Vay trên thị trường vốn : Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc là trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường là khó vay trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc là được bảo lãnh của ngân hàng Đầu Tư. Khả năng vay muợn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệup vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn cho vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo hộ cũng được ngân hàng quan tâm.
65 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiện lợi của tài khoản sec và lợi tức của tài khoản tiết kiệm, tài khoản now nhanh chóng được lan rộng kháp châu Âu và đến năm 1980, hầu hết các ngân hàng trung gian đưa vào tài khoản Now nằm trong kết cấu tài sản nợ. Mặc dù tài khoản Now có khuynh hướng lan rộng, song những thao tác rút tiền bất ngò như tài khoản Now, với những khoản tiền lớn dễ đẩy ngân hàng đến việc khó thanh khoản và khủng hoảng. Do vậy sự tồn tại của tài khoản tiền gửi không kì hạn dùng sec vẫn tỏ ra vô cùng cần thiết cho những giao dịch lớn, tránh sự rung động cho ngành ngân hàng
Trong những năm gần đây, với sự hiện đại hoá hoạt động quản lí tài sản bằng hệ thống CHIPS làm cho ranh giới giữa tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản sec có nhiều ngân hàng thương mại thuộc các nước công nghiệp trên thế giới không còn định hình rõ rệt. Các hệ thống thanh toán tự động như : ATM, EBT đã cho ra đời hàng loạt tiền hiện đại như : ATM card, Master card, Visa card … Bản thân các loại này thì xét cho cùng là loại hình của sec nhưng mà với đặc tính đa dạng là có khả năng tự động chuyển những khoản tiền gửi tử bất cứ tài khoản tiết kiệm thành tiền sec hoặc tiền mặt vào bất cứ lúc nào.
Ở Việt Nam, tài khoản sec được gọi là tài khoản thanh toán, được chia làm 2 loại : Thứ nhât, tài khoản dùng cho các doanh nghiệp, tài khoản này không được trực tiếp hưởng lãi mà người gửi chỉ hưởng lãi gián tiếp thông qua các dịch vụ thanh toán miễn phí của ngân hàng. Loại thứ hai đó là tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân, tài khoản này được ngân hàng trả lãi nhưng lãi suất của nó thấp hơn lãi suất tiền gửi định kì. Tài khoản này giống như tài khoản Now ở các nước. Đối với loại tài khoản này, trong phạm vi cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Thủ tục rất đơn giản, yêu cầu của khách hàng chỉ là phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một ngân hàng kết hợp nhiều tài khoản thanh toán với tìa khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư có của nhiều tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tượng“ của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
Tiền gửi có kì hạn :
Tiền gửi có kì hạn hay còn gọi là kí thác định kì là các khoản tìên gửi với thời gian xác định. Về nguyên tắc đối với các loại tiền gửi này người gửi chỉ được rút tiền khi đến hạn đã thoả thuận. Thông thường định kì có thể là 1 tháng, 3 tháng, 9 tháng …
Về nguyên tắc đúng thì với loại tiền gửi này thị ngân hàng sẽ từ chối việc rút tiền trước thời hạn của người gửi. Tuy nhiên, trên thực tế do quá trình cạnh tranh để thu hút tiền gửi các ngân hàng thường cho phép người gửi được rút ra trước thời hạn với điều kiện phải báo trước cho ngân hàng ít nhất một khoảng thời gian xác định về ý định rút tiền hoặc là có thể không báo trước nếu trường hợp rút tiền quá gấp rút, trong các trường hợp này thì người gửi tiền không được hưởng lãi hoặc là hưởng lãi suất thấp.
Khác với tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, nên mục đích của người gửi tiền là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy, tiền gửi có kì hạn được xem là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định và các Ngân hàng thương mại thường chú trọng các biện pháp kich thích huy động loại tiền gửi này. Lãi suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi có kì hạn thường cao hơn lãi suất tiền gửi không kì hạn, kì hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Đối với loại tiền gửi này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi trường hợp áp dụng lãi suất thả nổi thị lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm cơ sở cho việc xác định lãi suất. Ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại đang áp dụng hai loại tiền gửi định kì đó là : Tiền gửi định kì theo tài khoản và tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Việc huy động dưới hình thức kỳ phiếu được áp dụng theo hai hình thức đó là : Phát hành theo mệnh giá : nghĩa là người mua kỳ phiếu trả tiền mua theo mệnh giá đã được ghi trên tờ kỳ phiếu, khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả số gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu ; phát hành dưới hình thức chiết khấu : Có nghĩa là người mua kỳ phiếu sẽ trả số tiền mua bằng mệnh giá trừ đi số tiền chiết khấu và khi đến hạ ngân hàng sẽ hoàn trả đúng mệnh giá. Khi áp dụng hình thức này, lãi suất để tính toán là lãi suất danh nghĩa, còn lãi suất thực tế sẽ cao hơn lãi suất danh nghĩa. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán tuy nhiên nó lại có lãi suất thấp còn tiền gửi tiết kiệm thì lãi suất cao hơn – đáp ứng nhu cầu tăng thu nhập của người gửi tiền. Người gửi tiền không được sử dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi tiền phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm : (Savings deposits)
Tiền gửi tiết kiệm hay còn gọi là kí thác tiết kiệm là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi suất theo định kì. Hình thức này phổ biến và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Đối với loại này người gửi tiền tiết kiệm được ngân hàng cấp cho một cuốn sổ để ghi nhận tiền gửi vào và tiền rút ra. Quyển sổ này đồng thời có giá trị như một chứng thư xác nhận về khoản tiền đã gửi. Loại hình này vần còn tồn tại đến nay và trong những năm 90, nó có thể được xem là hình thái tiền có khả năng thanh khoản rất cao, không kém sec và tiền mặt. Ngoài ra còn có các loại hình tiền gửi tiết kiệm phổ biến khác như : chứng chỉ tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm.
