Lời nói đầu
Chương I: Khái quát về hội nhập và ảnh hưởng của hội nhập WTO đến doanh nghiệp nhà nước Việt Nam
1. Khái niệm hội nhập
2. Tính tất yếu của hội nhập
3. Mục tiêu của WTO
4. Chức năng của WTO
5. Cơ cấu của tổ chức WTO
6. Vai trò của DNNN
7. Thuận lợi, khi Việt Nam là thành viên của WTO
Chương II: Thực trạng DNNN của Việt Nam
1. Những tồn tại yếu kém
2. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm các DNNN
3. Thực trạng chi phí
Chương III: Một số giải pháp nâng cao vị DNNN của Việt Nam trong quá trình hội nhập
1. Nỗ lực từ phía DNNN
2. Quy hoạch tổng thể về DNNN
3. Cổ phần hoá
4. Xây dựng củng cố, hiện đại hoá công nghệ
5. Hiện đại hoá quản lý
6. Nâng cao trình độ công nhân và cán bộ quản lý
Kết luận
20 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao vị thế của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam trong tiến trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoa học kỹ thuật đặc biệt là lĩnh vực thông tin đã đưa các quốc gia tiến lại gần nhau hơn dần đến sự hình thành của mạng lưới toàn cầu, trước biến đổi to lớn về khoa học công nghiệp này, tất cả các quốc gia trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và dỡ bỏ hàng rào thuế quan làm cho việc trao đổi hàng hoá, di chuyển vốn, lao động và các kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế mở rộng và phát triển.
3. Mục tiêu của WTO
Tiếp tục kế thừa những mục tiêu nêu ra trong lời nói đầu của CĐTT là: nâng cao đời sống nhân dân ở các nước thành viên đảm bảo việc làm và tăng trưởng kinh tế, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. Đồng thời WTO còn thực hiện thêm 3 mục tiêu sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá, dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế, đảm bảo cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng lợi ích thực sự từ tăng trưởng thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Nâng cao mức sống tạo việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
4. Chức năng của WTO
Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương, giám sát, tạo thuận lợi, kể cả việc định giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế.
- Tạo điều kiện cho việc tiến hành các vòng đàm phán đa phương trong khuôn khổ WTO hoặc theo quyết định của hội nghị cấp bộ trưởng.
- Thực hiện giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương.
- Là cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên, thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO.
- Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế như quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) trong việc hoạch định chính sách, dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
5. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO được điều hành bởi các nước thành viên, tất cả các quyết định đều do các nước thành viên đưa ra thông qua nguyên tắc đồng thuận, về vấn đề này quyền hạn của WTO còn do ban giá đốc hoặc 1bộ phận đứng đầu như ở tổ chức quốc tế khác như quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hay ngân hàng thế giới (WB), do vậy khi có quyết định với chính sách của 1 quốc gia thì đó là kết quả của quá trình đàm phán giữa các nước thành viên, lợi ích của nguyên tắc này hiển nhiên là các quyết định sẽ đảm bảo lợi ích cho tất cả các nước thành viên, nhưng việc đạt được nhất trí của 148 nước là 1 quá trình lâu dài.
6. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và những đóng góp của doanh nghiệp nhà nước hiện nay thì rõ ràng doanh nghiệp nhà nước đang có vai trò hết sức quan trọng trọng trong nền kinh tế nước ta. Thể hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then chốt hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nắm giữ toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết mạch, hầu hết các doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp nhà nước trong các ngành xây dựng (giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp dân dụng) cơ khí, chế tạo, luyện kim, xi măng, điện tử, hoá chất, phát dầu điện, dầu khí, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ô tô… sản xuất hàng công nghiệp tiêu dùng, chế biến nông, thuỷ hải sản xuất khẩu chiếm thị trường áp đảo trong huy động vốn và cho vay.
Phần của doanh nghiệp nhà nước trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992: 40,2%, năm 1996: 39,9%, năm 1998: 41,2%, năm 2000: 39,5%.
