MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu nghiên cứu 2
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
1.1 Cơ sở lý luận về nâng cao năng lực TCTT nông sản cho PNNT 4
1.1.1 Một số khái niệm 4
1.1.2 Đặc điểm, vị trí của người PNNT 8
1.1.3 Yêu cầu nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho PNNT 11
1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực TCTT của PNNT 13
1.2 Cơ sở thực tiễn nâng cao năng lực TCTT cho PNNT 15
1.2.1 Kinh nghiệm của nước đang phát triển về việc nâng cao năng lực TCTT nông sản cho PNNT. 15
1.2.2 Kinh nghiệm nâng cao năng lực TCTT nông sản ở nước ta. 17
PHẦN 2 - ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Hải Nam 21
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên 21
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Hải Nam 23
2.2 Phương pháp nghiên cứu 30
2.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu, chọn mẫu điều tra 30
2.2.2 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu 30
2.2.3 Phương pháp xử lý số liệu 30
2.2.4 Phương pháp phân tích 31
2.2.5 Phương pháp so sánh 31
2.2.6 Phương pháp tổng hợp 31
PHẦN 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
3.1 Thông tin chung về phụ nữ nông thôn xã Hải Nam 32
3.2 Thực trạng tiếp cận thị trường của PNNT xã Hải Nam 35
3.2.1 Tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào 35
3.2.2 Tiếp cận thị trường đầu ra 44
3.2.3 Tiếp cận trong hạch toán thu - chi 49
3.2.4 Những khó khăn và thuận lợi của phụ nữ nông thôn Hải Nam trong quá trình tiếp cận thị trường 51
3.3 Năng lực tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin về thị trường của phụ nữ nông thôn xã Hải Nam 54
3.3.1 Nguồn tiếp cận và nội dung tiếp cận thông tin 54
3.3.2 Những trở ngại đối với việc tiếp cận thông tin của người phụ nữ nông thôn Hải Nam 57
3.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam 58
3.4.1 Các yếu tố khách quan 58
3.4.2 Các yếu tố chủ quan 62
PHẦN 4: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN XÃ HẢI NAM 64
4.1 Những giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho nông dân Việt Nam 64
4.2 Những giải pháp để nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn 67
4.2.1 Những giải pháp chung 67
4.2.2 Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực tiếp cận thị trường cho phụ nữ nông thôn Hải Nam. 69
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 72
1. Kết luận 72
2. Kiến nghị 74
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường nông sản cho phụ nữ nông thôn xã Hải Nam huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, mua vật tư, công cụ sản xuất gì hoặc bán sản phẩm ra sao, số lượng là bao nhiêu. Đây là một điều rất thuận lợi cho việc nâng cao năng lực TCTT cho PNNT xã Hải Nam.
3.2 Thực trạng tiếp cận thị trường của PNNT xã Hải Nam
Ở nông thôn đa số phụ nữ đều tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi. Do vậy họ sẽ được tiếp cận với rất nhiều loại thị trường. Nắm rõ về thị trường mình tham gia sẽ giúp cho người sản xuất kinh doanh có hướng đi phù hợp với điều kiện của mình để có thể đạt được kết quả cao nhất. Nhìn chung PNNT ở Hải Nam tiếp cận chủ yếu với hai loại thị trường chính là thị trường các yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm). Vậy những PNNT xã Hải Nam đang tiếp cận ở mức độ nào và năng lực tiếp cận ra sao trong các loại thị trường ?
3.2.1 Tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào
Đầu vào là những yếu tố mà người sản xuất đầu tư vào trong quá trình sản xuất để thu được lợi nhuận. Do vậy người sản xuất cần phải cân nhắc, lựa chọn những yếu tố này sao cho chi phí đầu vào phải nhỏ nhất nhưng lại đem đến hiệu quả cao nhất. Trồng lúa và NTTS là hai thế mạnh ở Hải Nam nên thị trường các yếu tố đầu vào đối với họ chủ yếu là: thị trường vật tư nông nghiệp như giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, đặc biệt là việc tiếp cận nguồn vốn của họ - một yếu tố rất quan trọng trong các yếu tố đầu vào.
