PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN LÝ LUẬN 2
I. Khái niệm cạnh tranh 2
1. Nhìn nhận cạnh tranh theo quan điểm kinh tế học 2
2. Nhìn nhận cạnh tranh dựa trên mô hình năm lực lượng của Michael Porter. 3
2.1. Khách hàng 3
2.2. Các đối thủ cạnh tranh theo ngành 4
2.3. Các nhà cung cấp 4
2.4. Các doanh nghiệp sẽ tham gia thị trường ( đối thủ tiềm ẩn). 4
2.5. Các sản phẩm thay thế 5
3. Thực tế cạnh tranh và tính hai mặt của cạnh tranh 5
3.1. Thực tế cạnh tranh 5
3.2. Tính hai mặt của cạnh tranh 7
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành 8
1. Tác động của môi trường quốc tế: 8
2. Tác động của môi trường kinh tế quốc dân 9
3. Tác động của môi trường bên trong doanh nghiệp 9
PHẦN NỘI DUNG 11
I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam - những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ 11
1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam 11
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ 18
2.1. Những thuận lợi 18
2.2. Những khó khăn. 19
II- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ. 21
1. Chính sách và cơ chế quản lý của Nhà nước. 21
2. Nghiên cứu hệ thống luật pháp Mỹ và thông lệ quốc tế 22
3. Thúc đẩy đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển 22
PHẦN KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
26 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Vì cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản xuất công nghiệp và dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao với giá thành ngày càng hạ. Vì vậy, cạnh tranh là cơ hội bắt buộc các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật, cạnh tranh là nguồn gốc động lực để phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao. Các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào quản lý hiện đại vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác vì cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng nhiều khách hàng nền nó buộc các doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm chất lượng giá thành hạ. Trong kinh doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, bán giá thấp nhưng dùng số nhiều để thu lại. Phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tính độc đáo của sản phẩm giữ lòng tin với khách hàng giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng, tiện lợi. Trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường linh hoạt hơn so với doanh nghiệp nhà nước.
* Trong điều kiện của cơ chế thị trường khi mức độ cạnh tranh đã trở nên gay gắt thì các doanh nghiệp vì sự tồn tại của mình luôn phải toán tính để vượt lên trên các đối thủ của mình vì cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị trường mà ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình. Với nghĩa đó, cạnh tranh bao hàm cả những thủ đoạn trong hoạt động kinh doanh như dùng tài chính để thao túng đối với doanh nghiệp có tiềm năng tài chính lớn: bằng cách bán phá giá loại đối phương ra khỏi cuộc chơi. Mặt khác dù doanh nghiệp còn dùng thủ đoạn: sử dụng sự liên kết để thao túng thị trường, khống chế thị trường, thu lợi nhuận độc quyền cao như liên kết về giá nhằm bóp chẹt người tiêu dùng, liên kết về vùng tiêu thụ, cùng nhau phân chia thị trường, cùng nhau giảm chất lượng hàng hoá, không cung cấp hàng hoá cho một số tổ chức thương mại nào đó nhằm gây áp lực về giá bán. Ngoài ra hiện tượng mắc ngoặc với quan chức nhà nước để lũng đoạn thị trường, tìm kiếm những cơ hội đầu tư tạo những điều kiện "đặc biệt" thuận lợi trong sản xuất kinh doanh thông qua mua chuộc, hối lộ các quan chức nhà nước, lợi dụng kẽ hở luật pháp đã được nhiều doanh nghiệp tiến hành. Một số thủ đoạn nữa đó là sử dụng các thủ đoạn phi kinh tế khác: đưa thông tin sai lệch về sản phẩm làm giả sản phẩm, sử dụng gián điệp kinh tế để ăn cắp một công nghệ, chiến lược đầu tư phát triển của đối phương, dùng bạo lực để loại trừ đối thủ cạnh tranh dẫn đến hiện tượng " cá lớn nuốt cá bé".