Cụ thể tỷ trọng phần doanh nghiệp nhà nước trong số ngành như sau:80% công nghiệp khai thác, trên 60% công nghiệp chế biến, 99% công nghiệp điện - gaz - dầu khí, cung cấp nước, trên 82% vân chuyển hàng hoá, 50% vận chuyển hành khách,…74% thị phần đối với nền kinh tế.
- Các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết cung cầu, ổn định giá cả, chống lạm phát, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường.
- Doanh nghiệp nhà nước chiếm 1 phần rất quan trọng trong XNK, trong đó doanh nghiệp nhà nước giữ tỷ trọng tuyệt đối trong hoạt động XNK, riêng công nghiệp năm 1999 đã xuất khẩu được 6,17 tỷ USD (chủ yếu do doanh nghiệp nhà nước) chiếm gần 54% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế tổng công ty lương thực miền Nam xuất khẩu, gạo chiếm tỷ trọng 60 - 70% so với cả nước, năm 2000 doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 50 % kim ngạch xuất khẩu.
- Doanh nghiệp nhà nước đóng góp nguồn thu tập trung lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước.
- Trong khi nhà nước không dư vốn, ngân sáchcấp vốn lưu động cho kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình thành vốn tự bổ sung, năng động tìm nguồn vốn bên ngoài, bao gồm vốn vay của các tổ chức tín dụng và vay cùng nhân viên doanh nghiệp.
- Trong lúc các thành phần kinh tế chưa vươn lên được thì doanh nghiệp nhà nước là đối tác chính trong liên doanh liên kết với bên nước ngoài, chiếm 98% dự án liên doanh với nước ngoài, đồng thời doanh nghiệp nhà nước cũng thực hiện được các hạ tầng kỹ thuật cần thiết đẻ thu hút các doanh nghiệp có vốn trong nước và nước ngoài đầu tư.
- Doanh nghiệp nhà nước đã tạo ra điều kiện vật chất kỹ thuật, là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp hàng hoá, chuyển từ thiếu sang đáp ứng được nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm chất lượng ngày càng cao của nhân dân và có phần xuất khẩu chủ yếu thông qua xây dựng các đường giao thông huyết mạch, cung cấp giống cây con, chuyển giao kỹ thuật và bước đầu phát triển công nghiệp chế biến…
5. Những thuận lợi khi Việt Nam trở thành thành viên WTO
5.1. Đối với nền kinh tế
Việt Nam được hưởng ưu đãi trong hoạt động thương mại quốc tế: trong quá trình tồn tại GAT/WTO đã thực hiện các vòng đàm phán nhằm tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại trên cơ sở quy chế tối hậu giữa các quốc gia thành viên. Với điều kiện tự nhiên ưu đãi và công nhân dồi dào, Việt Nam có cơ hội tận dụng những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh đặc biệtlà các ngành nông nghiệp dệt may, theo hiệp định dệt may của WTO (ACT) đến đầu 2005 các nhà nước thành viên phải hoàn toàn xoá bỏ các hạn chế nghạch đối với hàng dệt may. Nếu vào thời điểm đó Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO thì triển vọng xuất khẩu dệt may là rất lớn.
Tiến hành thương mại không có phân biệt đối xử: nguyên tắc không phân biệt đối xử còn biết đến dưới tên gọi "nguyên tắc đãi ngộ quốc gia". Hiện nay do Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên trong buôn bán với các nước là thành viên của WTO, các nước này có thể giành quy chế đối xử gây bất lợi đối với Việt Nam. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương, một số mặt hàng của Việt Nam đã có năng lực cạnh tranh trên một số thị trường như gạo, cà phê, thuỷ sản, dệt may. Khi đó các quốc gia thành viên WTO như Hoa kỳ, EU, Ca na đa… đưa ra lý do phân biệt đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam như các vụ kiện bán phá giá với cá basa ở Hoa kỳ và bán bật lửa ở Châu âu. Trong việc giải quyết các vụ tranh chấp này Việt Nam không được hưởng quy chế tranh chấp như các quốc gia thành viên WTO.
