Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh trong nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người mua, người bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán trên thị trường mục tiêu.
- Với nổ lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phát triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại. Điều này đòi hỏi phải có chuyên môn cao mà ở những nước đang phát triển thì việc này rất khó.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xem xét làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm và đóng góp hàng hoá đáp ứng với tiêu chuẩn quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có phòng giám sát chất lượng hay các chuyên gia quản lý chất lượng. Các quy định của thị trường xuất khẩu hay khách hàng nước ngoài có thể đòi chất lượng hay quy cách phẩm chất cao hơn. Việc đóng gói hàng hoá do vậy phải là một công cụ tiếp thị sản phẩm đầy quyền lực. Các quy định đóng gói mới phải được giới thiệu để bảo vệ môi trường.
- Giá cả là động lực thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Do vậy việc nâng cao năng lực sản xuất và giảm chi phí là đặc biệt quan trọng. Các doanh nghiệp ở nước ta nên được tư vấn về kỹ thuật định giá và chi phí cạnh tranh.
- Việc tiết kiệm chi phí có thể đạt được từ 15% đến 20% nhờ vào việc đặt kế hoạch cung cấp hàng hoá một cách cẩn thận. Tuy nhiên, chỉ một số ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã tận dụng kỷ năng này và đạt được mức tiết kiệm trên. Còn phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quen bằng lòng với các nhà cung cấp truyền thống với số lượng hàng hoá lớn làm cho chi phí nhập khẩu quá mức cần thiết.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9862 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n so với các doanh nghiệp trong ngành.
Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng cũng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp.
1.2.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực.
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Ban Giám đốc Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý ở cấp Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân
* Ban Giám đốc DN. Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những công ty lớn ngoài Ban Giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Các thành viên Ban Giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu lợi nhuận, mà còn cả lợi ích - uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân.
Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Nguồn lực vật chất và tài chính.
* Máy móc thiết bị và công nghệ:
Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc hậu.
* Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và cũng cố của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và kể cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động, từ đó “gạn đục, khơi trong” tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phần 2
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HOÁ
2.1. Những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Khi nói tới DNV&N nói chung, chúng ta đều nghĩ đến đặc điểm chung nhất đó là: số lượng lao động ít, trình độ không cao; nhu cầu về vốn đầu tư nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh; chi phí sản xuất cao do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp lớn vì vậy vị thế của các DNV&N trên thị trường nhỏ. Các DNV&N bị hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu rộng nhưng lại có ưu thế trong việc đáp ứng nhu cầu đặc thù; các doanh nghiệp này dễ phân tán và ít gây tác động mạnh tới nền kinh tế – xã hội
Các DNV&N ở Việt Nam hiện nay ngoài những đặc điểm trên còn có những đặc điểm cơ bản sau:
- Sự phát triển của các DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động thăng trầm đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng
- Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển nền sản xuất nhỏ là phổ biến, do đó các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có diện rộng phổ biến.
- Phần lớn các DNV&N trong khu vực ngoài quốc doanh mới thành lập, thiếu kiến thức kinh doanh cha quen với thị trờng. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ còn chịu ảnh hởng nặng nề của cơ chế cũ; máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, bế tắc về thị trường tiêu thụ.
- Về sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước (có trên 4000 DNV&N) và sở hữu tư nhân (trên 17000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, trên 1,8 triệu hộ kinh tế các thể hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT).
- Về hình thức tổ chức bao gồm các loại hình: Doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ kinh tế cá thể.
- Trình độ quản lý trong các DNV&N còn rất hạn chế thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm. Trình độ văn hoá kinh doanh còn thấp tồn tại nhiều tiêu cực.
- Các DNV&N ở nước ta phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Xu hớng tập trung vào các ngành ít vốn thu hồi vốn nhanh, lãi xuất cao như thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
- Nhà nớc chỉ mới có các định hớng lớn khuyến khích DNV&N, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính của Nhà nớc còn hạn chế.
2.2. Những lợi thế và bất lợi trong cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
2.2.1 Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Chúng gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất việc làm cao hơn
- Hệ thống to chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp.
- Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ- thợ) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẽ.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
2.2.2 Những bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Công nghệ lạc hậu, trình độ chuyên môn hoá thấp, quy mô rất nhỏ (nếu xét theo tiêu chí DNVVN của thế giới): 76% máy móc, thiết bị thuộc thế hệ những năm 50 – 60, trong đó 70% đã hết khấu khao.
- Thiếu vốn, khó tiếp cận với các nguồn tín dụng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
- Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản, có trình độ tay nghề, yên tâm với công việc: Theo điều tra mới đây, cả nước có 10,2% lựu lượng lao động đã qua đào tạo có trình độ đào tạo từ công nhân kỹ thuật trở lên. Trong số 2,5 triệu công nhân chỉ có 4000 công nhân bậc cao (gần bằng 0,2%), 36% đào tạo theo tiêu chuẩn quốc gia, 39,3% đào tạo ngắn hạn còn lại chưa qua đào tạo.
- Thiếu mặt bằng sản xuất. Hiện nay đây là vấn đề rất khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó hạn chế không ít đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp này
- Thiếu thông tin. Sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Phòng thương mại, các hiệp hội để hình thành các mạng lưới trao đổi, cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế.
- Khả năng tiếp cận thị trường còn yếu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể tự tìm được khách hàng, chưa có mạng lưới khách hàng, chưa có kinh nghiệm thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết của các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường nước ngoài và xu thế của nó, về các nghiệp vụ ngoại thương, các quy định của quốc tế, của các nước khác và ngay của nước ta liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu đáo. Nhiều chủ doanh nghiệp (đặc biệt ở địa phương) sản xuất những mặt hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Những hạn chế đó nhiều khi dẫn đến sự phức tạp, rủi ro không đáng có. Ngay cả rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại. Số lượng các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh nhân nước ngoài không cần phiên dịch không nhiều.
- Do tình trạng sản xuất manh mún nên sản phẩm của các doanh nghiệp này thiếu tính đồng bộ về tiêu chuẩn, về chất lượng, kỹ thuật. Việc thu gom hàng để xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam ở một số thị trường thế giới vẫn bị phân biệt, đối xử, chịu những rào cản thương mại như : thuế quan cao hơn, các biện pháp bảo vệ vệ sinh - dịch tả và tiêu chuẩn kỹ thuật, làm cho khả năng xâm nhập thị trường của hàng Việt Nam giảm xuống.
- Một số thủ tục hành chính còn chưa tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng những tư tưởng mới vào kinh doanh, phát huy tính năng động, linh hoạt - một ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong môi trường còn có đối xử chưa bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa nhận được sự quan tâm và hỗ trợ thích đáng, kịp thời của Nhà nước.
Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã buộc các chủ doanh nghiệp phải tìm cách tháo gỡ, khắc phục nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tê.
2.3. Hội nhập thị trường thế giới: cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp đóng góp 25% GDP, giải quyết việt làm cho gần 8 triệu lao động, tiến tới khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước, đóng góp khoảng 31% tổng giá trị công nghiệp. Một nét đặc biệt của DNV&N Việt Nam là tham gia khá tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này để giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài có ý nghĩa quạn trọng đối với quá trình hội nhập của Việt Nam.
2.3.1. Những cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội nhập ở Việt Nam
- Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhanh hơn. Là nước chậm phát triển, tổng cầu của Việt Nam thấp dẫn đến cơ hội để các doanh nghiệp tự tích luỹ không cao. Hội nhập sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng hợp tác thu hút vốn đầu tư, đổi mới thiêt bị và công nghệ, thúc đẩy sản xuất và mở rộng thêm thị trường, nâng cao mức tích luỹ.
- Toàn cầu hoá sẽ đẩy mạnh giao lưu, làm cho quan hệ trao đổi ngày càng thông thoáng bên trong, rộng mở bên ngoài. Với tư cách là người tiêu thụ các thiết bị kỹ thuật, máy móc và là khách hang của một số dịch vụ quốc tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm phù hợp với giá cả thấp hơn. Đồng thời thị trường rộng lớn hơn sẽ giúp các doanh nghiệp giảm bớt được sức ép do chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn lại.
- Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, khoảng cách không gian được dần dần cải thiện, thông qua mạng lưới viễn thông toàn cầu các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận được thị trường xa xôi.
- Mặc dù là nước kém phát triên nhưng so sánh các nước có cùng trình độ kinh tế, thì tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực nước ta ở mức khá cao. Đây là một lợi thế lớn nếu được phát huy sẽ trở thành một nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công của doanh nghiệp nhất là khi thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế hậu công nghiệp.
2.3.2. Những thách thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội nhập ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh trong nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người mua, người bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán trên thị trường mục tiêu.
- Với nổ lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phát triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại. Điều này đòi hỏi phải có chuyên môn cao mà ở những nước đang phát triển thì việc này rất khó.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xem xét làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm và đóng góp hàng hoá đáp ứng với tiêu chuẩn quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có phòng giám sát chất lượng hay các chuyên gia quản lý chất lượng. Các quy định của thị trường xuất khẩu hay khách hàng nước ngoài có thể đòi chất lượng hay quy cách phẩm chất cao hơn. Việc đóng gói hàng hoá do vậy phải là một công cụ tiếp thị sản phẩm đầy quyền lực. Các quy định đóng gói mới phải được giới thiệu để bảo vệ môi trường.
- Giá cả là động lực thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Do vậy việc nâng cao năng lực sản xuất và giảm chi phí là đặc biệt quan trọng. Các doanh nghiệp ở nước ta nên được tư vấn về kỹ thuật định giá và chi phí cạnh tranh.
- Việc tiết kiệm chi phí có thể đạt được từ 15% đến 20% nhờ vào việc đặt kế hoạch cung cấp hàng hoá một cách cẩn thận. Tuy nhiên, chỉ một số ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã tận dụng kỷ năng này và đạt được mức tiết kiệm trên. Còn phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quen bằng lòng với các nhà cung cấp truyền thống với số lượng hàng hoá lớn làm cho chi phí nhập khẩu quá mức cần thiết.
- Công nghệ lạc hậu có thể làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí và làm sản phẩm không cạnh tranh được. Rất nhiều công nghệ lạc hậu cũng gây ô nhiễm cao. Sớm hay muốn thì những doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng công nghệ lạc hậu sẽ bị loại khỏi thị trường.
- Kiến thức, kỷ năng và kinh nghiệm sẽ sớm trở nên lạc hậu nếu không được nâng cao liên tục. Khi bằng cấp ngày càng trở nên phổ biến thì các doanh nghiệp ở nước ta lại ít tiếp cận với đào tạo thực tế, điều mà họ thực sự cần.
2.4. Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống mức 0- 5% đối với mặt hàng trong danh mục IL (cắt giảm ngay) và TEL (cắt giảm tạm thời). Khi đó sự bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không còn tác dụng, hàng Việt Nam liệu có cạnh tranh được với hàng nước ngoài tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được không? Chúng ta cần xem xét thực trạnh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sức cạnh tranh của sản phẩm đầu ra được quyết định bởi 4 yếu tố chính: giá bán (thấp), chất lượng (cao), tổ chức tiêu thụ (hợp người tiêu dùng) và uy tín của doanh nghiệp (cao). Đại đa số sản phẩm của DNV&N đều yếu kém hơn sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN hoặc của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sự yếu kém đó bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, giá đầu vào cao
Theo điều tra 800 DNV&N do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tiến hành mới đây cho thấy các DNV&N chỉ chiếm 2,87 điểm (theo thang điểm từ 1 đến 5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong nước được các DNV&N đánh giá ở mức 3,55 điểm. Đặc biệt so với năm 1999, thang điểm về sức cạnh tranh của các DNV&N tại thị trường trong nước đã tăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong cạnh tranh của các DNV&N chỉ thực sự mạnh mẽ tại thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo điều tra trên có tới 29% DNV&N trong số 800 doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên phụ liệu nhập khẩu, thậm chí có ngành phải sử dụng 70-80% nguyên phụ liệu nhập khẩu. Vì vậy, tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các DNV&N thấp. Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thì việc giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn.
Thứ hai, chi phí trung gian cao
So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước vận chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9%, điện tăng 37,5%, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại “tiêu cực phí” cũng góp phần không nhỏ vào làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ ba, chất lượng sản phẩm của các DNV&N Việt Nam còn thấp.