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm hết sức phong phú và đa dạng bao gồm các loại sau :
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn : Đây là loại tiền gửi mà nguời gửi tiền có thể kí thác nhiều lần và rút ra theo nhu cầu sử dụng không báo trước cho ngân hàng. Loại hình này người gửi tiền cũng được hưởng lãi suất.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : Đây là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Những người tham gia loại hình tiết kiệm này ngoài việc hưởng lãi còn được ngân hàng cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Theo luật quy định hiện hành mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm xây dựng nhà ở
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn : Đối với loại hình này lãi suất cao hơn loại tiền gửi tiết kiệm không kì hạn bao gồm hai loại : thứ nhất là tiền gửi tiết kiệm có kì hạn thông thường, loại nà người gửi chỉ được hưởng lãi suất. Loại thứ hai là tiền gửi tiết kiệm có kì hạn đặc biệt, đối với loại này người gửi ngoài việc được hưởng lãi còn có thưởng.
Các khoản vay ngắn hạn từ thị trường : Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm các nguồn khác. Tại nhiều nước, Ngân hàng trung ương thường quy định tỉ lệ giữa nguồn vốn huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế
Vay ngân hàng trung ương : Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của Ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán ), Ngân hàng thương mại thường vay của ngân hàng trung ương. Hình thức cho vay chủ yếu của nhnh là tái chiết khấu hoặc là tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được ngân hàng thương mại chiết khấu hoặc là tái chiết khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, Ngân hàng thương mại mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của Ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng trung ương tăng lên. Ngân Hàng nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ ; Ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường ngân hàng trung ương chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trung ương trong từng thời điểm. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng trung ương cho Ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng
Vay các tổ chức tín dụng khác : Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt quá yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng trung ương. Quá trình cho vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí ( hoặc là ngân hàng trung ương ). Khoản vay có thể không càn đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kêt quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Vay trên thị trường vốn : Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung các nguồn tiền gửi đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc là trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường là khó vay trực tiếp bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc là được bảo lãnh của ngân hàng Đầu Tư. Khả năng vay muợn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệup vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn cho vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo hộ … cũng được ngân hàng quan tâm.
Vốn nợ khác : loại này bao gồm nguồn tiến uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác
Tiền uỷ thác : Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: Uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ … Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Ví dụ như ở ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác thu hộ cho nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn Ngân sách hoặc nguồn ODA. Theo hợp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển về ngân hàng Nông nghiệp để từ đó chuyển tải đến địa điểm được xác định trước. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh điều vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn vốn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Tiền trong thanh toán : Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( sec trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C … ) Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay …
Tiền khác : Các khoản nợ khác như thuế chưa phải nộp và tiên lương chưa trả.
Vốn chủ sở hữu :
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường
Nguồn vốn hình thành ban đầu : Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước ngân sách nhà nước sẽ cấp vốn. Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc là cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh liên kết do các bên liên doanh đóng góp, ngân hàng tư nhân thì thuộc sở hữu của tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động : Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Thứ nhất là nguồn từ lợi nhuận : Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng nguồn vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tùy thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn chủ hình thành ban đầu.
Thứ hai là nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, đóng góp thêm, cấp thêm … để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc là để đổi mới trang thiết bị hoặc là để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định … Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
Các quỹ : Ngân Hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất : quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn an toán nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu mới. Tuỳ theo mức quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng …
Các nguồn vay có thể chuyển đổi thành cổ phần : Các khoản vay trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Nghiệp vụ sử dụng vốn ( Nghiệp vụ có ) :
Chúng ta đều biết rằng, phần lớn các khoản mục bên tài sản nợ của Ngân hàng thương mại đều là vốn vay, có nghĩa là ngân hàng phải trả lãi cho nó. Do vậy, để không bị thiệt hại, ngân hàng phải luôn luôn tiến hành cho vay hay đầu tư ngay số tài sản ấy vào những đầu tư sinh lãi. Tiền lãi thu được, ngân hàng dùng nó để trả lãi cho vốn vay, trang trải các chi phí trong hoạt động của mình. Phần còn lãi sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Xét cho cùng, cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiệm lợi nhuận. Chỉ có một ít khác biệt giữa chúng, cho nên đôi khi người ta dùng thuật ngữ “đầu tư “để gọi chung cho cả hai hoạt động này. Khi ngân hàng dùng tiền của mình đầu tư vào một thương vụ hoặc cho vay sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng, nó sẽ lập tức trở thành chủ nợ, còn các đối tượng kia thì sẽ thanh người vay nợ hay con nợ. Vì thế, các khoản đầu tư trên biến thành tài sản có của ngân hàng. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này đã hình thành nên sự khác biệt nhau trong tài sản có của Ngân hàng thương mại. Kết cấu tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm các khoản mục : khoản mục ngân quỹ, khoản mục cho vay, khoản mục đầu tư vào chứng khoán, các loại tài sản có khác..