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh ngành
1. Tác động của môi trường quốc tế:
Môi trường quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của ngành. Ngày nay xu thế khu vực hoá và quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là xu hướng có tính khách quan. Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo hướng mở cửa và hội nhập. Nền kinh tế quốc dân nước ta trở thành một phân hệ mở cửa của hệ thống lớn là khu vực và thế giới. Hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc vào sự thay đổi chính trị trên thị trường quốc tế, các quy định pháp luật của các quốc gia, luật pháp và các thông lệ quốc tế, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế quốc tế. Mức độ thịnh vượng, khủng hoảng, những thay đổi trong quan hệ buôn bán quốc tế, các yếu tố kỹ thuật công nghệ văn hoá xã hội...tất cả đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, có thể tạo cơ hội cũng như thách thức đối với sự tồn tại phát triển của ngành.
2. Tác động của môi trường kinh tế quốc dân
Môi trường kinh tế quốc dân bao gồm mọi nhân tố của nền kinh tế quốc dân nằm ngoài môi trường cạnh tranh nội bộ ngành tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường là trạng thái phát triển của nền kinh tế. Tăng trưởng, ổn định hay sinh thái. Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lượng và đưa vào đời sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp có cơ hội cạnh tranh lành mạnh cùng với hệ thống luật pháp, quản lý nhà nước về kinh tế là nhân tố tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu... sẽ tạo ra sự ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thuộc ngành kinh tế nhất định. Trình độ kỹ thuật công nghệ, nhân tố văn hoá xã hội, nhân tố tự nhiên ảnh hưởng rất lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu, ứng dụng phù hợp nhất.
3. Tác động của môi trường bên trong doanh nghiệp
* Thứ nhất phải đề cập đến chất lượng của hoạt động Marketing nhằm xác định cầu của khách hàng, thị hiếu của khách hàng để trên cơ sở đó hoạch định các chính sách về sản phẩm, giá cả, các chính sách phân phối cũng như các chính sách kích thích tiêu thụ. Chất lượng hoạt động Marketing của doanh nghiệp càng cao, phạm vi càng rộng thì càng góp phần giúp cho doanh nghiệp có lợi thế hơn trong cạnh tranh.
* Thứ hai đó là khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển khả năng này thể hiện ở việc doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao hơn, giá thành thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khả năng nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, nó có thể giúp cho doanh nghiệp vẫn giữ được vị trí hàng đầu trong khu vực cạnh tranh hoặc có thể làm cho doanh nghiệp tụt hậu trong khu vực.
* Thứ ba đó là nguồn nhân lực: là năng lực trình độ cán bộ quản lý, trình độ tay nghề đạo đức của người lao động, giá trị của các mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
* Thứ tư là tình hình tài chính: điều kiện tài chính thường được xem là phương pháp đánh giá vị trí cạnh tranh tốt nhất của doanh nghiệp so với các đối thủ và điều kiện tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán của doanh nghiệp, cán nợ, vốn luân chuyển, lượng tiền mặt, tỷ suất lợi nhuận...
* Thứ năm là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp : quản trị doanh nghiệp tác động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đến sự đảm bảo cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cân đối có hiệu quả các bộ phận bên trong doanh nghiệp, quan hệ nhân quả giữa hai hoạt động này ảnh hưởng đến hiệu quả cơ cấu tổ chức thông qua các chỉ tiêu tốc độ giao thiết bị, tính kịp thời, độ chính xác của các quyết định.
Phần nội dung
I. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam - những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
1. Thực trạng ngành dệt may Việt Nam
Trong điều kiện mở cửa, hội nhập của nước ta hiện nay, là thành viên của ASEAN, APEC và đã ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO trong tương lai, ngành dệt may Việt Nam đón nhận nhiều cơ hội, tính đến năm 2000 năng lực sản xuất của toàn ngành là 162000 tấn sợi, 800 triệu mét vải, 39 triệu sản phẩm dệt kim, 400 triệu sản phẩm may và các loại hàng dệt, may khác. Giá trị hàng dệt, may xuất khẩu năm 1999 đạt 1747 tỷ USD. Sự khởi sắc này bắt đầu tư năm 1993; từ vị trí cuối của những mặt hàng xuất khẩu năm 1990 thì đến năm 1996, 1997 vươn lên vị trí số 1 trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam và năm 1998 đã lùi xuống vị trí thứ hai nhường cho mặt hàng dầu thô. Xuất khẩu dệt may có ý nghĩa quan trọng như giải quyết việc làm, phù hợp với đặc điểm phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, vì vậy dệt may Việt Nam là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Việt Nam.
