A/ Phần mở đầu
B/ Phần nội dung
I/ Lý luận chung về cạnh tranh:
1/Khái niệm
2/Phân loại
3/ Những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh
4/ Tính tất yếu của nâng cao năng lực cạnh tranh
5/ Kinh nghiệm của một số quốc gia về nâng cao năng lực
cạnh tranh.
II/ Thực trạng sức cạnh tranh của nền kinh tế:
1/ Tổng quát về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
2/Thực trạng sức cạnh tranh trong các doanh nghiệp
3/Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
a) Những thành tựu đạt được:
a.1) Những thành tựu trong phát triển kinh tế
a.2) Những thành tựu trong kinh tế đối ngoại :
a.2.1) Trong hoạt động ngoại thương
a.2.2) Trong việc thu hút vốn đầu tư
b) Những hạn chế tồn tại
4/ Nguyên nhân
III/ Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
.
C/ Phần kết luận
20 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình.Đó chính là vấn đề mang tính chất quyết định để từng bước ổn định và nâng cao vị thế của nước ta trong tiến trình hội nhập.
5./Một số kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của các nước:
Nghiên cứu chiến lược hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp của Nhật, chúng ta rút ra một số kinh nghiệm sau:
-Từng bước thực hiện “tự do hoá mậu dịch” và bảo hộ sản xuất để tăng dần sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp
-Xây dựng chiến lược phát triển và tăng sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp trong nước.Chiến lược đó là:tập trung phát triển những ngành có lợi thế so sánh trong tương lai như những ngành có khả năng tăng năng suất lao động nhanh,có khả năng tiếp thu công nghệ hiệu quả;những ngành có lợi nhuận tăng khi nhu cầu tăng nhanh.Nhật còn ban hành những chính sách bảo hộ công nghiệp và xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp.
Với một số nước khác,chiến lược nâng cao sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp như sau:
-Thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh;đầu tư kịp thời vào công nghệ chế biến nâng cao chất lượng sản phẩm; trọng tâm vào các ngành hàng sản phẩm ứng dụng công nghệ cao.
-Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục tiêu đề ra
-Nghiên cứu triển khai,ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất; tăng cường đẩy mạnh nghiên cứu thị trường,tìm thị trường mới.
-Chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt.
II./ Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta:
1./Tổng quát về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta từ năm 1991 đến nay:
Nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đã dần dần khởi sắc,ổn định được nền kinh tế vĩ mô,đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục.Từ đó tạo đà cho kinh tế phát triển có hiệu quả và năng suất cao hơn.Tuy nhiên sức cạnh tranh ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém:
-Mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế ở nước ta còn thấp,nhiều hành vi cạnh tranh chưa phù hợp với kinh tế khách quan.
-Những chủ thể kinh doanh tham gia môi trưòng cạnh tranh còn nhỏ bé,phân tán.Hơn nữa,tính độc quyền trong một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn khá cao,hạn chế tham gia cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh khác, làm thu hẹp sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
-Môi trường cạnh tranh chưa thông thoáng,thuận lợi,thể hiện là:chính sách quản lý vĩ mô nhiều lúc tỏ ra bất cập,cản trở hoạt động kinh doanh.
Xét về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung,Việt Nam có một số lợi thế về lao động, tài nguyên nông lâm khoáng sản.Tuy nhiên các yếu tố khác như công nghệ ,trình độ quản lý,cơ sở hạ tầng,độ ổn định về chính sách và hệ thống tài chính ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế,nên xét về mặt tổng thể,năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vào loại yếu.Kể từ năm 1997,khi lần đầu tiên diễn đàn kinh tế thế giới(WEF) đưa Việt Nam vào danh sách các nước đựoc xếp hạng về năng lực cạnh tranh quốc gia cho tới nay,vị trí của Việt Nam chưa bao giờ thoát khỏi nhóm 20 nước cuối bảng(bảng1).
