MỤC LỤC
Lời nói đầu
Nội dung:
I. Lý luận chung về kinh tế thị trường và sự cần thiết chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Lý luận chung về kinh tế thị trường
a. Ưu điểm
b. Nhược điểm
2. Sự cần thiết chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam
II. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Nền kinh tế thị trường hiện đại gắn với tính chất xã hội chủ nghĩa
2. Nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
3. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân
4. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của Nhà nước
5. Mở cửa hội nhập kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia
6. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội
7. Giải quyết mối quan hệ lao động và tư bản thông qua phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
III. Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay
2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao bền vững
a. Về vốn
b. Về công nghệ
c. Về lao động
d. Giải quyết mối quan hệ tăng trưởng và lạm phát
e. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và phân phối thu nhập
f. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề môi trường
g. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề dân số
h. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và thị trường
3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ
5. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế
Kết luận
Tài liệu tham khảo
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển nhanh chóng làm cho sự chuyên môn hoá và hiệp tác hoá ngày càng cao. Do đó, quá trình xã hội hoá sản xuất, xã hội hoá lao động phát triển nhanh. Đó là xu hướng phát triển của nền kinh tế hiện đại.
- Kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất cao độ, các mối quan hệ kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhanh.
b. Nhược điểm.
Mặc dù với những ưu điểm không thể phủ nhận như trên, nền kinh tế thị trường cũng không tránh khỏi những khuyết tật cố hữu.
- Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích của các chủ thể kinh tế. Vì lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế năng động, ra sức cải tiến kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề làm sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng mà giá trị lại giảm xuống. Nhưng cũng vì lợi nhuận, họ bất chấp những thủ đoạn, những gian trá giả dối trong kinh doanh. Bản thân họ thì được lợi nhưng cái lợi đó so với những thiệt hại đồng thời gây ra cho người tiêu dùng và toàn xã hội là quá nhỏ bé không thể bù đắp. Mục tiêu kinh tế của đất nước không thực hiện được. Về kinh tế thì như vậy còn đạo đức tình người trong xã hội cũng bị xem nhẹ và lãng quên.
- Bản chất thị trường là bất bình đẳng, kẻ mạnh thì sống, kẻ yếu thì chết. Trong cạnh tranh ai không cải tiến kĩ thuật, năng suất thấp, giá trị cao thì lỗ, trở thành người nghèo và ngược lại. Qua đó sự phân hoá giàu nghèo gia tăng mà tệ nạn xã hội cũng dễ phát triển.
- Nền kinh tế thị trường có cơ cấu không hợp lý, mất cân đối. Những ngành nghề nào trong xã hội đem lại lợi nhuận cao sẽ có nhiều người tham gia và ngược lại. Bởi trong cơ chế thị trtường sự gia nhập hay rút lui khỏi một ngành nghề, lĩnh vực là tự do.
- Kinh tế thị trường tạo ra sự ô nhiễm môi trường. Do mục đích người sản xuất là lợi nhuận cao nhất, họ phải tiết kiệm chi phí triệt để. Những chất thải độc hại trong quá trình sản xuất chưa có tác động trực tiếp đến họ không được xử lý. Ô nhiễm môi trường sống chung của toàn xã hội là tất yếu.
- Cũng do một phần các nguyên nhân trên nền kinh tế thị trường không tránh khỏi những đợt sóng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, suy thoái về kinh tế. Kinh tế thị trường phải gắn với thị trường, thông qua thị trường người sản xuất mới biết được hàng hoá của mình có được xã hội chấp nhận hay không.