3.2.1.1 Tiếp cận nguồn vốn
Ở Hải Nam các hộ có thể tiếp cận vốn từ nhiều nguồn khác nhau như từ Ngân hàng NN & PTNT, Ngân hàng CSXH, hội nông dân, hội phụ nữ,… hay từ các nguồn vay không chính thống như vay bạn bè, hàng xóm, vay tư nhân, hội, phường,…Hình thức vay và số lượng vay còn phụ thuộc vào điều kiện của gia đình và mục đích sản xuất. Do nam giới trong gia đình thường xuyên vắng mặt nên việc tìm nguồn vay, làm thủ tục vay vốn, phân phối mục đích sử dụng vốn vay hầu hết đều do người phụ nữ đứng ra lo liệu.
Bảng 3.5: Tình hình tiếp cận vốn của phụ nữ Hải Nam
Nguồn vốn vay
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
Ngân hàng NN & PTNT
10
83,3
13
72,2
15
62,5
2
33,3
Ngân hàng CSXH
-
-
3
16,7
20
83,3
6
100
Hội phụ nữ
3
25,0
5
41,7
18
75,0
6
100
Họ hàng/ bạn bè
4
33,3
15
83,3
16
66,7
4
66,7
Tư nhân
7
58,3
16
88,9
19
79,2
6
100
Hội/ phường
12
100
18
100
24
100
6
100
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Từ bảng 3.5 ta có thể thấy rằng những phụ nữ nông thôn ở Hải Nam đã tiếp cận nguồn vốn rất tốt thông qua nhiều hình thức khác nhau. Trong các hình thức thì tham gia hội/ phường là hình thức phổ biến hiện nay và lôi kéo nhiều chị em phụ nữ tham gia (100% số phụ nữ được hỏi). Đây là hình thức các thành viên góp vốn cho một thành viên và thành viên đó sẽ trả dần số tiền đó trong một khoảng thời gian. Với hình thức này đã giúp cho nhiều gia đình có một số vốn lớn để phát triển kinh tế và có thời gian xoay xở. Số phụ nữ tiếp cận được với nguồn vay của Ngân hàng NN & PTNT chỉ tập trung nhiều ở hộ giàu và hộ khá do hình thức vay này đòi hỏi phải có điều kiện thế chấp cao và thủ tục khá phức tạp. Bởi vậy những phụ nữ ở hộ TB và hộ nghèo chọn cách tiếp cận nguồn vốn thông qua Ngân hàng CSXH với lãi suất ưu đãi và thủ tục đơn giản hơn. Tuy nhiên khi tiếp cận với các nguồn vốn chính thống như Ngân hàng NN & PTNT, Ngân hàng CSXH đòi hỏi phải có chủ hộ đứng tên vay vốn nên những phụ nữ muốn vay vốn phải có sự ủy quyền của chủ hộ là người chồng, dẫn đến nhiều chị em thấy ngại khi phải thực hiện những thủ tục rườm rà đó. Bên cạnh đó nguồn vay tư nhân cũng được nhiều phụ nữ tiếp cận. Đây là hình thức vay phi chính thống, không đòi hỏi thủ tục, không hạn chế số lượng vay, thời gian vay linh động nhưng lãi suất cao hơn lãi suất Ngân hàng. Khi tiếp cận hình thức vay này chị em phụ nữ phải tự tìm nơi có thể cho mình vay, phải tính toán, cân nhắc mục đích sử dụng vốn thật tốt. Ngoài những hình thức tiếp cận với nguồn vốn trên PNNT ở Hải Nam còn tiếp cận được với các hình thức khác như: vay vốn từ hội Phụ nữ (thông qua dự án Việt - Bỉ, đây là dự án được tài trợ bởi Vương quốc Bỉ được thực hiện từ năm 1997 đến nay nhằm hỗ trợ vốn sản xuất cho phụ nữ nghèo), qua hàng xóm, bạn bè thân quen của gia đình.
Khi được hỏi về mục đích sử dụng số vốn vay được thì các chị em cho biết họ có rất nhiều mục đích sử dụng như để sản xuất, chi tiêu cho sinh hoạt, đóng học phí cho con, đóng góp xã hội, trả các khoản nợ khác, khắc phục những chi tiêu đột biến (tai nạn, đau ốm, thiên tai). Sử dụng vốn có hiệu quả khi duy trì và mở rộng quy mô sản xuất, duy trì và cải thiện cuộc sống của gia đình mình. Tùy theo từng điều kiện gia đình mà mỗi phụ nữ nên có những cách phân bổ vốn sao cho có hiệu quả thiết thực nhất.