Hiện nay, mặt hàng dệt may chiếm tỷ trọng từ 20 - 25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu nói chung. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt hơn 2 tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đã xây dựng được thương hiệu trong nước, uy tín ở nước ngoài như công ty may Nhà Bè, Công ty may Thắng Lợi, Công ty Dệt Kim Hà Nội, Công ty May Mười. Các sản phẩm nổi tiếng này đã được tiêu dùng ở Châu Âu, Châu á, Châu úc,... đạt được những kết quả này là cả sự thay đổi, đầu tư mạnh dạn của nhiều doanh nghiệp cũng như sự điều tiết của nhà nước. Nhưng xét trên bình diện chung ngành may mặc có sự khởi sắc hơn ngành dệt và cũng nhiều doanh nghiệp đã không thể đứng vững được trên thương trường. Có thể thấy thực trạng đó qua thực tiễn sau:
Trước hết phải kể đến ngành dệt của nước ta trong những năm của thập kỷ 90, ngành dệt hay dệt may có tốc độ phát triển không ổn định, tốc độ tăng trưởng đạt 13% năm 1994, 12% năm 1995 và lại tăng lên 14% vào năm 1997. Tốc độ phát triển không đều nói trên một phần là do sự yếu kém của ngành dệt trong việc chiếm lĩnh thị trường trong nước của các sản phẩm dệt Việt Nam so với sản phẩm dệt Ngoại, phần khác là do thiếu nguồn vốn nhập trang thiết bị và nguyên liệu vào năm 1995 - 1996. Tỷ trọng giá trị tổng sản phẩm hàng dệt trong GDP có xu hướng giảm dần, chiếm gần 4% GDP năm 1993 xuống còn gần 2% GDP năm 1998. Và ngay trong ngành dệt may cũng phản ánh xu hướng này, mặc dù dệt vẫn chiếm tỷ trọng cao trong ngành dệt - may nhưng tỷ trọng của ngành dệt đã giảm đi rất nhiều, từ gần 80% năm 1993 xuống còn hơn 6% năm 1998
Thực trạng công nghệ, trang thiết bị của ngành dệt rất khác nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực khác nhau của ngành như kéo sợi, dệt thoi, dệt kim, nhuộm, in và hoàn tất. Mặc dù ngành đã có nỗ lực đầu tư đổi mới trang thiết bị, xong nhìn chung toàn ngành, công nghệ, trang thiết bị vẫn ở trong tình trạng lạc hậu so với các nước trong khu vực.
- Đối với lĩnh vực dệt kim: Công nghệ dệt kim của ngành khá hiện đại so với các công nghệ khác. Phần lớn các máy dệt kim nhập của Trung Quốc, Tiệp và Đông Đức từ trước năm 1986 đều đã thanh lý và chuyển nhượng cho địa phương. Hiện nay các doanh nghiệp dệt lớn của Nhà nước đều sử dụng máy dệt kim nhập của các nước như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Đức từ sau năm 1996; 30% số máy này thuộc thế hệ mới, một số máy đã được vi tính hoá. Vi chất lượng sợi bông kém nên hầu hết các doanh nghiệp chọn phương án sản xuất sử dụng sợi Pc/Co để sản xuất những sản phẩm đơn giản như vải màn, vải valies, chưa quan tâm đến sản xuất các loại vải cao cấp như vải trang trí, vải thảm, vải dùng trong xây dựng.
