm ngoái, đạt 6,5 triệu USD.
Xuất khẩu quần jean của nước ta tăng 68% về lượng và tăng 73% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 341 ngàn chiếc và 3,4 triệu USD. Đơn giá xuất khẩu quần jean của nước ta cũng tăng nhẹ 2,82%, đạt trung bình 9,46 USD/chiếc.
Xuất khẩu áo khoác cũng tăng 51% về lượng và tăng 30% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 218 ngàn chiếc, trị giá 3,1 triệu USD. Đơn giá xuất khẩu trung bình đạt 14,33 USD/chiếc.
Tuy nhiên, cũng có một số chủng loại dệt may xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, xuất khẩu áo kimono trong tháng 1/2009 giảm 19% về lượng và giảm 43% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, còn 32,6 ngàn chiếc, trị giá 5 triệu USD. Giá áo xuất khẩu cũng giảm khá nhiều, giảm 30% còn trung bình 154 USD/bộ. Mặt hàng bít tất cũng giảm 11,2% về lượng và giảm 31,4% về trị giá, đạt 823,9 ngàn chiếc, trị giá 494,5 ngàn USD. Giá xuất khẩu trung bình ở mức 0,60 USD/chiếc.
Xuất khẩu quần short đạt 166,9 ngàn chiếc, trị giá 1 triệu USD, giảm 12% về lượng và 21% về trị giá so với tháng 1/2008. Giá xuất khẩu quần short trung bình đạt 6,32 USD/cái.
Theo Hội dệt may- thêu đen TP.Hồ Chí Minh, Tập đoàn Uniqlo, nhà nhập khẩu và phân phối hàng dệt may hàng đầu của Nhật Bản đã lên kế hoạch và sẽ có chuyến khảo sát, tìm hiểu, xúc tiến với khoảng 50 doanh nghiệp dệt may xuất khẩu có uy tín tại TP.HCM vào thời gian tới.
Chuyến đi này sẽ mở ra nhiều dấu hiệu khả quan trong tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Nhật Bản trong năm 2009. Do được ưu đãi thuế quan trong Hiệp định thương mại Việt- Nhật, nên hiện nhiều nhà nhập khẩu đã chuyển một phần đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam.
II - Thực trạng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
Khả năng cạnh tranh của hàng may mặc nước ta hiện nay còn yếu so với các nước trong khu vực và thế giới. Năm 1997, Canada xoá bỏ hạn ngạch, mặt hàng áo sơ mi của Việt Nam đã không đủ khả năng cạnh tranh và phải rút khỏi thị trường Canada. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Đặc biệt, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu hàng dệt may từ các nước Asean vào Việt Nam sẽ giảm từ 40-50% xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực.
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15%công suất dệt.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài...
Năm 2000, ngành dệt may Việt Nam tuy đã có nhiều yếu tố thuận lợi để tạo đà có tiến trình hội nhập sắp tới như Quota thị trường EU được tăng 30%, bước đầu mở được thị trường Mỹ và thị trường vùng Trung Cận Đông, châu Phi; kinh tế Nhật Bản đang hồi phục khiến cho thị trường này tiêu thụ hàng dệt may Việt Nam tăng hơn trước. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may cũng gặp không ít khó khăn do giá sản phẩm giảm liên tục, giá cả ở thị trường Nhật từ năm 1998 giảm bình quân 12% mỗi năm do áp lực cạnh tranh của hàng Trung Quốc. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc biệt thị trường phi Quota, trong đó thị trường Đông Âu giảm mạnh từ giữa năm.... Do vậy, theo đánh giá của ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam: chỉ tiêu xuất khẩu của toàn ngành hết năm 2000 ước chỉ đạt 1.870 triệu USD, tăng 6% so với mức thực hiện năm 1999; trong đó, Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (VINATEX) ước đạt 550 triệu USD, tăng 12% so với năm 1999.
Vấn đề cần quan tâm hiện nay là khoảng 70% KNXK hàng dệt may vào Eu được thực hiện qua các khâu trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... Vì vậy, làm sao Việt Nam có thể tiếp cận và bán hàng trực tiếp sản phẩm dệt may, giảm bớt phụ thuộc vào các nhà đặt hàng trung gian, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào EU, mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi... còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doanh nghiệp có thể sản xuất được. Do đó, trên thực tế, nhiều mặt hàng có hạn ngạch nhưng lại chưa có doanh nghiệp xuất khẩu.
Đầu năm 2002, EU xoá bỏ hạn ngạch áo Jacket, mặc dù đây là mặt hàng truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam nhưng KNXK áo Jacket vào EU năm 2002 giảm đáng kể chỉ còn 2/3 và đến năm 2003 chỉ còn 1/2 so với năm 2002. Mặc dù đây là hai mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng khả năng khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Sự hạn chế của các mặt hàng dệt may xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau:
1. Về chất lượng sản phẩm
Các sản phẩm may mặc Việt Nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa cao, không đồng đều, đến hơn 60% tổng KNXK là làm gia công cho nước ngoài, có nghĩa là làm theo mẫu và theo yêu cầu chất lượng của bên nước ngoài. Còn trong số xuất khẩu trực tiếp thì hầu hết là đáp ứng cho phân đoạn thị trường có nhu cầu “bình dân” yêu cầu về chất lượng thấp, giá rẻ, chỉ có một số ít sản phẩm đủ tiêu chuẩn đáp ứng cho những phân đoạn thị trường có nhu cầu chất lượng cao. Nếu đánh giá theo chỉ số trình độ chất lượng thì hàng may mặc xuất khẩu nước ta có chất lượng còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
2. Về giá
Tính tỷ lệ giá/ chất lượng hàng may Việt Nam có tỷ lệ cao, do đó khả năng cạnh tranh về giá cho hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta trong thời gian tới.