Gia nhập WTO là do động lực cho các cải cách môi trường kinh doanh trong nước. Để trở thành thành viên của WTO, thì các quốc gia nộp đơn xin gia nhập đều phải minh bạch hoá các chính sách kinh tế, đặc biệt là: Chính sách thương mại . Kể từ khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành một số biện pháp cải cách như:
- Mở rộng quyền kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nếu như trước năm 1998, chỉ có các doanh nghiệp có giấy phép xuất nhập khẩu mới được tham gia ngoại thương thì bỏ từ ngày 1-9-2001 bất kỳ doanh nghiệp nào có đăng ký kinh doanh thì đều có quyền xuất nhập khẩu. Chính phủ ban hành quyết định 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001 về quản lý xuất nhập khẩu trong giai đoạn 2001-2005, trong đó bãi bỏ hạn ngạch và quản lý nhập khẩu thông qua đầu mối đối với gạo và phân bón, bãi bỏ giấy phép nhập khẩu đối với nhiều mặt hàng như xi măng, thép, dầu thực vật…
- Về đầu tư nước ngoài: đây là lĩnh vực đang được hoàn thiện với các cải cách về thủ tục cấp giấy phép đầu tư, giảm yêu cầu về tỉ lệ kết hối ngoại tệ, tăng cường ưu đãi. Ngày 17/5/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định 62/2002/QĐ-TTg ban hành dự án danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005 với muc tiêu thu hút vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp vàonăm 2002.
- Về quyền sở hữu trí tuệ: Việt Nam đã cam kết về chương trình hành động thực hiện hiệp định về vấn đề thương mại có liên quan đến sở hữu trítệ (TRíP) và tham gia vào công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu trí tuệ như: công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Hiệp ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ.
Tham gia WTO khuyến khích năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, khi thực hiện cam kết giảm hàng rào thuế quan và các biện pháp bảo hộ phi thuế quan, doanh nghiệp trong nước sẽ phải nỗ lực cải tiến kĩ thuật, nâng cao năng suất để cạnh tranh với doanh nghiệp và sản phẩm từ nước mà không còn gặp phải thuế quan bảo hộ.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, khi tham gia sâu hơn vào hoạt động thương mại quốc tế, những ngành lợi thế cạnh tranh dựa trên khai thác các nguồn lực tự nhiên sẽ giảm dần vai trò mà thay thế vào đó là các ngành dựa trên vốn, công nghệ để tạo ra giá trị gia tăng.
5.2. Đối với doanh nghiệp
Tăng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam: Việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO cho phép các doanh nghiệp đưa sản phẩm tới thị trường của khoảng 150 quốc gia trên thế giới với mức thuế suất thấp và không có biến động. Thêm nữa các quy chế trong thương mại quốc tế WTO ngày càng trở nên ưu đãi cho các quốc gia thành viên là các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Việc tiếp cận các nhà cung cấp nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho phát triển trong nước. Xét dưới góc độ nhập khẩu các doanh nghiệp trong nước không chỉ nhận được nguồn nguyên liệu với giá rẻ hơn mà điều quan trọng là các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp cận với nhiều đối tác từ nhiều quốc gia do đó có cơ hội lựa chọn yếu tố đầu vào với giá rẻ hơn. Bên cạnh đó một số nhà cung cấp dịch vụ hỗ trrợ kinh doanh như bảo hiểm, vận tải, tư vấn pháp luật.
6. Những thách thức Việt Nam trở thành viên WTO
6.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế
Bảo vệ các ngành trong nước:
Đối với bất kì nền kinh tế nào, việc duy trì các ngành sản xuất trong nước có ý nghĩa rất quan trọng về mặt kinh tế cũng như xã hội.