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
Xếp hạng
49/53
43/53
48/53
53/59
60/75
65/80
65/80
77/104
Bảng 1:Năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo xếp hạng củaWEF
Ta thấy năm 1997, Việt Nam là 1 trong 5 nước có sức cạnh tranh thấp nhất trong bảng.Năm 1998,Việt Nam đã vươn lên vị trí 43/53 nhưng không phải do nỗ lực mà là do nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lâm vào khủng hoảng tài chính tiền tệ.Từ đó tới năm 2001, vị trí này liên tục giảm khi các nền kinh tế bị khủng hoảng trước kia nhanh chóng hồi phục,khiến năng lực cạnh tranh của Việt Nam liên tục suy thoái trong tương quan so sánh:năm 1999 tụt 5 bậc,năm 2000 tụt 5 bậc và bị loại ra khỏi tốp 50 nước.Năm 2002,Việt Nam vẫn giữ vững vị trí
16 tính từ cuối bảng xếp hạng(65/80).Năm 2004 xếp loại 77/104 nền kinh tế.
Năm 2004,năng lực cạnh tranh ở tầm kinh doanh doanh nghiệp cũng bị tụt hạng,xếp 79/103 nước(so với 50/95 nền kinh tế năm 2003).Mức tụt bậc của Việt Nam rất nhiều so với các nền kinh tế trong khu vực,như Thái Lan tụt 2 bậc,Hàn Quốc giảm 11 bậc.
Theo điều tra của phòngThương Mại & Công nghiệp Việt Nam về năng lực xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp,chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu;13,7% DN có triển vọng xuất khẩu và 62,5% DN hoàn toàn chưa có khả năng tham gia xuất khẩu.Theo đánh giá của các chuyên gia trong các nghiên cứu gần đây thì năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp VN đã tăng lên trong nhiều ngành nhưng nhìn chung vẫn còn thấp,thể hiện qua các khía cạnh:
-Năng suất lao động chưa cao
-Chất lượng và tính độc đáo của sản phẩm còn thấp
-Trình độ công nghệ còn hạn chế
-Thị trường đầu ra cho sản phẩm chưa ổn định
-Chi phí đầu vào cao,do vậy có trường hợp giá cả hàng hoá chưa cạnh tranh được với hàng nhập khẩu.
2./ Thực trạng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp:
Hiện nay , các doanh nghiệp ở nước ta (DN Nhà Nước,các doanh nghiệp khác)khả năng cạnh tranh còn quá yếu.Chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ,với kinh nghiệm & năng lực quản lí tiên tiến...là có thể có khả năng cạnh tranh khi mở cửa nền kinh tế.Trong khi đó,các doanh nghiệp nhà nước lại chiếm giữ một vị trí then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước,nắm giữ chủ yếu các nguồn lực của xã hội, cung cấp sản phẩm hàng hoá chủ yếu cho sản xuất và đời sống.Phải nói rằng là các doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường, năng lực sản xuất tiếp tục tăng,cơ cấu ngày càng hợp lý,trình độ quản lý và công nghệ ngày càng có nhiều tiến bộ,hiệu quả sản xuất và sức cạnh trang từng bước được nâng lên .Hoạt động của các DN nhà nước đã đạt được những thành tựu nhất định :năm 1999 tạo ra 40,2% GDP,trên 50% giá trị xuất khẩu,đóng góp 39,25% trong tổng nộp ngân sách nhà nước...Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn những mặt hạn chế:
-Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp,chi phí sản xuất cao nên năng lực cạnh tranh còn thấp,sản phẩm chất lượng còn chưa cao,thiếu thị truờng đầu ra.Năng lực hoạt động thị trường còn khoảng cách khá xa so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.
-Một số ngành còn được Nhà nước bảo hộ tạo nên sự trông chờ, ỷ lại,chưa tạo động lực cho sản xuất.
-Chất lượng sản phẩm xuất khẩu còn thấp,chủ yếu ở dạng thô,ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư và xuất khẩu hàng hoá sang nước khác
-Cơ chế tổ chức quản lý chưa đồng bộ,chưa phù hợp với điều kiện thực tế.
Nói chung,năng lực cạnh tranh trong phần lớn các doanh nghiệp nước ta còn chưa cao,còn gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.Trong thời gian tới,chúng ta phải nỗ lực đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động và tổ chức lại cơ chế quản lý cho phù hợp hơn.