Nghiệp vụ ngân quỹ : Khoản mục ngân quỹ của ngân hàng bao gồm các loại sau đây :
Tiền mặt trong kho : Có thể gồm nội tệ, ngoại tệ (ở những nước ngoại tệ được sử dụng trong lưu thông, hoặc chấp nhận tiền gửi ngoại tệ ). Một vài ngân hàng còn bao gồm cả vàng và các kim loại quí, đá quý khác. Tiền mặt dùng để chi trả bằng tiền mặt nhanh chóng tuy nhiên, tiền mặt không lời và trên phương diện an toàn thì thường là đối tượng của trộm cướp, thụt két, làm giả. Tiền mặt gắn với chi phí phát sinh như bảo quản, đếm vận chuyển …
Tiền gửi tại ngân hàng khác : Gồm tiền gửi tại ngân hàng nhà nước, tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng thương mại phải thực hiện dự trữ bắt buộc. Hình thức dự trữ bắt buộc có thể khác nhau ở các nước. Nhiều ngân hàng trung ương yêu cầu ngân hàng thương mại phải duy trì dự trữ bắt buộc dưới hình thức tiền gửi tại ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, Ngân hàng thương mại nắm giữ loại tiền gửi còn vì mục tiêu thanh toán tiện lợi : rất nhiều các khoản thanh toán giữa các ngân hàng được thực hiện qua ngân hàng trung ương, hoặc qua ngân hàng đại lí (thanh toán qua các nước khác nhau). Khoản tiền gửi này có thể sinh lời song rất thấp. Ngân hàng với vai trò thủ quỹ cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng tiền mặt. Do vậy, ngân hàng luôn phải giữ một lượng tiền trong két, tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Lượng tiền mặt trong két nhiều hay ít phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu và khả năng thu hút tiền mặt mỗi thời kì, khoảng cách giữa Ngân hàng thương mại và kho tiền của ngân hàng trung ương. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam thường phải giữ tỉ lệ tiền mặt cao do tâm lí và thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của đại đa số dân chúng và doanh nghiệp nhỏ. Nhìn chung ngân quỹ của ngân hàng là tài sản không sinh lời (hoặc là sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại ngân hàng nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi ) song lại là tái sản có tính thanh khoản – tính lỏng – cao nhất, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên. Do vậy, mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được. Tỷ trọng ngân quỹ trong tổng số tài sản của ngân hàng thường thấp và khác nhau tại các ngân hàng. Thông thường ngân hàng, ngân hàng gần trung tâm tiền tệ, tỷ lệ này thường thấp hơn so với ngân hàng ở xa. Tỷ lệ này có xu hướng tăng trong giai đoạn kinh tế suy thoái, khi ngân hàng khó tìm kiếm được nhiều cơ hội cho vay và đầu tư.
Nghiệp vụ cho vay :
Cho vay được xem là hoạt động sinh lợi chủ yếu của các trung gian tài chính nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng. Hoạt động cho vay rất đa dạng và phong phú, bao gồm các hình thức sau :
Chiết khấu thương phiếu : Thương phiếu hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán ( hoặc người thụ hưởng ) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua ( hoặc người phải trả tiền ) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và chi phí chiết khấu. Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm phần lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền. Nghiệp vụ chiêt khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường kí với những khách hàng họp đồng chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng chi cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiêt khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao ( trừ trường hợp ngân hàng kí miễn truy đòi đối với khách hàng ). Hơn nữa, ngân hàng có thể tái chiết khấu các thương phiếu tại ngân hàng trung ương để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp
Cho vay thấu chi :
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi ( có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng ) trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí sec, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ … vượt quá số dư tiền gửi để chi trả ( song trong hạn mức thấu chi ). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi thì ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Còn các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chiu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thòi gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán chủ động nhanh chóng kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản phần lớn là không có bảo đảm, có thể cung cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để chi trả lương, chi trả các khoản phải nộp, mua hàng … Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần : Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc là thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ này tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản bảo đảm.
Cho vay theo hạn mức : Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc là cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kê hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể thực hiệ vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợpnh quy định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức. Mỗi lần vay khách hàng cần trình bày phương án sử dụng vốn vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng. Cho vay theo hạn mức là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay thương xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định được ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút
Cho vay luân chuyển : Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ, Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào ( có hoá đơn hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng ) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay ; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỉ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp có chu kì sản xuất tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với khách hàng Cho vay luân chuyển rất thuận tiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 677.Doc