2.Sự cần thiết chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đại hội VII của Đảng đã xác định, đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan. Đổi mới để nâng cao chất lượng cuộc sống, để phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Vì với cơ chế kinh tế cũ, với việc bao cấp tràn lan, quản lý kinh tế kém hiệu quả thì việc sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng dẫn đến không thể tích luỹ để mở rộng sản xuất dẫn đến thiếu hụt ngân sách, làm cho nền kinh tế đình trệ. Đặc trưng của kinh tế chỉ huy là rất cứng nhắc nó chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn ngắn hạn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh đó, thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đang hoà nhập so với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế gần gũi hơn với thị trường kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.Việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường thúc sản xuất và cạnh tranh hàng hoá không chỉ trong nước mà vượt qua cả ranh rới trong nước cạnh tranh với nước ngoài về các loại sản phẩm như: hàng tiêu dùng, thuỷ sản.... làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tích luỹ vốn để mở rộng và tái sản xuất. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế của thế giới: đó là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Mỗi quốc gia đều phải tích cực áp dụng các phương pháp khoa học kỹ thuật mới để cạnh tranh với nhau, đó là động lực để thúc đẩy kinh tế. Sự cạnh tranh lành mạnh trong nước, giữa các nước với nhau sẽ nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho mỗi quốc gia, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân loại.
Đổi mới cơ chế kinh tế không chỉ có ý nghĩa về lĩnh vực kinh tế mà còn có tác dụng về mặt chính trị xã hội. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, nước ta đã có điều kiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế, chính trị và trong các mối quan hệ có tính chất xã hội như: bảo vệ môi trường, chống chiến tranh hạt nhân, xoá đói giảm nghèo.... trong sự liên hệ giữa các quốc gia.
Như vậy: Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng XHCN là cần thiết và là một tất yếu khách quan.
Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu “ đòn xeo” là kinh tế hàng hoá. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điển và điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối sự ra đời và xản xuất của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lênin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất, đó sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ, thị trường.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với Đông Âu và Liên Xô ( cũ ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nó gần như đối lập với thi trường, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường đước coi là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế “đóng” “khép” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang nặng tính cục bộ địa phương chủ nghĩa và với tình trạng “bế quan toả cảng”. Chính sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ truyền thống của kinh tế khép kín. Sự phát triển của tư bản chủ nghĩa đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làn cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làn cho các quan hệ kinh tế được mở rông ra khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh té phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, chúng ta đã chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dưới 20% hàng năm ( 1986-1992 ) đảm bảo nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu,cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về thị trường và nguồn vốn từ các nước SNG và Đông Âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh.
Trong những năm tiếp theo, nước ta cần phải biết phát huy lợi thế so sánh: nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp, vị trí địa lý lãnh thổ thuận lợi. Tiếp tục phát huy và coi trọng các giá trị truyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến xuất khẩu theo xu hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhiên liệu, tạo ra các sản phẩm chủ lực như dầu mỏ, nông-lâm-thuỷ sản.... Đồng thời nhà nước có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
II. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta hiện tại và tương lai. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên sáu đặc trưng bản chất của xã hội XHCN và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, để có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động.
1. Nền kinh tế thị trường hiện đại gắn với tính chất XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội XHCN). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai doạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta phải theo định hưóng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
2. Nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là "đài chỉ huy", là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
3. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN Trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
4. Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước.
Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh - hợp tác...) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng cáclực lượng kinh tế của mình (kinh tế nhà nước). Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất
5. Mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại; đầu tư và chuyển giao khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
6. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội.
Phát triển trong công bằng và phát triển bền vữnglà những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểulà những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèogiữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và "chia đều sự đói nghèo" cho mọi người. Mức độ bảo đảm sự công bẵng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu quá nhấn mạnh tới sự công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
7. Giải quyết mối quan hệ lao động và tư bản thông qua phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Việc giải quyết mối quan hệ trên được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu, kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động, CNTB nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động. Ngược lại CNXH đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, CNXH nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản ( vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh giờ đây đã trở thành điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là "quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc".
III. Các giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam hiên nay.
1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay
Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước những diễn biến mới. Xu thế thương mại hoá toàn cầu cùng với xu thế hoà bình, ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển... đanglà sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển.
Để có cơ sở đề ra các chính sách đúng và chỉ đạo có hiệu quả cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng cường cao và bền vững trên một số lĩnh vực sau đây:
Một là, quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực cánh sinh và thay thế nhập khẩu... với yếu tố bên ngoài.