3./Thực trạng năng lực cạnh tranh trong nền kinh tế:
a)Những thành tựu đạt được:
a.1)Những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế đã tạo đà cho việc tăng NSLĐ,nâng cao hiệu quả kinh tế & sức cạnh tranh:
Trong những năm vừa qua,nước ta đã duy trì được nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 7%/năm-cao hơn so với các nước trong khu vực.
Số liệu: Tốc độ tăng trưởng GDP chung và của từng ngành
(đơn vị tính: % )
Năm
GDP grow
Nông nghiệp
CN&XD
Dịch vụ
2004
7,7
0.92
3,93
2,94
2005
8,43
0,82
4,19
3,42
Tốc độ tăng trưởng kinh tế kể từ năm 1991 cũng có nhiều khởi sắc:thời kì 91-95 trên đà cao lên,các năm 96-99 có suy giảm nhưng kể từ năm 2000 đã dần hồi phục lại.Năm 2001 tăng 6,89%;năm 2002 tăng 7,08%; năm 2003 tăng 7,24%;năm 2004 tăng 7,7%; sang năm 2005 đã là 8,43%.
Trong các ngành;ngành nào,lĩnh vực nào cũng có tăng trưởng:
-Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 tăng 17,2% so với 2004,đạt 416,8 nghìn tỷ.Giá trị sản xuất tăng 10,6%,trong đó khu vực tư nhân tăng 24,1%,khu vực vốn nước ngoài tăng 0,9%,khu vực nhà nước tăng 8,7%.
-Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,9%.Giá trị sản xuất tăng 4,0%:ngành nông nghiệp tăng 3,2%,lâm nghiệp tăng 1,2%,thuỷ sản tăng 12,1%.
-Khu vực dịch vụ tăng trưởng khá:tổng mức lưu chuyển hàng hoá& dịch vụ tiêu dùng đạt 475 381 tỷ,tăng 20,5 % so với 2004.
*Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá.Trong GDP,tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7%(1990) xuống 25% (2000),công nghiệp tăng từ 27,7% lên 34,5% ; dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%.
* Điều chỉnh được các cân đối kinh tế chủ yếu,duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống.
Tiết kiệm tiêu dùng để tăng tích luỹ cho phát triển.Hệ thống tài chính-tiền tệ có tiến bộ và đổi mới phù hợp:tổng thu ngân sách 2004 đạt 22,7%; tăng 17,4% so với 2003,đạt chỉ tiêu đề ra.Chi ngân sách hàng năm khoảng 23,5% GDP.Kiềm chế đuợc lạm phát dưới 10%/năm.Có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư và phát triển :vốn thực hiện và đăng kí năm 2004 đạt cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực (1997-1998).
a.2)Kinh tế đối ngoại tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ:
a.2.1) Hoạt động ngoại thương, xuất-nhập khẩu :
.Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng qua các năm:
Năm
XK(tỷ $)
Tốc độ tăng(%)
NK(tỷ $)
Tốc độ tăng(%)
Nhập siêu(tỷ $)
Tỷ lệ nhập siêu(%)
2000
14,4827
25,5
15,6365
33,2
1,1538
8,0
2001
15,027
3,8
16,162
3,4
1,135
7,9
2002
16,7058
11,2
19,733
21,8
3,0272
18,2
2003
20,1493
20,6
25,2558
27,9
5,1065
25,3
2004
26,5042
31,5
31,9539
26,5
5,4497
20,6
2005
32,233
21,6
36,881
15,4
4,648
14,4
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2004 đạt 26,6 tỷ $, năm 2005 đã tăng lên mức 32 tỷ $,tức là tăng 21,6%.Trong đó XK của DN có vốn đầu tư nước ngoài(không kể dầu thô)tăng 26,2% và chiếm 34,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.Nếu tính cả dầu thô thì tăng lên 27,8% so với 2004.
Kim ngạch nhập khẩu 2005 đạt 36,881 tỷ $,tăng 15,4% so với 2004.Trong đó các DN có vốn nước ngoài nhập khẩu đạt 13,687 tỷ $,tăng 23,5%.