Bảng 3.6: Cơ cấu sử dụng vốn vay của phụ nữ nông thôn Hải Nam năm 2008
ĐVT: %
Mục đích sử dụng
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Sản xuất
83,4
86,7
71,8
63,6
Chi cho sinh hoạt
8,9
6,2
10,4
18,7
Trả các khoản nợ
15,1
2,3
13,6
10,5
Khắc phục các chi tiêu đột biến
3,6
4,8
4,2
7,2
Tổng
100
100
100
100
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra
Bảng 3.6 cho thấy phần lớn các chị em đều đã sử dụng nguồn vốn vay được để phục vụ cho mục đích sản xuất của gia đình. Tuy nhiên giữa các hộ có sự khác nhau về phân bổ nguồn vốn vào các mục đích khác nhau. Trong 4 loại hộ, hộ nghèo phân bổ cho nguồn vốn vào mục đích sản xuất là thấp nhất (63,6%), chi cho sinh hoạt hàng ngày và khắc phục các chi tiêu đột biến cao hơn so với các loại hộ còn lại. Nguyên nhân do khác với những người giàu, người nghèo không có nhiều điều kiện về vật chất như có đủ hoặc dư tiền để chi riêng cho sinh hoạt hằng ngày hoặc chi cho những lúc bất ngờ ốm đau, bị tai nạn. Những lúc như thế họ thường phải đi vay tiền (kể cả với lãi suất cao) để trang trải cuộc sống, vượt qua những lúc khó khăn. Do vậy cũng không thể khẳng định được rằng phụ nữ ở những hộ giàu phân bổ nguồn vốn hiệu quả hơn phụ nữ ở những hộ nghèo. Tuy việc phân bổ nguồn vốn cho những mục đích sử dụng khác nhau nhưng nhìn chung phụ nữ nông thôn Hải Nam đã tiếp cận rất tốt với các nguồn vốn bằng nhiều nguồn khác nhau kể cả chính thống và phi chính thống. Điều này cho thấy được phụ nữ Hải Nam đã có điều kiện cơ bản để tham gia vào các loại thị trường, nhất là thị trường vật tư nông nghiệp phục vụ cho sản xuất trồng trọt và chăn nuôi của gia đình.
3.2.1.2 Tiếp cận thị trường vật tư nông nghiệp
* ) Tiếp cận giống lúa
Giống lúa là nguồn đầu vào rất quan trọng quyết định năng suất, chất lượng của đầu ra. Tuỳ theo mục đích sử dụng mà mỗi hộ chọn cơ cấu giống cho gia đình mình. Nếu sản xuất theo hướng để bán thì sẽ khác với sản xuất để phục vụ nhu cầu của gia đình. Thông thường ở nông thôn Việt Nam thì sản xuất theo hướng kết hợp, vừa phục vụ nhu cầu của gia đình vừa để bán là phổ biến nhất. Cho nên nguồn tiếp cận giống lúa ở Hải Nam cũng khá đa dạng.
Bảng 3.7: Tình hình tiếp cận giống lúa của phụ nữ Hải Nam
Nguồn
tiếp cận
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Tổng
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
DNNN
2
25
-
-
-
-
-
-
2
5
HTX
5
62,5
10
83,3
16
100
4
100
35
87,5
Tư nhân
6
75
8
66,7
11
68,8
1
25
26
65
Tự có
3
37,5
5
41,7
12
75
4
100
24
60
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Qua bảng 3.7 ta thấy nguồn tiếp cận giống lúa của phụ nữ Hải Nam cũng khá phong phú bởi vì trong một vụ sản xuất họ không thể chỉ gieo trồng một giống lúa mà phải lựa chọn nhiều giống lúa để có nhiều loại thóc hơn. Trong 4 nguồn tiếp cận thì HTX là nơi được nhiều phụ nữ lựa chọn nhất (87,5%), trong đó phụ nữ ở hộ nghèo và hộ TB là 100%, hộ khá là 83,3%, thấp nhất là hộ giàu với 62,5%. Sau HTX cũng có nhiều phụ nữ chọn mua ở các cửa hàng, các đại lý của tư nhân. Ở địa điểm này mua nhiều nhất là phụ nữ ở hộ giàu với 75%, còn hộ nghèo chỉ có 1 hộ tương đương với 25%. Ngoài việc đi mua giống lúa về để sản xuất ra, phụ nữ ở Hải Nam còn tự chọn những loại thóc có sẵn trong gia đình để làm giống lúa cho vụ sau. Đây là hình thức tiết kiệm về chi phí nên cũng được nhiều phụ nữ thực hiện. Và chỉ có 5% phụ nữ lựa chọn mua ở các DNNN vì phải đi lên tận trung tâm huyện mới có mặc dù giá có rẻ hơn so với mua trong địa bàn xã. Như vậy sở dĩ nhiều phụ nữ chọn HTX để mua giống lúa cho gia đình mình, nhất là những hộ nghèo và hộ TB là do ở Hải Nam hiện đang có 3 HTX hoạt động rất tốt. HTX sẽ bán chịu cho nhân dân có nhu cầu mua trong xã một số vật tư nông nghiệp với lãi suất bằng lãi suất của Ngân hàng và đến mùa sẽ thu tiền. Với hình thức bán này đã thu hút được nhiều phụ nữ vì họ sẽ có điều kiện để sản xuất hơn. Tuy nhiên HTX cũng chỉ bán một số giống lúa thông thường theo nhu cầu số đông, nhiều giống lúa mới hoặc có chất lượng cao chỉ có các đại lý mới có. Chính vì vậy các phụ nữ ở hộ giàu mua giống chủ yếu ở tư nhân.