Tham khảo giá hàng dệt may
xuất khẩu ngày 21/1/2010
Mặt hàng
ĐVT
Giá
Cửa khẩu
HTS 6209309000 Cat 239 quần trẻ em chất liệu sợi tổng hợp
USD/cái
3.8
ICD Bắc Hà Nội
HTS 6203424011 Cat 347 quần dài nam 131 su108005b Size26 vải 100% cotton dệt
USD/tá
109.93
Cảng Phú Mỹ Vũng Tàu
HTS 6104420010 Cat 336 đầm thun – 254778
USD/cái
9.51
Cảng SP –PSA Vũng Tàu
HTS 6104.63.2006 Cat 648 (Size S/M/L/XL)
USD/cái
5.22
Cảng Tổng hợp Bình Dương
Áo khoác nữ Cat 335
USD/cái
19.8
Kho CFS Cty cổ phần NamLiên
HTS 6110202069 Cat 338 áo thun nam. MHRU4672(CHH-106201C)S
USD/cái
3.27
Kho CFS Cty TNHH Tân Hoàn Cầu
(Vinanet)
3. Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng
Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu còn “hẹp”, chủ yếu tập trung vào những mặt hàng được cấp hạn nghạch như : áo sơ mi, áo Jacket và tập trung vào một số thị trường chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Khả năng đổi mới mặt hàng và tạo ra các mặt hàng mới còn chậm nên khả năng cạnh tranh để mở rộng thị trường còn nhiều hạn chế. Vào đầu năm 2005, khi hàng dệt may xoá bỏ hạn ngạch, các mặt hàng truyền thống của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, phải cạnh tranh không cân sức với các mặt hàng của Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… vốn đã có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và khi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn “hẹp” nếu bị “tổn thương” sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu của ngành may mặc nước ta.
4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi
Để luôn luôn giao hàng đúng hạn, đặc biệt đối với thị trường có khoảng cách xa như thị trường Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp vẫn là một vấn đề hết sức khó khăn. Việc không thường xuyên giao hàng đúng hạn, có những sản phẩm không đúng quy cách, chất lượng không phù hợp và chậm trễ trong vấn đề giải quyết khiếu nại không những làm giảm uy tín của các doanh nghiệp mà còn hạn chế khả năng cạnh tranh của các mặt hàng.
III. Nguyên nhân
Ngành dệt may Việt Nam đang dần đánh mất lợi thế cạnh tranh so với nhiều nước khác khi giá nhân công đang nhích dần lên trong khi năng xuất lao động giảm và không tuân thủ quy trình pháp lý.
Những tồn tại và hạn chế trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, một khoảng thời gian dài các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi của hàng dệt may, cho nên đã phần nào không kích thích được các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới, mở rộng mặt hàng mà có xu hướng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hạn ngạch.
Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp may mặc Việt Nam kể cả các doanh nghiệp có quy mô lớn, có cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng thiết bị và công nghệ sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu các thiết bị có tính chuyên dùng, chưa đáp ứng yêu cầu mới, năng suất lao động thấp, đặc biệt các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường làm gia công thì thiết bị rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Do đó làm sản phẩm may mặc nước ta có chất lượng thấp, không ổn định, chi phí cao, kém khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thứ ba, khả năng cung cấp các thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào cho ngành may mặc nước ta phụ thuộc vào nhập khẩu. Hầu hết các thiết bị, nguyên phụ liệu đầu vào cung cấp cho ngành may phải nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá thấp, giá nhập khẩu và chi phí nhập khẩu cao sẽ bất lợi cho sản xuất kinh doanh, trong đó phải kể đến khâu yếu nhất là nguyên, phụ liệu dệt- may. Để thấy rõ về vấn đề này, ta cùng đi xem xét tình trạng ở một số doanh nghiệp dệt- may cụ thể thông qua ý kiến của lãnh đạo các công ty này.
Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần may Nhà Bè Phạm Phú Cường cho biết, Tổng công ty chỉ sử dụng được 20% nguyên liệu và 50% phụ liệu trong nước, còn lại đều phải nhập từ nước ngoài. Năm 2009, KNXK nguyên liệu, phụ liệu của Tổng công ty là 150 triệu USD, trong khi KNXK là 240 triệu USD. Nguyên liệu, phụ liệu sản xuất trong nước chưa phong phú, đa dạng, giá bán lại cao hơn hàng nhập khẩu từ 5% đến 10% là lý do khiến doanh nghiệp này phải nhập khẩu phần lớn các loại nguyên liệu, phụ liệu.
Năm 2009, KNXK của Công ty cổ phần may Ðồng Nai đạt 31,5 triệu USD. Con số này không hề sụt giảm so với năm 2008 mặc dù công ty gặp nhiều khó khăn do nhiều đối tác giảm đơn hàng. Thế nhưng theo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25611.doc