Chất lượng sản phẩm là những tính chất, thuộc tính của sản phẩm được biểu hiện ra bằng việc thoả mãn đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nó là một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà đời sống của con người ngày càng được nâng cao, chiến lược cạnh tranh bằng giá sẽ giần bị thay thế bởi chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng. Song song với quá trình đó, chất lượng sản phẩm của Việt Nam đã, đang và sẽ cố gắng hết sức chinh phục khách hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Trên thị trường trong nước, ngày càng xuất hiện thêm nhiều “Hàng Việt Nam chất lượng cao” với nhiều doanh nghiệp uy tín và thành công. Trên thị trường thế giới, chất lượng không những giúp hàng hoá Việt Nam tái chiếm được thị trường Đông Âu mà nhiều mặt hàng đã chinh phục những thị trường khó tính Tây Âu, Bắc Mỹ như: may mặc, hải sản,da giầy… Mặt khác, việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO đang dần trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp khi tham cạnh tranh. Đó là những tín hiệu đáng mừng cho chất lượng sản phẩm Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ bước đầu đó, chất lượng sản phẩm Việt Nam cũng còn không ít những tồn tại, khó khăn. Nhìn chung, chất lượng sản phẩm Việt Nam còn thấp chưa thể so sánh được với sản phẩm cùng loại nước ngoài nhập vào, mà nó còn chịu nhiều tai tiếng về mặt chất lượng, làm sụt giảm niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng nội, điển hình là những chỉ trích về hệ thống an toàn vệ sinh thực phẩm… Đối với thị trường quốc tế, bên cạnh một số sản phẩm đang sử dụng chất lượng để cạnh tranh, cũng không ít những sản phẩm có chất lượng chưa cao, làm ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Ví dụ điển hình như xuất khẩu cà phê, tuy Việt Nam xuất khẩu với số lượng lớn song lại không có vị thế lớn trên thị trường thế giới vì bị xem là hàng hoá kém chất lượng, lẫn nhiều tạp chất, tỷ lệ hạt non, hạt đen và vỡ cao, kích cỡ hạt nhỏ … Tình trạng tương tự cũng xẩy ra với việc xuất khẩu gạo.
Giá gạo Việt Nam khá thấp so với nước ngoài không phải là thành tích đáng mừng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, trái lại nó biểu hiện một năng lực cạnh tranh yếu kém của gạo Việt Nam xuất khẩu, biểu hiện sự kém yêu thích của khách hàng quốc tế. Nguyên nhân cũng bởi chất lượng gạo Việt Nam bị đánh giá quá thấp, lẫn tạp chất, tỷ lệ cám và tấm cao, độ bóng khô và kém…
Thứ tư, các DNV&N hiện đang phải đối mặt với tình trạng máy móc thiết bị cũ kỷ lạc hậu, làm cho năng suất lao động không cao, chất lượng sản phẩm thấp, dẫn đến giá sản phẩm cao. Trình độ công nghệ của Việt Nam thấp(hiện tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan) dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30 - 35% so với các đối tác ASEAN khác. Đặc biệt trong các DNV&N có khoảng 30% doanh nghiệp thường xuyên thua lỗ, 30% khác thất thường và 40% còn lại có lãi - đây cũng là chỉ số liệu dựa trên những báo cáo tài chính chính thức của doanh nghiệp, mà tính chân thực của các báo cáo này thì không ai giám khẳng định bởi ở Việt Nam các báo cáo tài chính chưa bị bắt buộc phải kiểm toán. Hơn nữa các doanh nghiệp làm ăn có lãi thường là những doanh nghiệp độc quyền nhà nước, vì thế không phản ánh đúng thực lực kinh doanh của các doanh nghiệp này.