Trong hoạt động ngoại thương, kim ngạch X-NK của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng có bước tiến triển: Kim ngạch Việt Nam -Nhật năm 2005 đạt 8,16 tỷ$.Việt Nam xuất sang Nhật hơn 4,5 tỷ $,xuất siêu hơn 900 triệu $.Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là:dệt may,tôm,đồ gỗ...
Tình hình ngoại thương với một số nước như sau:
Nước
Xuất khẩu (triệu $)
Nhập khẩu (triệu $)
2004
2005
12/2005
2/2006
2004
2005
12/2005
2/2006
T.Quốc
2735
2961
279,3
202,9
4456
5778,9
586
395,3
Mỹ
4992
5930,6
611,6
421,3
1127
864,4
75
65,2
Nhật
3502
4411,2
396,5
407,3
3553
4093
380,6
352,8
EU
4915
5551,7
535,1
429,4
2659
2588
240,6
190
Do Việt Nam đa dạng hoá quan hệ với các nước khác như EU, Trung Quốc,Nhật,Mỹ... nên tỷ trọng thương mại của VN với các nước ASEAN giảm dần: nhập khẩu giảm từ 29%(1995) xuống25% (2002); xuất khẩu giảm tương ứng từ 20% xuống còn 15%.
Tuy nhiên,tình hình xuất nhập khẩu của nước ta đã có tăng trưởng ngoạn mục,đặc biệt thể hiện trong năm 2005.Sự vượt trội đó đạt được ở nhiều điểm:
- Kim ngạch xuất khẩu đạt quy mô lớn nhất: năm 2005 đạt 32,233 triệu USD,lớn nhất từ trước tới nay,cao gấp trên 15,4 lần năm 1991,cao gấp trên 5,9 lần năm 1995 và trên 2,2 lần năm 2000. Quy mô xuất khẩu bình quân 1 tháng đạt 2686 triệu $, còn cao hơn mức xuất khẩu đạt được trong cả năm 1992 trở về trước..Tổng quy mô xuất khẩu của VN hiện đứng thứ 42/131 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu so sánh.
-Mức bình quân đầu người đạt gần 388$,cao gấp 12,5 lần năm 1991,gấp 5,1 lần năm 1995và 2,1 lần năm 2000,vượt xa mức 323,1$ của năm 2004.Chỉ số rất cao này của Việt Nam đứng thứ 5/11 nước khu vực Đông Nam á,đứng thứ 11/28 ở châu á,và đứng thứ 84/136 trên thế giới,vượt mức của năm 2000 tương ứng là thứ 7, thứ 17,thứ 96.
-Tỷ lệ kim ngạch XK so với GDP đạt 60,9%,chứng tỏ độ mở của nền kinh tế đã khá rộng,phù hợp với định hướng XK của nền kinh tế.Hơn nữa,đó là tỷ lệ cao so với tỷ lệ chung 20,5% của toàn thế giới,đứng thứ 4 trong khu vực ĐNA(sau Singapore 196,5%,Malaysia 121,2%, Thái Lan 67,7%),đứng thứ 6 ở châu á,đứng thứ 9 thế giới.Tốc độ tăng đạt 21,6%,vừa cao hơn tốc độ tăng 16% theo mục tiêu,vừa cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng GDP,thuộc loại cao so với các năm trước.Bình quân 1 năm trong thời kì 2001-2005,tốc độ tăng đã đạt được 17,4%.
-Cả hai khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều tăng trưởng với tốc độ 2 chữ số.Khu vực kinh tế trong nước năm 2005 ước đạt 13 716 triệu $,cao nhất từ trước tới nay và tăng 14,1% so với năm trước.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(kể cả dầu thô) còn đạt và tăng cao hơn( ước đạt 18 517 triệu $,tăng 27,8%,trong đó dầu thô đạt 7 387 triệu $).
-Nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch lớn:
Trong 25 mặt hàng chủ yếu,có 21 mặt hàng tăng so với năm trước,trong đó có một số mặt hàng tăng cao hơn tốc độ chung,như than đá tăng 85,2%,gạo tăng 47,3%,sản phẩm nhựa tăng 34,2%,điện tử máy tính tăng 31,1%,dây điện và cáp điện tăng 33,7%,sản phẩm gỗ tăng 33,2%,cao su tăng 31,9%,rau quả tăng 30,8%,dầu thô tăng 30,3%,mỳ ăn liền tăng 29%,lạc tăng 23,2%...Một số mặt hàng khác tuy gặp khó khăn do các vụ kiện nhưng vẫn tăng lên như thuỷ sản tăng 14,2%,giày dép tăng 11,7%, dệt may tăng 9,6%.