Về mặt kinh tế: sự phát triển các ngành tạo điều kiện duy trì sự phát triển cân đối giữa vùng, lãnh thổ, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Về mặt xã hội: các ngành sản xuất trong nước là cơ sở duy trì việc làm cho nhân dân, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nên khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp trong nước còn hết sức thấp. Trong khi đó việc gia nhập WTO là thực hiện cam kết quốc tế về mở cửa thị trường tạo điều kiện cho tự do hoá thương mại và đầu tư.
- Các điều kiện mở cửa thị trường, ngày càng chặt chẽ hơn nên nền kinh tế chịu nhiều sức ép hơn.
Kinh nghiệm cho thấy các quốc gia mới gia nhập WTO thường chịu những điều kiện cao hơn so với các quốc gia đã là thành viên ở cùng trình độ phát triển. Trung Quốc phải duy trì mức trợ cấp cho nông sản dưới 8,5% tổng sản lượng nông nghiệp. Mức thuế cam kết của các mới gia nhập ngày càng thấp hơn so với mức thuế mới cam kết của các quốc gia thành viên. Ngoài ra sau vòng đô-ha một số nội dung mở cũng được đưa vào đàm phán gia nhập như: vấn đề thương mại với môi trường. Vấn đề thương mại với điều kiện lao động, vấn đề sở hữu trí tuệ với liên quan tới sức khoẻ cọng đồng như thuốc chữa bệnh.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG DNNN CỦA VIỆT NAM
1. Những tồn tại yếu kém về hoạt động của DNNN
DNNN đang có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nhưng hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp, một số mặt còn có phần giảm sút, đang là một vấn đề bức xúc ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.
Hiện nay khu vực doanh nghiệp nhà nước được gao sử dụng một khối lượng lớn tài sản cố định của nền kinh tế, được giao khai thác sử dụng 100% các tài nguyên tập trung có quy mô lớn và hầu hết các tài nguyên quý thuận lợi về địa điểm, nhất là ở các đô thị. Sử dụng 85% vốn tín dụng ưu đãi trong nước, khoảng 80% dư nợ cho vay của ngân hàng ngoại thương, xấp xỉ 80% dư nợ cho vay của ngân hàng đầu tư và 62% của ngân hàng công thương, một bộ phận lớn vốn ODA ch phát triển ngành điện và một số lĩnh vực sản xuất, sử dụng phần lớn lực lượng lao động do nhà nước đào tạo, gồm các cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao và các cơ sở nghiên cứu ứng dụng lớn của đất nước, được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, nhà nước và các đoàn thể, một số trường hợp được miễn giảm thuế, khoanh nợ, giảm nợ, xoá nợ khi gặp khó khăn.
Nhưng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp và một số mặt có phần giảm sút ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo của doanh nghiệp và hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế.
Tỉ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước những năm 1996-1999 giảm: năm 1996: 11,2%; năm 1997: 9,7%; năm 1998: 9,1%; năm 1999: 9,2%. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước của DNNN địa phương rất thấp (năm 1998 của DNNN trung ương là 13% của DNNN địa phương là 6,4%).
Năm 1999 tỷ suất lợi nhuận trên vốn của công ty máy động lực và máy nông nghiệp 3%/năm, của ngành dệt, sợi 1,57%/năm của công ty công nghiệp tàu thuỷ năm 1998 là 3,9%; năm 1999 là 1,9%; của DNNN thuộc thành phố Hồ Chí Minh năm 1995 là 9,3%; năm 1999 là 7,13%; của DNNN thuộc thành phố Hải Phòng năm 1998 là 7,8%; năm 1999 là 4,74%.
Số DNNN thua lỗ còn lớn và ngày một tăng, hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ, ít vốn, mặc dù nhà nước đã có các biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như cấp bổ xung vốn, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, cho giảm khấu hao tài sản cố định, hỗ trợ lãi suất, cho khoanh nợ.
Theo tổng hợp của Bộ Tài chính từ các doanh nghiệp, số doanh nghiệp nhà nước có lãi năm 1996 là 78%; năm 1997 là 77%; năm 1998 và năm 1999 là 70%. Số doanh nghiệp nhà nước bị lỗ năm 1996 là 21%; năm 1997 là 17%; năm 1998 là 25%; năm 1999 là 17% tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước địa phương.