- Đối với lĩnh vực nhuộm, in và hoàn tất: Tất cả các thiết bị in, nhuộm và hoàn tất là nhập từ nước ngoài. Hiện nay 35% thiết bị in và nhuộm trong ngành nhập từ năm 1986 trở lại đây (khoảng 300 máy). Tất cả các thiết bị này đều thuộc thế hệ A2, A3 và vẫn hoạt động tốt. Số còn lại nhập từ trước năm 1985, thậm chí có những máy nhập từ những năm 60. Theo chủ trương của VINATEX những máy này cần phải giải quyết dần. Năm 1997, công suất sử dụng máy móc, thiết bị của ngành là 75%. Năm 1998, tình hình còn xấu đi nhiều do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực.
Tình trạng công nghệ lạc hậu đã làm cho ngành dệt không có khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng của nguyên liệu đào vào cho ngành may, ngành may phải phụ thụoc nhiều vào nhập khẩu, và như vậy đất nước mất đi nhiều cơ hội cho sản xuất thay thế nhập khẩu trong các khâu sử dụng khá nhiều lao động của ngành dệt. Vì ngành dệt năng lực sản xuất nhỏ không đáp ứng đủ cho nhu cầu dệt may cả nước nên ngành may phải nhâpj vải từ nước ngoài. Vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã, giá cả so với vải nhập ngoại nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Ngành may mặc dù đã có sự chuyển đổi như đầu tư công nghệ, thay đổi thiết bị dệt thoi, dệt kim, dây chuyền nhuộm, xử lý vải khổ.... nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Sản phẩm may mặc kỹ thuật cao đáp ứng chưa nhiều, trình độ người lao động còn non nớt, yếu kém, hệ thống quản lý chất lượng ngành dệt may hiện nay đã bắt đầu được chú trọng từ phía các doanh nghiệp.
Thị trường các sản phẩm trong nước có tính cạnh tranh cao đặc biệt đối với đối thủ mạnh hơn trong khu vực. Là thành viên của ASEAN và đang trong quá trình thực hiện AFTA, thị trường Việt Nam là sân chơi của các nước trong khu vực. Do vậy chiếm lĩnh thị trường nội địa là một thách thức rất lớn đối với các nhà sản xuất dệt Việt Nam. Theo thống kê của VINATEX, trong những năm vừa qua tỷ trọng tiêu thụ nội địa trong tổng số hàng dệt sản xuất trong nước chỉ chiếm khoảng 55%. Điều này chứng tỏ hàng dệt Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước cả về chất lượng và số lượng.
Thị trường xuất nhập khẩu là thị trường cạnh tranh quyết liệt hơn. Từ khi Việt Nam thực hiện quá tình đổi mới, giá trị xuất khẩu hàng dệt may có tăng lên, cũng như ngành may, ngành dệt đã chuyển từ thị trường Liên Xô cũ và Đông âu sang thị trường phương Tây và Châu á. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam bao gồm thị trường có quota và phi quota. Thị trường EU là thị trường xuất khẩu có quota. Dệt may Việt Nam bắt đầu xâm nhập thị trường này từ năm 1993 khi hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết và có hiệu lực. Canada và Nauy cũng là thị trường có quota nhưng giá trị xuất khẩu sang thị trường này không đáng kể. Thị trường xuất khẩu phi quota được mở rộng mạnh trong những năm gần đây. Nhật Bản là thị trường phi quota lớn nhất về mặt hàng dệt. Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc là những nước nhập khẩu khá nhiều hàng dệt may của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu hàng ệt may sang Nga và các nước Đông âu nhưng chủ yếu dưới hình thức đổi hàng và thanh toán nợ. Các nước như Trung Quốc, Indonexia, Thái Lan đều có một ngành công nghiệp dệt may xuất khẩu khá lớn. Việt Nam thực thi chính sách bảo hộ đối với một số mặt hàng dệt sản xuất được trong nước trước sự cạnh tranh rất mạnh từ phía hàng ngoại. Hàng năm nhập khẩu các mặt hàng dệt (kể cả nguyên liệu cho ngành dệt và sản phẩm dệt) chiếm 6-7% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Nhập khẩu hàng dệt cho mục đích tiêu dùng chiếm phần lớn số hàng dệt nhập (4 - 5% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước). Trong những năm trở lại đây ngành dệt may đã chiếm lĩnh thị trường trong nước, tăng cường xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng của ngành không cao và không ổn định. Thực trạng này của ngành do nhiều yếu tố tác động, có những yếu tố là khách quan, và cũng có những yếu tố chủ quan.