Như vậy tuỳ theo điều kiện của gia đình mỗi phụ nữ ở Hải Nam đã lựa chọn những địa điểm, hình thức mua đầu vào một cách phù hợp, tiết kiệm để mang lại hiệu quả kinh tế trong việc sản xuất.
* ) Tiếp cận giống thuỷ sản
Thuỷ sản không phải là một ngành truyền thống của Hải Nam. Nó được người dân chú trọng phát triển chỉ trong khoảng hơn chục năm qua. Do vậy quy mô và kinh nghiệm NTTS của người dân Hải Nam vẫn chưa cao. Hiện tại ở Hải Nam vẫn chưa có một trại ươm giống thuỷ sản, nhất là những giống có chất lượng cao để cung cấp giống cho nhân dân trong xã và các xã xung quanh.
Bảng 3.8: Tình hình tiếp cận giống thuỷ sản của phụ nữ Hải Nam
Nguồn
tiếp cận
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Tổng
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
Trại giống
4
100
6
100
8
100
2
100
20
100
Tư nhân
2
50
2
33,3
4
50
2
100
10
50
Tự có
3
75
2
33,3
1
12,5
1
50
7
35
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Qua bảng 3.8 cho ta thấy không có phụ nữ NTTS nào chọn DNNN để mua giống (tôm, cá) vì xung quanh địa bàn xã Hải Nam không có DNNN nào kinh doanh giống thuỷ sản. Để mua được giống họ phải đi đến các trại giống ở xã Hải Quang (Hải Hậu), huyện Xuân Trường, huyện Giao Thuỷ để mua được giống có chất lượng tốt mà địa phương có ít như cá vược, tôm hùm, cá rô phi. Đây là những địa điểm quen thuộc, có uy tín, mua giá tận gốc nên được 100% phụ nữ lựa chọn mua giống. Ngoài nguồn tiếp cận là trại giống một số phụ nữ còn mua giống của tư nhân. Các tư nhân là những người nuôi cá giống với quy mô nhỏ (nuôi ao nhà) hoặc đi lấy giống ở các trại giống, công ty giống về bán lại cho các hộ NTTS. Do bán lại nên giá cả cao hơn (khoảng 25%) so với giá mua tận gốc nên chỉ có 50% phụ nữ chọn mua tại nguồn này. Bên cạnh việc mua ở ngoài cũng có 35% phụ nữ có nguồn giống từ chính ao ươm của gia đình mình, đặc biệt là ở các hộ giàu (75%) do có điều kiện về kinh tế hơn nên có kỹ thuật, có thức ăn để đầu tư nuôi cá giống (cá mè, cá trắm), tôm giống.