- Phần lớn các cơ sở có công nghệ lạc hậu, 805 công nghệ lạc hậu so với các nước, vài ba chục năm thậm chí là50 năm, đổi mới thiết bị rất chậm. Riêng trong công nghiệp 10 năm qua đầu tư đổi mới công nghệ từ 15-18% giá trị tài sản cố định, nhưng nhiều doanh nghiệp nhà nước lại tiếp tục nhận thiết bị, công nghệ lạc hậu, đến giữa năm 1999 chỉ có 70 DNNN được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO-9000. Đến tháng 5 năm 2001 có 236 DNNN được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 trong tổng số 400 doanh nghiệp được cấp.
Nhìn chung chất lượng và giá cả của nhiều hàng hoá sản xuất trong nước còn kém sức cạnh tranh, nguy cơ trên thị trường trong nước, các mặt hàng thường có giá thành cao hơn mặt hàng nhập khẩu cùng loại. Sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại quốc doanh yếu hơn và có chiều giảm sút so với các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khả năng cạnh tranh trong ngành du lịch thấp.
Tình trạng nợ nần khó trả rất lớn, đang là một gánh nặng đối với DNNN, hạn chế sức cạnh tranh, ảnh hưởng xấu đến phát triển và việc cổ phần hoá doanh nghiệp.
Số lao động dôi dư lớn đang là vấn đề hết sức khó khăn, hạn chế hiệu quả và quá trình sắp xếp cổ phần hoá DNNN.
Trong số doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động bình thường có lãi, số biên chế ở nhiều nơi còn cao so với nhu cầu. Biên chế của DNNN thường cao hơn hẳn so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cùng ngành nghề, cùng công suất, mặt khác DNNN còn thiếu lao động trẻ có trình độ lành nghề và kĩ thuật cao.
Việc sắp xếp lại các DNN chưa thực sự triệt để, nhiều DNNN yếu kém, thua lỗ triển miên, mất hết vốn vẫn không xử lý, chủ yếu là sát nhập hợp nhất. Quy mô của các doanh nghiệp hiện nay còn nhỏ bé, bình quân mỗi doanh nghiệp có 22 tỷ đồng vốn nhà nước.
DNNN chưa thực sự được cơ cấu để tập trung hơn vào những ngành và lĩnh vực then chốt, nhất là những ngành công nghiệp cơ bản, vẫn còn dàn trải trong hầu hết các ngành và lĩnh vực kể cả những hoạt động sản xuất,kinh doanh nên để cho nhân dân đầu tư.
2. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
2.1. Giá thành sản phẩm cao
Giá thành sản phẩm cao là nguyên nhân chủ yếu làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNNN và khiến cho các doanh nghiệp mất dần lợi thế trong những nhóm mặt hàng vốn có lợi thế so sánh như trong ngành công nghiệp dệt may lợi thế nhân công rẻ không thể bù đắp được giá thành đầu vào cao do ngành sản xuất vải trong nước không đáp ứng được nhu cầu ngành may mặc, đồng thời cũng do kĩ thuật lạc hậu nên năng suất thấp so với các nước.
2.2. Chất lượng sản phẩm và mẫu mã lạc hậu
DNNN Việt Nam có thuận lợi khi có được các mặt hàng hội tụ đủ lợi thế về nhân công dồi dào, được thiên nhiên ưu đãi nhưng do các điều kiện như trình độ công nhân, kĩ thuật kém… nên chất lượng của các sản phẩm sản xuất ra không đủ năng lực cạnh tranh đối với các mặt hàng của các nước.
2.3. DNNN chưa chủ động trong việc tấp cận thị trường
Các DNNN chưa chủ động trong việc tìm kiếm thị trường mới chỉ dừng lại ở việc thu thập thông tin qua các nguồn nhấn định, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều chưa có hệ thống cung cấp thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh ở thị trường quốc tế.