Trong tổng mức tăng 5729 triệu $,mức tăng của một số mặt hàng đã đóng góp lớn(tăng trên 100 triệu $):dầu thô đóng góp lớn nhất 1718 triệu $ ,tiếp đến là gạo 449 triệu $,dệt may 421 triệu$,sản phẩm gỗ 378 triệu$,điện tử máy tính 367 triệu $,thuỷ sản 341 triệu $,than đá 303 triệu $,cao su 190 triệu $...
Về quy mô kim ngạch xuất khẩu,cao nhất là dầu thô 7378 triệu $,sau dó là dệt may 4806 triệu $...Một số mặt hàng X-NK chủ yếu được cho trong bảng sau:
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Xuất khẩu
Dầu thô (nghìn tấn)
15424
16732
16870
17143
19501
18084
Dệt may (triệu $)
1892
1975
2752
3689
4386
4806
Giày dép (triệu $)
1472
1578
1875
2281
2692
3005
Thuỷ sản (triệu $)
1479
1816
2036
2200
2397
2771
Gạo (nghìn tấn)
3477
3721
3236
3810
4060
5202
Cà phê (nghìn tấn)
734
931
722
749
975
885
Điện tử máy tính (triệu $)
789
709
605
855
1075
1442
Cao su (nghìn tấn)
273
308
455
432
513
574
Than đá (nghìn tấn )
3251
4292
6407
7261
11624
17882
Chè (nghìn tấn )
56
68
77
59
99
89
Lạc (nghìn tấn)
76
78
106
82
45
55
Nhập khẩu
Máy móc thiết bị (triệu $)
2572
2706
3790
5409
5249
5254
Xăng dầu (nghìn tấn)
8447
9083
9971
9936
11048
11335
Sắt thép (nghìn tấn)
2845
3870
4946
4623
5186
5637
Phân bón (nghìn tấn)
3971
3288
3820
4135
4079
2908
Điện tử,linh kiện (triệu $)
881
667
649
975
1342
1695
Một số hàng nông sản có giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2005 như sau:(đơn vị :triệu $) Gạo:1399; cà phê: 880 ;cao su :772: hạt điều :535...Hầu hết các mặt hàng chủ yếu đều tăng,đáng chú ý là có 21 mặt hàng đạt trên 100 triệu $: 11 mặt hàng đạt trên 500 triệu $,có 7 mặt hàng đạt trên 1 tỷ $, 4mặt hàng đạt >2 tỷ $.
Xuất khẩu tăng do giá và lượng tăng: nhóm mặt hàng mà lượng cộng được với nhau thì lượng tăng có than đá,gạo,cao su, chè; giá tăng có dầu thô,gạo,cà phê,cao su,hạt điều ,lạc.
Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực trong 3 quý đầu 2005 như sau:
+Dầu thô:đạt 13,3 triệu tấn,tương đương với 5,45 tỷ$, tăng 33% cùng kỳ năm 2004 do giá thế giới tăng cao (+46%).
+gạo xuất khẩu: ước 9 tháng đầu đạt 4,3 triệu tấn.đây là lượng gạo lớn nhất từ truớc đến nay.Kim ngạch tăng so với cùng kỳ 2004 (410 triệu$),trong đó tăng do giá là 160 triệu,do lượng là 250 triệu$.
+Dệt may:các doanh nghiệp vấp phải sự cạnh tranh ngày càng gay gắt,đặc biệt là của Trung Quốc.Năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam yếu kém trong nhiều lĩnh vực.Hàng dệt may xuất khẩu sang EU được bỏ hạn ngạch nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm do không cạnh tranh được với hàng TQ.Trong 9 tháng đầu năm 2005,kim ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ ước giảm 4,5% so với cùng kỳ 2004.Do đây là 2 thị trường chính nên đã ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của ngành.Riêng XK vào thị trưòng Nhật tăng khá (+16%).