* ) Tiếp cận phân bón, thuốc trừ sâu
Mua phân bón, thuốc trừ sâu là một việc làm không thể thiếu của những hộ trồng lúa. Qua phỏng vấn trực tiếp những phụ nữ này cho thấy phân bón họ thường hay mua là những loại phân nổi tiếng trên thị trường như phân lân Lâm Thao, Văn Điển, phân Việt - Pháp, NPK đầu trâu, phân viên nén của Bình Điền. Bên cạnh đó họ cũng rất quan tâm đến việc phòng trừ sâu bệnh cho ruộng lúa của mình nên mỗi khi có thông báo của HTX họ đều đi mua thuốc sâu về phun. Qua điều tra thu được kết quả: 100% số phụ nữ được hỏi đều mua phân bón, thuốc trừ sâu của HTX bởi vì những mặt hàng này ở HTX đều rất đa dạng, phong phú, chất lượng tốt, lại được mua chịu với số lượng lớn. Ngoài ra họ vẫn mua phân bón, thuốc trừ sâu tại các đại lý, cửa hàng nhưng số lượng không nhiều. Thời điểm họ mua phân bón, thuốc trừ sâu thường là khi nào có thông báo trên đài phát thanh của xã thì mới bắt đầu đi mua. Nguyên nhân là do thói quen và họ cũng không có nhiều vốn để nghĩ đến chuyện mua vật tư về dự trữ, dường như đây là một điều khó có thể thực hiện được mặc dù trong vài năm gần đây giá cả thị trường phân bón liên tục tăng. Chính vì việc lúc nào cần thì mua như thế đã khiến cho họ ở vào thế bị động nên chi phí đầu vào tăng lên, người nông dân trồng lúa không có lãi là một thực tế khó tránh khỏi hiện nay.
* ) Tiếp cận thuốc thú y, thức ăn trong NTTS
So với các hộ trồng lúa đa số đều do phụ nữ đứng ra lo liệu thì hộ NTTS cần phải có sự tham gia của nam giới do yêu cầu về sức khoẻ, yếu tố kỹ thuật,… Cho nên mọi công việc mua, bán đều có sự tham gia của cả vợ và chồng.
Bảng 3.9 : Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận thuốc thú y, thức ăn trong NTTS
Chỉ tiêu
ĐVT
Người tham gia tiếp cận
Chồng
Vợ
Cả hai
Địa điểm mua
%
20
70
10
Số lượng
%
60
15
25
Hình thức mua
%
5
80
15
Chủng loại
%
70
20
10
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Qua bảng trên ta thấy người phụ nữ trong hộ NTTS chủ yếu tham gia vào việc lựa chọn địa điểm và hình thức mua trong việc tiếp cận thuốc và thức ăn trong NTTS. Còn đa số nam giới chỉ quyết định mua loại gì và mua bao nhiêu vì điều này liên quan đến kỹ thuật chăm sóc thuỷ sản - điều mà phụ nữ rất ít khi quan tâm đến. Như vậy đã có sự phân công công việc trong những hộ tham gia NTTS và sự phân công này dựa trên quan điểm: ai làm thường xuyên công việc gì thì họ quyết định những vấn đề liên quan đến công việc đó. Điều này chứng tỏ rằng những phụ nữ trong hộ NTTS là người thường xuyên đi mua thức ăn và thuốc nên họ sẽ quyết định mua ở đâu và mua như thế nào. Do vậy cơ hội được tiếp cận với các loại thị trường cũng rất cao.
Bảng 3.10 : Khả năng tiếp cận thị trường thức ăn NTTS của phụ nữ Hải Nam
Sử dụng thức ăn từ
Số lượng (hộ)
Cơ cấu (%)
Đại lý cấp I
-
Đại lý cấp II
3
15
Đại lý cấp III
12
60
Đại lý cấp III và tự chế biến
5
25
Tự chế biến
-
-
Tổng
20
100
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Bảng 3.10 cho ta thấy phụ nữ NTTS ở Hải Nam tiếp cận chủ yếu với các đại lý thức ăn cấp III (chiếm 60%). Sở dĩ họ chọn hình thức tiếp cận này vì hầu hét các hộ mới chỉ chăn nuôi ở quy mô nhỏ, vốn chưa nhiều nên hình thức này được lựa chọn nhiều. Với hình thức này họ có thể tận dụng vốn dưới hình thức mua lần hai trả tiền lần một và giá cả cũng không chênh lệch nhiều so với giá của đại lý cấp I, cấp II. Chỉ có 15% số phụ nữ tiếp cận được với các đại lý cấp II, và không có phụ nữ nào tiếp cận được với đại lý cấp I vì hai hình thức tiếp cận này đòi hỏi cần phải có quy mô chăn nuôi lớn, nguồn vốn lớn. Những điều kiện này có rất ít ở Hải Nam. Các hộ còn lại tiếp cận dưới hình thức kết hợp thức ăn mua từ đại lý cấp III và tận dụng nhiều nguồn thức ăn tự chế như: cỏ (cá trắm cỏ), bã rượu, rau xanh, phân lợn,…Không có hộ NTTS nào chỉ sử dụng thức ăn tự chế trong việc chăn nuôi của mình. Hiện nay có rất nhiều công ty thức ăn chăn nuôi nên mạng lưới thông tin quảng cáo tiếp thị phát triển tới tận các hộ gia đình dưới nhiều hình thức cho nên việc tiếp cận thị trường của những phụ nữ ở nông thôn gặp không ít khó khăn. Họ phải sử dụng, so sánh sau đó mới lựa chọn loại thức ăn lâu dài phục vụ việc chăn nuôi của gia đình. Việc lựa chọn này phải đảm bảo được giá cả, chất lượng cũng như uy tín để đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Bảng 3.11 : Tình hình tiếp cận thuốc thú y trong NTTS của phụ nữ Hải Nam
Chỉ tiêu
Số lượng (hộ)
Cơ cấu (%)
Doanh nghiệp Nhà nước
7
35
Tư nhân
13
65
Tổng
20
100
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Qua bảng 3.11 ta thấy 65% phụ nữ NTTS ở Hải Nam tiếp cận với thị trường thuốc thú y chủ yếu dưới hình thức từ các cửa hàng, đại lý tư nhân phân bố xung quanh địa bàn xã, 35% số phụ nữ chọn cách tiếp cận với Doanh nghiệp Nhà nước là Công ty cổ phần thức ăn chăn nuôi huyện Hải Hậu. Sở dĩ có sự khác nhau trong việc tiếp cận của các phụ nữ là do các Doanh nghiệp Nhà nước đóng rất xa khu vực họ sống nên việc đi lại để mua thuốc đòi hỏi phải có phương tiện đi lại và phải mua với một số lượng lớn. Bởi vậy để thuận tiện cho việc đi lại cộng với nhu cầu về thuốc không nhiều nên họ chọn qua các đại lý, cửa hàng tư nhân. Những hộ chọn mua ở Doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu là những hộ có quy mô chăn nuôi khá hoặc 2 - 3 hộ góp tiền lại để mua với số lượng lớn để giảm giá thành. Đây là một hình thức liên kết mới của những hộ nông dân nhưng vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Tóm lại phụ nữ Hải Nam đã có sự tiếp cận thị trường thuốc thú y trong NTTS khá hợp lý và phù hợp với điều kiện, nhu cầu sản xuất của mình.
Nhìn chung việc tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào của PNNT xã Hải Nam không có gì đặc biệt, chưa có sự thay đổi đáng kể trong cả suy nghĩ và cách thức tiếp cận. Hầu hết các phụ nữ đều tiếp cận theo phong trào, chưa có sự định hướng hoặc nhận thức rõ rệt về nền kinh tế thị trường đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ hiện nay. Bởi vậy việc nâng cao năng lực tiếp cận thị trường đầu vào cho phụ nữ ở Hải Nam là một việc làm cần thiết để giúp họ giảm được chi phí đầu vào - một yếu tố quan trọng để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
3.2.2 Tiếp cận thị trường đầu ra
Trong nền nông nghiệp tiểu nông, tự cung tự cấp lại vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân không trở thành một vấn đề bức xúc. Mọi sản phẩm nông nghiệp đều có sự hỗ trợ của Nhà nước. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa thì việc tiêu thụ sản phẩm trở thành mối quan tâm hàng đầu của nông dân. Trong những năm gần đây nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm ngày càng cao, trong khi công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn khiến cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, số nông dân làm ruộng ngày càng ít đi và dân số lại có xu hướng tăng. Điều này là một thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Tuy nhiên việc hội nhập kinh tế quốc tế khiến hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan,…tràn vào nước ta cạnh tranh với nông sản trong nước khiến cho thị trường đầu ra của nông dân luôn trong tình trạng bấp bênh, không ổn định. Ở nông thôn việc đem sản phẩm của gia đình đi bán đều do người phụ nữ đảm nhiệm nên cơ hội tiếp cận thị trường đầu ra của họ là rất lớn. Vậy phụ nữ ở Hải Nam bán sản phẩm nông nghiệp của gia đình mình ở đâu? Có thường xuyên không? Bán cho ai?....