3. Thực trạng về chi phí của các doanh nghiệp Việt Nam
Một thực tế rất rõ ràng là chi phí đầu vào cho sản xuất của các DNNN còn cao so với mức của thế giới. Trong điều kiện các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới với chi phí thấp thì ở Việt Nam lại ở mức cao. Thêm nữa doanh nghiệp còn chịu nhiều loại chi phí cao dẫn tới tăng chi phí sản xuất, theo thống kê chưa đầy đủ để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu bằng đường bộ, hàng không thì doanh nghiệp phải nộp 20 loại phí chính thức khác nhau, chi phí phát hành lệnh giao hàng đường biển là 50.000đ/bộ chứng từ đến 120.000đ/bộ đối với đường hàng không mức chi phí này đến 350.000đ/bộ. Mặt khác do tình trạng năng lực sản xuất trong nước còn lạc hậu nên phần lớn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất đều phải nhập khẩu. Kết quả là chi phí sản xuất tăng cao làm giảm khả năng cạnh tranh đối với hàng hoá nước ngoài.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP VỊ THẾ DNNN CỦA VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP WTO
1. Nỗ lực từ phía các doanh nghiệp
Chủ động nắm bắt thông tin thị trường, lựa chọn chiến lược đầu tư, sản phẩm, dịch vụ, chuyển hướng kinh doanh, tăng cường các mối quan hệ hợp tác liên kết, liên doanh, đào tạo lực lượng lao động, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm dịch vụ để sẵn sàng cạnh tranh trong môi trường mở cửa.
Phản ánh kịp thời những khó khăn vướng mẳctong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu… của doanh nghiệp lên các tổ chức đại diện doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ để kịp thời điều chỉnh, khai thông các trở ngại đó cho doanh nghiệp.
Tự cố gắng nỗ lực vào bản thân các doanh nghiệp để phát triển là điều kiện tiên quyết, các hỗ trợ nhà nước là quan trọng tuy nhiên không nên ỉ ại vào Nhà nước chia sẻ các khó khăn với Chính phủ, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách pháp luật trong hoạt động kinh doanh.
2. Quy hoạch tổng thể về DNNN
Yêu cầu đổi mới hệ thống DNNN đang đặt ra một vấn đề là nhà nước cần sớm công bố quy hoạch chính thức sự phát triển hệ thống DNNN trong nền kinh tế nước ta ở giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đó là lộ trình cải cách sẵp xếp tổ chức lại hệ thống này để làm cơ sở cho các giải pháp đổi mới cơ cấu quản lý chung.
Một khía cạnh nổi cộm khi chưa có quy hoạch và kế hoạch đầy đủ về sự phát triển của hệ thống này trong một tương lai trung, dài hạn dẫn đến mấy năm qua hầu như không có một tiêu chí rõ ràng nào để xác định phân loại ngành và địa bàn nào cần duy trì DNNN với 100% vốn thuộc sở hữu Nhà nước, cũng như không có tiêu chí rõ ràng về doanh nghiệp nhà nước nào thuộc loại sẽ thực hiện đa dạng hoá sở hữu, cổ phần hoá, hoặc tư nhân hoá. Điều này gây ra những khó khăn lớn cho việc chế định và thực thi giải pháp sắp xếp và đầu tư đối với trên 5000 doanh nghiệp. Thiếu những tiêu chí trong thời gian dài trên 10 năm nay là khuyết điểm lớn nhất, có tác hại nhiều nhất trong công cuộc đổi mới kinh tế nước ta.
3. Cổ phần hoá DNNN
Cổ phần hoá DNNN không phải là một giải pháp để sắp xếp và cũng không phải là tư nhân hoá, mà là một hướng quan trọng để thực hiện có hiệu quả vốn đầu tư thuộc nhà nước, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh, thu hút vốn đầu tư của xã hội, phát huy vai trò làm chủ xí nghiệp về kinh tế của người lao động tại doanh nghiệp và tăng cường sự kiểm soát xã hội, chống lãng phí, tham nhũng có hiệu quả, phần vốn thu được từ bán cổ phần chỉ dùng để hỗ trợ đầu tư cho chính các công ty cổ phần hoá và một phần để đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng.