Tuy chế độ bao cấp đã xoá bỏ, nhưng Nhà nước vẫn thi hành những chính sách cấp vốn và hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước theo hướng tập trung vào những dự án, công trình trọng điểm, đem lại hiệu quả kinh tế đối với nền kinh tế. Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, các doanh nghiệp dệt còn được ưu tiên trong việc vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA. Mặc dù được hỗ trợ từ phía Nhà nước các doanh nghiệp dệt, đặt biệt các doanh nghiệp tư nhân vẫn luôn trong tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư dài hạn. Có một số doanh nghiệp đã phải khắc phục tình trạng này bằng cách dùng vốn lưu động để đầu tư đổi mới trang thiết bị nhưng họ lại phải đứng trước một khó khăn là phải chịu lãi suất coa và thời gian trả nợ ngắn. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp phải tăng tỷ lệ khấu hao tính vào giá thành. Lãi suất vay vốn đầu tư và tỷ lệ khấu hao cao làm cho giá của mặt hàng dệt tăng, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt. Phần lớn các khoản đầu tư cho ngành dệt trong năm 1997 - 1998 là tính bằng động ngoại tệ. Kih chính phủ Việt Nam thực hiện điều chỉnh tỷ giá vào tháng 8/1998 thì nhiều doanh nghiệp đã bị thiệt hại nghiêm trọng. Mặt khác các doanh nghiệp dệt phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất. Tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam so với đồng đô la tăng làm cho nhập khẩu trở nên đắt hơn. Điều này gây tổn hại đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nguồn nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt là bông. năng suất trồng bông Việt Nam thấp. Người nông dân đã chuyển nhiều diện tích trồng bông sang trồng các loại cây khác mang lại lợi ích kinh tế cao hơn. Mặt khác giá bông Việt Nam lại cao hơn giá bông nhập. Chất lượng bông nội địa lại xấu, không đủ tiêu chuẩn đáp ứng sản xuất hàng xuất khẩu cũng như tỷ lệ tiêu hao sợi nội địa cao hơn sợi nhập ngoại. Do vậy ngành dệt đã phải phụ thụoc rất nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, vấn đề khó khăn ở đây là giá sợi bông nhập không ổn định. Trong nhiều năm gần đây giá bông đã tăng lên khá nhiều so với những năm trước. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành của các sản phẩm dệt, làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt về chi phí sản xuất. Khả năng cạnh tranh của ngành còn khá khiêm tốn, ngành dệt mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, phấn đấu vươn lên xuất khẩu. Trong chiến lược phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc nhóm ngành có tính cạnh cao và được ưu tiên hỗ trợ từ phía Nhà nước, Nhà nước đã thi hành một số chính sách hỗ trợ chơ ngành. Nhưng thực tế ngành dệt đang gặp rất nhiều khó khăn và có xu hướng giảm sút, nên một câu hỏi được đặt ra ở đây là ngành dệt có khả năng phát triển thực sự hay không trong điều kiện môi trường chính sách phù hợp hơn. Câu trả lời là có, bởi vì so với may, ngành dệt có sức cạnh tranh kém hơn, song dệt vẫn là ngành sử dụng khá nhiều lao động so với nhiều ngành khác và sự yếu kém của ngành dệt có thể thay đổi được.