3.2.2.1 Thị trường tiêu thụ
Đối với phụ nữ của những hộ trồng lúa việc bán sản phẩm nông nghiệp của gia đình mình được thực hiện rất đơn giản. Họ rất ít khi mang thóc, gạo ra chợ bán trực tiếp cho người tiêu dùng bởi cách làm này đòi hỏi phải có lượng sản phẩm lớn và cần phải có thời gian. Cho nên cách nhanh nhất để họ có thể bán được sản phẩm của mình là gọi thương lái (người thu gom). Đây là lực lượng chính tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Các đối tượng này rất linh hoạt, nhanh nhạy và rất sòng phẳng. Họ không mua chịu của nông dân mà trả tiền ngay. Chính vì thế họ được nông dân nhất là những phụ nữ lựa chọn để bán sản phẩm nông sản. Hình thức bán này thường chiếm khoảng 60% tổng sản phẩm khi bán của mỗi hộ. Còn lại họ sẽ bán trực tiếp cho các đại lý xay xát tại địa phương. Với hình thức bán này giá sẽ cao hơn so với giá bán cho thương lái từ 2 – 3 giá nhưng họ sẽ phải mất công vận chuyển hoặc nếu các đại lý có cho xe đến chở thì cũng đòi hỏi phải có số lượng thóc lớn, ít nhất là 0,5 tấn. Với số lượng thóc lớn như thế thì một hộ không thể đáp ứng được vì diện tích ruộng trồng lúa không cao, sản phẩm còn để phục vụ cho nhu cầu của gia đình. Do vậy để bán được giá cao hơn các hộ trồng lúa phải liên kết với nhau để có số lượng thóc lớn. Ở Hải Nam hình thức liên kết này hầu như chưa có.
Đối với những phụ nữ của hộ nuôi trồng thủy sản thì hình thức bán phong phú hơn. Do sản phẩm là tôm, cá – là những thực phẩm hàng ngày nên họ cần phải linh hoạt hơn. Ngoài việc bán cho thương lái ở địa phương là chính họ còn mang sản phẩm ra chợ địa phương, đến các nhà hàng quanh khu vực, cũng có gia đình mang sản phẩm lên thành phố Nam Định để tiêu thụ. Những hộ NTTS ở đây còn có một lợi thế là Hải Nam cách bãi tắm Quất Lâm khoảng 3 km và đây là một thị trường hấp dẫn cho họ. Tại đây thường có một lượng lớn khách du lịch nên nhu cầu về thuỷ, hải sản rất cao. Chính vì thế một lượng lớn sản phẩm thủy sản của Hải Nam dưới nhiều hình thức bán trực tiếp hay bán cho tư thương đều tiêu thụ ở thị trường này.
Sở dĩ cả hộ trồng lúa và hộ NTTS đều chọn tư thương (thương lái) làm kênh tiêu thụ chính là do đối tượng này rất linh hoạt trong việc mua và thanh toán. Tuy nhiên chính vì ưu điểm này nên dẫn đến hiện tượng họ lợi dụng hoàn cảnh của nông dân (cần tiền gấp, sản phẩm dư thừa vào đầu vụ,…) để ép giá nông dân. Bởi vậy sau mỗi vụ sản xuất hộ thu được lãi nhưng không cao và không xứng đáng với công sức bản thân và gia đình bỏ ra.
Như vậy với thị trường tiêu thụ như trên thì đa số người dân đều cho rằng họ rất dễ tiêu thụ sản phẩm của mình. Chỉ một số ít hộ gặp khó khăn là những hộ NTTS do họ tôm, cá dễ mắc bệnh, dụng cụ bảo quản sản phẩm lại không có nên nhiều khi gặp khó khăn trong việc bán sản phẩm làm ra.
Tóm lại việc tiếp cận thị trường tiêu thụ đầu ra của hai loại sản phẩm là thóc và thủy sản ở Hải Nam cũng có sự khác nhau khá rõ. Thị trường tiêu thụ thóc còn thiếu tính linh hoạt, chủ động. Phạm vi tiêu thụ còn ở mức độ địa phương, chưa có hộ nào có thị trường tiêu thụ ở thành phố hoặc ngoại tỉnh kể cả những hộ giàu. Nhưng phụ nữ ở hộ NTTS đã có sự tiến bộ hơn, sản phẩm đã hướng tới khách hàng nên phạm vi tiêu thụ được mở rộng hơn rất nhiều.
3.2.2.2 Thời điểm bán sản phẩm
Thời điểm bán cũng là một trong những yếu tố nói lên năng lực tiếp cận thị trường của phụ nữ nông thôn. Thời điểm bán cho ta thấy được phản ứng của phụ nữ trước thị trường, khả năng quyết định và lựa chọn của họ.