+Giày dép:Xuất khẩu vào thị trường lớn nhất là EU tăng không đáng kể,khoảng 6% so với cùng kỳ 2004.
+Thuỷ sản:Xuất khẩu vào thị trường Mỹ có dấu hiệu phục hồi với mặt hàng tôm,tăng khoảng 16% so với cùng kỳ 2004; vào thị trường Nhật Bản tăng 9%; vào EU tăng khoảng 2 lần .
*Trong ngành dịch vụ,khách quốc tế đến Việt Nam năm 2005 đạt khoảng 3467,8 nghìn lượt người,cao nhất từ trước tới nay cả về quy mô, cả về tốc độ và cả về thu nhập ngoại tệ.Điều đó cho thấy ngành dịch vụ đã có những bước đi hợp lý nhằm ngày càng gia tăng lượng khách, nâng cao sức cạnh tranh của mình.
Về nhập khẩu,kim ngạch 9 tháng đầu năm 2005 đạt gần 27,4 tỷ $,tăng 19,2% so với cùng kỳ 2004.Các mặt hàng nhập khẩu tăng trong 9 tháng đầu năm này là:linh kiện,phụ tùng ôtô(+30,2%), linh kiện phụ tùng xe máy (+26,4%), vi tính,điện tử, linh kiện(+35,8%) ,hoá chất các loại (+30%) ,giấy(23%) ,vải (18,7%),xăng dầu các loại(8,2%).Một số mặt hàng giảm là phân bón các loại (-27%),trong đó u-rê giảm 41%.
-Thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng:
Năm 2005,thị truờng cơ bản được ổn định,hầu hết các thị truờng đều tăng,nhất là các thị trường lớn.Châu á chiếm hơn phần nửa tổng kim ngạch xuất khẩu(16,3 tỷ $),tăng trên 22%- cao hơn tốc độ chung,trong đó Đông Nam á đạt 5,5 tỷ $,tăng 40%; Nhật đạt 4,45 tỷ$, tăng 26,9%...Thị trường châu Mỹ đạt 6,8 tỷ $,tăng 20,5%,trong đó Mỹ gần 6 tỷ $,tăng 19%. Châu Âu chỉ tăng 7% chủ yếu do giày dép và xe đạp bị kiện,trong đó thị trường Đức ,Anh có kim ngạch lớn nhất(khoảng 1 tỷ $ mỗi thị trường) bị giảm 1,7% so với năm trước.Xuất khẩu sang châu Đại dương và châu Phi tăng nhanh (tương ứng là 38% và 85%) nhưng do thị phần nhỏ (khoảng 10%) nên tác động không lớn.
Có điều đáng nói là các nhà xuất khẩu trong nước đã kịp thời khai thác các thị truờng mới theo hướng đa dạng hóa,đa phương hoá,đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường truyền thống như Nhật , ASEAN và EU.
-Nhập khẩu tăng 15,4%; một số mặt hàng đạt kim ngạch lớn hoặc tăng khá cao:xăng dầu đạt 4,969 tỷ $,máy móc thiết bị đạt 5,254 tỷ $...
-Nhập siêu giảm về kim ngạch và tỷ lệ:
Tổng nhập siêu đạt 4,648 tỷ $,giảm 14,7%( giảm 802 triệu) so với năm trước.Tỷ lệ nhập siêu còn 14,4%, thấp hơn tỷ lệ 20,6% của năm 2004 và thấp nhất từ năm 2002 đến nay.Khu vực kinh tế trong nước cũng thấp hơn (69,1% so với 73,9% của năm 2004).
-Xuất khẩu năm 2005 vượt xa so với kế hoạch cả về kim ngạch tuyệt đối (32,2 tỷ $ so với 30,8 tỷ$) cả về tốc độ tăng(21,6% so với 16% trong kế hoạch).Tính chung 5 năm, xuất khẩu đã tăng 17,4%/năm,vượt so với mục tiêu 16%/năm do kế hoạch đề ra.Đây chính là những tín hiệu đáng mừng,thể hiện được sự nỗ lực to lớn nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế quốc dân.
a.2.2) Những thành công trong việc thu hút dòng vốn đầu tư:
Tổng vốn đầu tư năm 2005 đạt 324 nghìn tỷ đồng ,tăng 18,5% so với năm 2004,đạt 39,9% GDP. Trong đó : thu hút vốn ODA có chiều hướng tích cực, dòng vốn FDI tăng khá,đạt 3300 tỷ $,tăng 15,8% so với năm 2004.