Việt Nam với số dân khoảng 80 triệu người làm một thị trường đầy tiềm năng cho tiêu thụ các loại hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng. Trong tương lai, khi đời sống của tầng lớp dân cư ngày càng được cải thiện thì nhu cầu sử dụng hàng dệt may sẽ ngày càng tăng cao. Tuy vậy năm 1999, ngành mới đạt 314,7 triệu m2 vải lụa thành phẩm, tức là bình quân tiêu dùng mỗi người chỉ đạt chưa đầy 5m2/năm. Một thực tế là mặc dù sản lượng vải do ta sản xuất còn ít - mới đạt bình quân 5m2/ngườiăm và 50% công suất thiết kế, song vải của ta bán vẫn chậm, một số doanh nghiệp hàng tồn kho vẫn cao và kinh doanh thua lỗ. Năm 1999 trong số 6 doanh nghiệp lỗ của Tổng Công ty dệt may Việt Nam thì có 4 doanh nghiệp dệt chiếm 20% trong tổng số các doanh nghiệp dệt của Tổng Công ty với tổng số lỗ là 10 tỷ đồng. Khả năng cạnh tranh kém của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường nội địa còn được thể hiện ở chỗ nếu so sánh với một số hàng nhập khẩu, đặc biệt là Trung Quốc thì hàng của họ rẻ hơn và mẫu mã phong phú hơn hàng của ta nhiều. Dệt may của ta một số khá lớn không bán được ở thị trường thành phố vì lỗi mốt hoặc chất lượng không cao nhưng cũng không tiêu thụ đựơc vì giá đắt, chi phí cho đơn vị sản phẩm của ta đều cao hơn so với các nước trong khu vực. Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn chung bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN. Một điều dễ nhận thấy là có sự chênh lệch lớn về kỹ năng của lao động giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cơ cấu vốn không hợp lý cùng với lãi suất ngân hàng còn quá lớn đã không khuyến khích sản xuất, làm cho các chi phí gián tiếp tăng cao. Đã có rất nhiều doanh nghiệp do bí các nguồn vốn trung và dài hạn đã phải dùng các nguồn vay ngắn hạn để đầu tư, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sản xuất. Đây có thể coi là nguyên nhân cơ bản nhất làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường nội địa.
ở các thị trường có hạn ngạch mà tiêu biểu nhất là thị trường EU. Đây là thị trường được đánh giá là Việt Nam có nhiều lợi thế nhất trong số các thị trường hạn ngạch. Mặc dầu ta đã thu được một số kết quả bước đầu khi thâm nhập vào thị trường này do được hưởng một số ưuđãi như: Số lượng hạn ngạch ngày càng tăng, mức chuyển đổi giữa các mặt hàng lớn, được phép sử dụng hạn ngạch dư thừa của các nước ASEAN... nhưng thực ra những ưu đãi đó chưa làm tăng nhiều khả năng cạnh tranh của Việt Nam so với các nước khác ở thị trường này. Cụ thể số lượng hạn ngạch Việt Nam được hưởng còn rất thấp so với nhiều nước: chỉ bằng 5% so với Trung Quốc; 10-20% của các nước ASEAN. Số mặt hàng bị hạn chế bằng hạn ngạch lớn hơn so với các nước khác: của Việt Nam là 29 nhóm, trong khi đó của Thái Lan là 20 nhóm, Singapore là 8 nhóm. Ngoài ra khả năng kém cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thể hiện: do mới xâm nhập voà thị trường nên ta ít có khách hàng trực tiếp. Mặc dầu có hạn ngạch nhưng hầu hết doanh nghiệp Việt Nam phải xuất khẩu thông qua nước thứ 3 để vào thị trường EU. Nhưng lô hàng này theo qui định của EU không được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Chính do hạn chế đó mà nhiều doanh nghiệp do không ký được hợp đồng đã bỏ "khê" hạn ngạch, nhiều mã hàng bị bỏ trống vì không có doanh nghiệp tham gia do yêu cầu về mặt kỹ thuật không đáp ứng được.
ở thị trường Nhật Bản, hàng dệt may của Việt Nam tuy đang có tín nhiệm, kim ngạch xuất khẩu vào Nhật Bản có xu hướng tăng nhanh trong những năm vừa qua. Song gần đây, để hạn chế mức gia tăng này, các doanh nghiệp Nhật bản cũng đang đề nghị chính phủ Nhật Bản áp dụng chế độ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam. Nếu đề nghị này được chấp thuận thì đây lại là một yếu tố làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trong tương lai.