Bảng 3.12 : Thời điểm bán sản phẩm của phụ nữ Hải Nam
Thời điểm
bán
Hộ giàu
Hộ khá
Hộ TB
Hộ nghèo
Tổng
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
SL
(hộ)
CC
(%)
Thường xuyên
3
25,0
1
5,6
-
-
-
-
4
6,7
Lúc thu hoạch
12
100
14
77,8
24
100
6
100
56
93,3
Cần chi tiêu
5
41,7
11
61,1
24
100
6
100
46
76,7
Khi giá tăng
7
58,3
2
11,1
2
8,3
-
-
11
18,3
Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra
Từ kết quả bảng 3.12 ta thấy thời điểm mà phụ nữ nông thôn Hải Nam chọn để bán sản phẩm của gia đình mình thường là vào vụ thu hoạch, chiếm khoảng 93,3% kể cả những hộ giàu. Nguyên nhân do ở nông thôn vụ thu hoạch chính là thời điểm mà người nông dân phải thanh toán rất nhiều khoản nợ như vật tư nông nghiệp của HTX, tiền các loại thuế đóng cho Nhà nước, trả nợ,…Tất cả đều phải trông chờ vào tiền bán sản phẩm vào vụ thu hoạch. Chính điều này đã khiến cho lượng cung tăng rất mạnh vào mùa vụ dẫn đến giá giảm, nông dân bị ép giá nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Bên cạnh đó cũng có 76,7% số phụ nữ trả lời rằng họ phải bán đi sản phẩm của gia đình vào những lúc có nhu cầu chi tiêu nhất là những phụ nữ của hộ TB và hộ nghèo (100%). Chỉ có 18,3% số phụ nữ chờ khi giá sản phẩm tăng rồi mới bán và chủ yếu thuộc phụ nữ của những hộ giàu. Và những sản phẩm chờ cho giá tăng mới bán chủ yếu thuộc các hộ trồng lúa vì thóc, gạo dễ bảo quản hơn tôm, cá nên có thể để lâu được. Những phụ nữ có sản phẩm bán thường xuyên chỉ chiếm 6,7% và nằm trong nhóm phụ nữ NTTS do họ có quy mô chăn nuôi khá lớn, sản phẩm tính theo lứa nên việc thường xuyên bán sản phẩm là điều dễ xảy ra. Tuy vậy con số này còn quá ít và mới chỉ xuất hiện ở những hộ giàu và hộ khá do có nguồn vốn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tập trung cho sản xuất cao hơn.
3.2.2.3 Giá bán sản phẩm
Giá sản phẩm đầu ra luôn được các nhà sản xuất cũng như người nông dân quan tâm rất nhiều. Giá cao chứng tỏ chất lượng sản phẩm tốt, có uy tín, có thị trường tiêu thụ tốt. Khi được hỏi về giá bán sản phẩm của gia đình mình với giá bán sản phẩm cùng loại với gia đình khác thì kết quả thu được là hầu hết họ đều bán với giá tương đương nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì ở nông thôn các gia đình ở gần nhau nên thông tin cho nhau rất nhanh chóng. Họ thường cảm thấy hài lòng khi mình bán được giá bằng với giá của hàng xóm nhà mình. Chỉ có 4 hộ NTTS là họ bán với giá cao hơn do cho ăn thức ăn với chất lượng cao hơn, giống có chất lượng cao hơn. Một số hộ còn bán sản phẩm với giá thấp hơn so với các hộ khác do họ trồng những giống lúa cho chất lượng thấp như: Q5, Khang Dân hoặc cá có thịt không ngon do không có thức ăn đậm đặc. Cũng có một số hộ bán giá thấp vì cần phải bán gấp do không có điều kiện bảo quản như tôm, cá thịt đến lúc thu hoạch phải bán ngay. Họ chưa thực sự chú ý đến việc bán sản phẩm ở thời điểm nào để được giá cao nhất. Bán sản phẩm đầu ra của gia đình đa số đều xuất phát từ nhu cầu chi tiêu và thời vụ của sản phẩm. Nắm bắt được đặc điểm này nên nhiều thương lái, đại lý đã ép giá nông dân buộc họ phải bán với giá thấp hơn giá thị trường. Đây chính là hiện tượng tư thương ép giá nông dân và hiện tượng này còn rất phổ biến ở nông thôn nói chung và ở Hải Nam nói riêng.
Đa số phụ nữ nông thôn ở Hải Nam đều không rõ được giá cả sản phẩm của địa phương mình so với các địa phương khác như thế nào hoặc cho rằng: “…giá cả ở đâu mà chẳng như nhau với cùng một loại thóc”( Bác Nga
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23. bao cao sua lan 2 .tonghue.doc