Có số liệu về tổng vốn FDI theo đăng kí như sau (đ.vị : triệu $) :
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng vốn FDI
2264,3
2695,7
3230,0
2963,0
3145,5
4222,2
5814,2
Tổng vốn FDI chia theo nhóm ngành :
- Nông,lâm nghiệp,thuỷ sản : 3795 triệu $
-Công nghiệp,xây dựng : 42903,4 triệu $
(trong đó Công nghiệp là : 37780,4 triệu $)
-Dịch vụ : 18963,7 triệu $.
Tốc độ tăng vốn cao đạt được ở cả 3 nguồn: nguồn vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhất(53,1%),nguồn vốn ngoài quốc doanh tăng cao nhất.
Nguồn vốn FDI đăng kí năm 2005 đã đạt gần 3,9 tỷ $,nếu kể cả vốn bổ sung gần 1,83 tỷ $ thì tổng cộng là 5,8 tỷ $,tăng 37,4% so với 2004 và cao nhất từ năm 1998 đến nay
Nguồn vốn ODA cũng đạt mức cao nhất từ trước tới nay,tổng vốn này năm 2005 lên tới 33,6 tỷ $.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP đạt cao nhất, khoảng 38,7% ,(năm 2004 là 38,4%,năm 2003 là 37,8%...). Vốn đầu tư gia tăng về lượng vốn và khá hơn về hiệu quả.Suất đầu tư tăng trưởng đạt 4,6 lần,thấp nhất trong 7 năm trước đó chứng tỏ hiệu quả đầu tư đối với tăng trưởng đã khá lên trong những năm gần đây,đó cũng là những dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế nước ta.
b) Những hạn chế còn tồn tại :
Bên cạnh nhiều sự vượt trội như trên,cũng còn nhiều hạn chế,bất cập:
-Hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của nước ta còn thấp,khả năng cạnh tranh khi nền kinh tế có biến động là chưa cao:
Nhiều mặt hàng xuất khẩu với khối lượng lớn ,đứng thứ hạng cao trên thế giới(như gạo, hạt tiêu,hạt điều,cao su...),nhưng không những không chi phối được giá cả trên thị truờng mà còn phải bán với giá thấp hơn,một phần do hiệu quả,sức cạnh tranh còn thấp,một phần do chưa xây dựng dược thương hiệu,mạng lưới phân phối tại thị trường nước ngoài và công tác tiếp thị,quảng cáo còn yếu,nên phải bán qua trung gian. Nếu như hàng hoá xuất khẩu của nước ta có được thương hiệu và được qua chế biến thì giá trị chắc chắn sẽ cao hơn rất nhiều lần.Do đó xuất khẩu tuy khá cao nhưng chưa vươn tới tiềm năng.
-Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu mới chỉ ở dạng thô và sơ chế,hàm lượng chất xám ít,giá trị xuất khẩu còn chưa cao:
Tỷ trọng xuất khẩu những mặt hàng là nguyên liệu thô(dầu thô,than đá...),những mặt hàng nông sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế(gạo,cà phê,hạt điều, cao su,hạt tiêu,rau quả,lạc) còn lớn.Những mặt hàng chế biến như dệt may,giày dép,điện tử,máy tính,sản phẩm gỗ...đã tăng khá,nhưng chủ yếu vẫn là hàng gia công,nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu; công nghiệp phụ trợ chậm phát triển,nên giá trị gia tăng,thực thu ngoại tệ thấp.Ví dụ: hàng dệt may,giày dép xuất khẩu năm 2005 đạt 7811 triệu $ nhưng nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may: da 2308 triệu $,vải 2406 triệu $,sợi dệt 354 triệu $,bông 162 triệu $,tổng cộng đã là 5230 triệu $ (chưa kể còn phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị,dụng cụ,phụ tùng,hoá chất và nhiều loại nguyên nhiên vật liệu khác).Điện tử máy tính xuất khẩu 1442 triệu $ nhưng linh kiện nhập khẩu là 1695 triệu $(tất nhiên có cả hàng tiêu dùng).Sản phẩm nhựa xuất 350 triệu $ nhưng chất dẻo nhập khẩu 1426 triệu $(bao gồm cả sản xuất ra sản phẩm dùng trong nước)...Như vậy trong quá trình cạnh tranh với bên ngoài,nước ta có thế mạnh về những hàng hoá có hàm lượng lao động cao,sử dụng nguồn tài nguyên tại chỗ.Song những hàng hoá có hàm lượng trí tuệ cao hơn thì sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng cũng như giá cả.