Thứ năm, khả năng tiếp nhận xử lý thông tin của các DNV&N Việt Nam còn kém.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên sự thành công trong cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhất là ở Việt Nam hiện nay, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì thông tin đối với các doanh nghiệp càng quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, nhìn chung công tác thu thập và xử lý thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra chậm chạp và kém hiệu quả. Chính vì vậy, các doanh nghiệp nước ngoài với trình độ và khả năng thu thập xử lý thông tin khá cao đã nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thị trường, chiến thắng trong cạnh tranh. Theo sự đánh giá, phân tích của các nhà kinh tế, các DNV&N Việt Nam không chỉ gặp khó khăn trong việc cập nhật các thông tin kinh tế, đặc biệt là những thông tin mang tính dự báo, đoán trước, không chỉ thiếu các thông tinh về định chế thương mại và về thị trường quốc tế mà ngay cả những thông tin về các văn bản chính sách mới trong nước cũng không đến tận tay các DNV&N Việt Nam một cách chính xác, đầy đủ, kịp thời được, do đó ảnh hưởng sâu sắc tới khả năng xử lý thông tin của các DNV&N Việt Nam. Trên thị trường hiện nay, điều này càng được minh chứng rõ ràng, sự thành công của các doanh nghiệp liên doanh, các công ty nước ngoài có phần đóng góp không nhỏ của yếu tố thông tin. Chính nguồn thông tin chính xác và khả năng xử lý thông tin cao đã giúp họ nắm bắt cơ hội và chiến thắng trong cạnh tranh.
Thứ sáu, kinh nghiệm về kinh doanh, năng lực quản lý, công tác tiếp thị của các doanh nghiệp còn yếu, chất lượng lao động chưa cao, chưa có tính chuyên nghiệp, các doanh nghiệp hầu như chưa có chiến lược phát triển lâu dài ổn định, chiến lược cạnh tranh quốc tế, mà phần lớn chỉ mới có kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, thậm chí là kế hoạch kinh doanh trong từng thương vụ.
Từ những yếu kém này, như trên đã đề cập, sức cạnh tranh của đa số sản phẩm của các DNV&N đều yếu kém hơn sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN. Bài toán đặt ra: Làm thế nào để các DNV&N Việt Nam khi hội nhập có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước trong khu vực, trên toàn thế giới và ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở trong nước? Một giải pháp “kinh điển” là muốn chiến thắng trong cạnh tranh phải có đầu ra mạnh, mà muốn có đầu ra mạnh phải có đầu vào mạnh.
Phần 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong quá trình toàn cầu hoá, ngoài lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là những yếu tố thuộc về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng, chúng ta còn một yếu tố được coi là lợi thế so sánh là lao động trẻ. Tuy nhiên, lao động trẻ của chúng ta đang còn bị cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc. Mặt khác, trong những năm tới, lao động kỹ thuật trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế tri thức cần đến. Đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lượng lao động của ta nữa, chúng ta phải tự tạo ra lợi thế so sánh cho mình. Vì vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh một doanh nghiệp cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
- Chạy tiếp sức thay vì mạnh ai nấy chạy: Để có thể đến đích nhanh, các DNV&N Việt Nam phải chọn chạy tiếp sức thay vì mạnh ai nấy chạy - một điểm yếu của các DNV&N Việt Nam. Mỗi người cần phải nổ lực chạy nhanh hơn đồng đội (tinh thần cạnh tranh), nhưng đồng thời sẵn sàng trao chiếc gậy cho đồng đội vào lúc cần thiết (tinh thần hợp tác). Làm được điều đó chúng ta sẽ tận dụng được hai ưu điểm của cạnh tranh và hợp tác: cạnh tranh để có được sản phẩm tốt nhất và giá hạ nhất (điều kiện sống còn của doanh nghiệp), hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài tổng công ty phát triển (điều kiện sống còn của hệ thống doanh nghiệp).
- Đầu tư cho một tầm nhìn lâu dài: Để có sản phẩm tốt, giá hạ trong khi công nghệ còn lạc hậu, các DNV&N Việt Nam phải chuyển mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận từ số một xuống số hai. Điều này sẽ tạo nên sự khác biệt lớn giữa các doanh nghiệp nỗ lực phát triển thị trường ở phương Đông và các đồng nghiệp nỗ lực kiếm tiền ở phương Tây. Khi lợi nhuận trở thành ưu tiên số hai, một mô hình doanh nghiệp mới cùng với một triết lý kinh doanh mới xuất hiện. Thể hiện ở những điểm sau:
+ Chiến lược sản phẩm: chọn những sản phẩm mà doanh nghiệp có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng phát triển và nâng cao của xã hội (chế biến, chế biến tinh, theo nhiều giá trị sử dụng, hình thức bao bì). Khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình toàn cầu hoá.docx