Có chương trình cụ thể để tiến hành cổ phần hoá DNNN mà nhà nước không cần nắm 100% vốn, kể cả DNNN có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh trong đó nhà nước chiếm cổ phần chi phối để thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư của người lao động tại doanh nghiệp và các nguồn đầu tư khác trong nước, ngoài nước, tạo điều kiện quan trọng và tạo đầu vào cho thị trường chứng khoán, làm sống động nền kinh tế.
Các công ty phải có kế hoạch cổ phần hoá nhà nước chiếm cổ phần chi phối ở những công ty thành viên và nhà nước không cần nắm 100% vốn chuyển hoạt động sang cơ chế đầu tư vốn của tổng công ty.
Xoá bỏ quan hệ hành chính "giao vốn" trước đây.
Xoá bỏ quan hệ cấp trên, cấp dưới trong tổng công ty hiện nay chuyển sang cơ chế công ty mẹ - công ty con trong một tổng công ty.
Phương thức cổ phần hoá phải được đổi mới phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường: chuyển từ đánh giá tài sản do các cơ quan nhà nước tiến hành hoặc DNNN tự đánh giá tài khoản của doanh nghiệp, sang đấu giá bán cổ phiếu công khai trên thị trường, ưu tiên bán cho các công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm thu hút vốn và năng lực kinh tế trong xã hội. Việc huy động thêm vốn thông qua con đường bán cổ phần không nên hạn chế số cổ phần được mua đối với mỗi pháp nhân để tăng quy mô vốn doanh nghiệp, trường hợp nước ngoài mua cổ phần thì không quá 30%. Có chính sách khuyến khích do doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng nhiều lao động dôi dư, đồng thời cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện để DNNN hoạt động có hiệu quả sau khi cổ phần hoá.
Triển khai việc giao, bán và khoán kinh doanh cho thuê đối với những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ.
Việc giao là giao cho người lao động tại doanh nghiệp để chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tập thể tại doanh nghiệp: việc bán doanh nghiệp cũng dành ưu tiên cho công nhân viên tại doanh nghiệp sau đó mới bán ra ngoài doanh nghiệp, tiền thu được chủ yếu là để trả nợ nần, thực hiện chính sách với số lao động dôi dư, còn lại để hỗ trợ đầu tư cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá 100% vốn nhà nước để đổi mới công nghệ. Khi khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp, sở hữu vẫn còn là nhà nước, cần có kế hoạch cụ thể, sơ kết sau mỗi đợt để mở ra thực hiện nên diện rộng đối với DNNN thuộc loại này.
4. Xây dựng củng cố, hiện đai hoá công nghệ
Việc hiện đại hoá công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với DNNN khi hội nhập, phương thức đổi mới công nghệ phải căn cứ vào tình hình thực tế từng doanh nghiệp, phổ biến là đổi mới từng phần cần thiết.
Nhà nước có nhiều hình thức để hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ như: lập các quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ, sử dụng nguồn vốn của các ngân hàng đầu tư phát triển có sự hỗ trợ lãi suất của nhà nước, thực hiện hình thức mua thiết bị trả chậm qua các công ty thuê mua tài chính trong nước và nước ngoài, miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định đối với doanh nghiệp tự vay vốn để đổi mới và hiện đại hoá công nghệ, chí ít là trong 5 năm 2001-2005.
5. Hiện đại hoá quản lý DNNN
Hiện đại hoá các công cụ quản trị kinh doanh như các phương tiện thông tin, theo dõi và xử lý mọi phát sinh trong sản xuất, kinh doanh, phân tích hoạt động kinh doanh.
Thực hiện chế độ quản lý hiện đại của các nước, hệ thống kế toán, thống kê phải phù hợp với thông lệ quốc tế, bắt buộc thực hiện chế độ công khai báo cáo tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA2121.doc