-Một số mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam nhưng đang bị cạnh tranh gay gắt.Nhiều mặt hàng hiện nay được coi là thế mạnh của VN là gạo,dệt may,giày dép,cà phê đang có nguy cơ bị giảm sút về sức cạnh tranh,chưa có nhiều hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn.Hơn nữa,phần lớn đang gặp khó khăn mang tính cơ cấu như hạn chế về sản xuất,diện tích canh tác và khả năng khai thác.Còn lợi thế cạnh tranh các mặt hàng chế biến như sử dụng nhiều lao động,giá nhân công rẻ đang bị cạnh tranh gay gắt trong khu vực.
-Xuất khẩu vẫn tập trung chủ yếu ở một số tỉnh thành phố lớn như Hà Nội,TP.HCM,Hải Phòng,Đà Nẵng,Bình Dương,Đồng Nai,còn các địa phương khác còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt.
-Nhập siêu vẫn còn lớn,đặc biệt là nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước.Năm 2005,nhập siêu của khu vực này lên tới 9478 triệu $, tăng 7% (tăng 616 triệu $).Điều đó chứng tỏ khu vưc này không những chưa tranh thủ được cơ hội mà còn gặp thách thức lớn hơn khi nước ta và các nước trong khu vực giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo cam kết hội nhập.
4./Nguyên nhân :
-Trình độ LLSX ở nước ta nói chung còn thấp kém,lại phân bố không đều.Điều đó làm cho vị thế trong cạnh tranh quốc tế của nước ta chưa cao,tiềm lực chưa khai thác được hết và làm cho sự phát triển không đồng đều giữa các ngành ,các vùng.
-Năng lực nội tại của các doanh nghiệp Việt Nam thấp kém.Sự bất lợi về giá cả,mẫu mã,dịch vụ trong khi cơ cấu sản phẩm của VN & ASEAN giống nhau.Điều đó tạo nên sức ép cạnh tranh lớn,làm hàng hoá dịch vụ của nước ta phải cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực & thế giới.
-Ngoài ra còn phải kể đến là trình độ công nghệ lạc hậu,trình độ sản xuất và quản lý chưa tiên tiến làm cho chi phí sản xuất cao,từ đó làm giá thành sản phẩm trên thị trường cao hơn các sản phẩm của nước khác, tạo sự thua thiệt trong cạnh tranh.Đặc biệt khi thị trường biến động lớn,giá cả một số yếu tố đầu vào cơ bản tăng lên càng làm cho sức cạnh tranh giảm sút hơn nữa.
-Công tác Marketing chưa mang lại hiệu quả ,chưa xây dựng được thương hiệu và hình ảnh cho sản phẩm trên thị truờng thế giới.Các chính sách cũng còn nhiều bất cập,chưa kịp đổi thay cho phù hợp.
Đây là một vài nguyên nhân cho những hạn chế nói trên.Để khắc phục, chúng ta cần có những biện pháp khắc phục cho phù hợp.
Dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thời gian tới,đặc biệt là khi Việt Nam sắp gia nhập WTO và sẽ ở vào thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
III./ Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta:
1./ Phát triển khoa học và công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh:
Như ta đã biết,trình độ khoa học và công nghệ của nước ta còn ở mức thấp,thường là thua kém các nước khác vài chục năm.Trong khi đó ,khoa học& công nghệ lại là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của mỗi quốc gia.Đảng và Nhà nước ta nhận t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0105.doc