ở thị trường SNG và Đông Âu: Đây được coi là thị trường truyền thống trước kia của hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng. Thị trường này được đánh giá là khá dễ tính, song những năm gần đây đã thay đổi về thị hiếu, yêu cầu chất lượng. ở thị trường này, Việt Nam chưa thiết lập được những khách hàng lớn, song nhờ mạng lưới bán lẻ rộng khắp nên hàng dệt may Việt Nam được tiêu thụ khá nhưng thời gian gần đây hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm thị phần do giá rẻ hơn và mẫu mã phong phú. Mặt khác, chi phí vận chuyển sang các thị trường này khá lớn làm tăng chi phí sản xuất và giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Một thực tế nữa là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quá ít thông tin về thị trường, về các đối tác nước ngoài mà họ hợp tác sản xuất. Hiện nay mạng lưới thương vụ của ta hầu như có mặt ở mọi nơi trên thế giới, song, những thông tin về thị trường buôn bán hàng dệt may được họ quan tâm cung cấp về nước quá ít, kể cả một số thị trường lớn và truyền thống của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam lại nghèo, không có đủ chi phí để thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm, các cuộc xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài, nên thông tin quốc tế càng bị hạn chế. Những thay đổi về mẫu mã, những khuynh hướng thời trang mới, chúng ta hoàn toàn không nắm được trước để chuẩn bị cho sản xuất.
2. Những thuận lợi và khó khăn đối với hàng dệt may Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
2.1. Những thuận lợi
Thị trường Mỹ từ trước tới nay vẫn được thế giới công nhận là một thị trường đầy tiềm năng bởi dân số đông, nhu cầu lớn, tốc độ phát triển nền kinh tế cực kỳ mạnh mẽ, là quốc gia đứng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là kinh tế. Mặc dù có nhiều bang khác nhau, lụât pháp rất phức tạp nhưng lại rất chặt chẽ. Người Mỹ vốn quý thời gian nên tốc độ làm việc của họ cao, thủ tục đơn giản, phương thức giao dịch nhanh chóng, họ có tác phong công nghiệp trong kinh doanh.
Ngày 9/12/2001, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực: hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ giành cho nhau ưu đãi, quy chế tối huệ quốc và giành cho nhau quy chế đối xử quốc gia. Điều đó tạo thuận lợi lớn, hàng dệt may Việt Nam trước đây chịu mức thuế thông thường 48-90% đối với một số sản phẩm, Việt Nam đã xuất sang Mỹ một lượng hàng may mặc trị giá 37 triệu USD vào năm 1999. Với sự ưu đãi về thuế suất 3-4% thì hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng gấp nhiều lần. Khi có hiệp định này, Việt Nam sẽ thu hút các nhà đầu tư của Mỹ cũng như của các nước khác, quan hệ thương mại thông thống giữa hai nước sẽ làm cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ kỹ thuật hiện đại từ các thị trường nguồn, tạo thời cơ trong việc đào tạo sử dụng đội ngũ lao động. Vì dệt may Việt Nam là ngành có giá trị xuất khẩu lớn ước tính 4-5 tỷ USD vào năm 2005 và 7-8 tỷ vào naưm 2010 nên được hưởng chính sách ưu đãi và sự quan tâm của Nhà nước. Ngành có nguồn nhân công rẻ, dồi dào và các doanh nghiệp địa phương về dệt may phát triển mạnh mẽ. Hơn thế nữa Việt Nam mở rộng quan hệ đối tác với nhiều quốc gia trên thế giới, tạo thuận lợi về vốn chuyển giao công nghệ kỹ thuật nâng cao chất lượng, năng suất.
2.2. Những khó khăn.
Mặc dù Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với khối lượng lớn đặc biệt từ khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực nhưng xuất khẩu chủ yếu gián tiếp qua nước thứ ba như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản do đó cước phí vận chuyển lớn và chênh lệch giá cũng không nhỏ, điều làm mất đi ưu thế cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Năng suất ngành dệt may Việt Nam đã tăng lên nhiều do thay đổi công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tay nghề người lao động... nhưng đối với thị trường rộng lớn như Mỹ, năng lực sản xuất vẫn nhỏ khó đáp ứng đủ nhu cầu tron
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0121.doc