Hai là, quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồngthời phát triển các vùng trong cả nước, trong giai đoạn trước mắt cần ưu tiên ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh.
Ba là, quan hệ giữa xây dựng các công trình quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện tổng số vốn có hạn.
Bốn là, quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xử lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin quản lý và chất xám trong nền kinh tế hiện đại.
Năm là, Trong chiến lược phát triển ngành cần tập trung chú ý đến nông nghiệp trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Sáu là, đi đôi với việc xác định chiến lược lâu dài Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cho từng thời kỳ.
2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao, bền vững.
Hiện nay ở nước ta, GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực và trên thế giới rất thấp. Yêu cầu chống tụt hậu đang đặt ra cho Việt Nam phải giải quyết vấn đề khó khăn phức tạp này. Phải có một chiến lược tăng trưởng đúng đắn, đảm bảo tăng trưởng cao và ổn định trong một thời gian dài.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định để có thể tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là phải đảm bảo các điều kiênj về giải quyết các mối liên hệ trong quá trình tăng trưởng. Những điều kiện và các mối quan hệ này là:
a. Về vốn:
Muốn có tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện nước ta đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. để có vốn đầu tư trong nước cần phải:
- Có chính sách tiết kiệm trong cả nước, coi tiết kiệm là quốc sách thực hiện tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu dùng. Khuyến khích tiêu dùng phù hợp với khả năng của nền kinh tế.
- Đối với vốn đi vay của nước ngoài để khuyến khích đầu tư vào Việt Nam- cần kết hợp chặn chẽ các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp khi xây dựng các dự án để thu hút vốn nớc ngoài. Tăng cường xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
b. Về công nghệ:
- Phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật và công ghệ của đất nước. Phải gắn chặt quá trình chuyển giao công nghệ, quá trình phát triển khoa học kỹ thuật với sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện chuyển giao công nghệ đối với mọi thành phần kinh tế, đảm bảo có được những công nghệ vừa tiên tiến lại phù hợp với yêu cầu trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
- Chuyển giao công nghệ phải gắn với bảo vệ môi trường.
c. Về lao động.
- Đảm bảo cho mọi người lao động có việc làm.
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo.
- Nâng cao kỷ luật lao động trong công nhân.
d. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
e. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và phân phối thu nhập.
f. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề môi trường
g. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề dân số.
h. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và thị trường.
3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu, bền trong điều kiện kinh tế tư nhân ở nước ta còn rất nhỏ bé, biện pháp quan trọng của Nhà nước là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
- Việc tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước, trước hết cần phải dựa trên hai tiêu thức cơ bản là: tính chiến lược và hiệu quả sản xuất kinh doanh. trên cơ sở đó xác định cụ thể cácc ngành, các lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước cần tập trung vốn đầu tư phát triển.
- Về cơ chế quản lý và chính sách, trước hết cần xác định các quyền đại diện sở hữu hợp pháp và địa vị pháp lý của các doanh nghiệp Nhà nước, làm rõ các quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, giữa doanh nghiệp với các đối tác trong hoạt động kinh doanh.
- Tổ chức lại cơ cấu quản lý nội bộ doanh nghiệp Nhà nước, hình thành các hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, hội đồng giám sát, ban giám đốc điều hành.
4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Nước ta phấn đấu trong vài năm tới có đủ các đạo luật để điều chỉnh các lĩnh vực về hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế, về quản lý hành chính Nhà nước. Chúng ta cần bổ xung và hoàn thiện các lĩnh vực sau:
- Trong việc sử dụng chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
- Bổ sung điều chỉnh bộ luật thuế tránh trồng chéo phân tán theo hướng mở rộng diện thu thế nhưng giảm mức thu nhằm khuyến khích tích cực, tự giác đóng góp của người sản xuất kinh doanh.
- Khuyến khích đầu tư trong nước. Sửa đổi bổ xung luật công lý, luật doanh nghiệp tư nhân, luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính Nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương.
- Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý bằng pháp luật.
- Xác định rõ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50189.doc