MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG 3
1. Những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 3
1.1 Kinh tế thị trường 3
1.1.1 khái niệm kinh tế thị trường 3
1.1.2 Cơ sở hình thành 3
1.1.3 Đặc trưng 4
1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chũ nghĩa 4
1.2.1 Khái niệm ,cơ sở 4
1.2.2 Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5
1.2.3 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 9
2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 11
2.1 Tổng quan những thành tựu về xây dựng văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới 11
2.2 Những thành tựu về khoa học –xã hội và lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 14
2.3 Để xây dựng thành công nền kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải làm gi? 18
C. KẾT LUẬN 22
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng ta còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : "... sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau... Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy". Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay?
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.2.3 Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam
Khi nước Việt Nam thống nhất (1976), đến trước Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (8-1978), thì tư tưởng kinh tế dẫn đạo kinh tế chính trị của Việt Nam là tư tưởng về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế kinh tế này đã tạo nên những kết quả nhất định . Tuy nhiên, lúc đó, kinh tế thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế đã diễn ra, cơ chế kinh tế này đã bộc lộ những khuyết điểm của nó, kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Từ sau Hội nghị Trung ương 6 khóa IV đến trước Đại hội VI, dưới áp lực của tình thế khách quan, nền kinh tế Việt Nam có cải tiến theo hướng thị trường, chủ yếu ở cấp vĩ mô, mang tính cục bộ, như khoán sản phẩm trong nông nghiệp, bù giá vào lương, nghị quyết về giá , lương, tiền… từ những thực tế sống động đó, Đảng đi tới quyết định thay đổi cơ chế kinh tế tại Đại hội VI (1986). Từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là thời kỳ đổi mới toàn diện, cả cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước , theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại Hội IX của Đảng (2001) đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ cế quản lý sang nhân thức mới, coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa tư duy của Đại Hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta về mục tiêu, về phương hướng phát triển, về định hướng xã hội và phân phối, về lĩnh vực quản lý. Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng hình thành và phát triển trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn, hầu như tất cả các nước đều có sự điều chỉnh chính sách kinh tế của mình. Những kinh nghiệm cải tổ, chuyển đổi kinh tế thành công và thất bại của các nước trên thế giới trở thành những bài học kinh nghiệm trong quá trình tìm ra tư tưởng kinh tế làm nền tảng cho định hướng phát triển kinh tế Việt Nam.
Như vậy, tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hình thành từ quá trình khái quát lý luận và thực tiễn đổi mới. Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là chuyển sang một mô hình kinh tế đã có sẵn từ một nước nào đó, mà là quá trình xóa bỏ các yếu tố của mô hình kinh tế cũ và thay thế bằng những yếu tố mới thích hợp hơn với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa cách mạng, bởi vì nó đặt đúng vị trí cái tất yếu kinh tế trong sự phát triển mà lịch sử đã qui định cho Việt Nam. Những thành tựu nổi bật trong hai mưới năm đổi mới của Việt Nam, nhìn dưới góc độ tư tưởng kinh tế, chính là kết quả của quyết định hành động theo tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm rõ hơn quan niệm về khả năng một quốc gia còn nghèo như Việt Nam, có thể xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng này mở ra một khả năng rộng lớn để Việt Nam hội nhập vào thị trường kinh tế thế giới, vào đời sống chính trị quốc tế, vào sự giao lưu, hợp tác văn hóa toàn cầu. Tư tưởng này cho phép xử lý thích đáng những điều kiện thường gọi là thời cơ và thách thức trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, giáo dục, an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội… tư duy này yêu cầu chúng ta nhìn thật sự thẳng thắng chúng ta đang ở đâu trong nền kinh tế chính trị toàn cầu, và cần phải làm gì ? Tính minh định của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với tư cách là nền tảng tư tưởng kinh tế, cho phép kinh tế chính trị Việt Nam hội nhập với nền kinh tế chính trị quốc tế hiện đại.
Việc chuyển từ tư tưởng kinh tế kế hoạch tập trung với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư tưởng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn tới yêu cầu thích ứng trong hàng loạt các nhận thức mới: về tổ chức quản lý của nhà nước, về các phương thức phân phối lợi ích phù hợp với quan hệ sản xuất mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhận thức về con người với tư cách là chủ thể sản xuất – kinh doanh, được đặt vào những cơ hội như nhau để phát triển, nhận thức về cạnh tranh thị trường và những mặt trái của cơ chế thị trường… Vì hình thành trong quá trình đổi mới, tư tưởng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn không ít những vấn đề của thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra mà tư duy lý luận chưa giải quyết một cách sáng tỏ, cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết.
Từ những nhận định trên, có thể nhận thấy hiện nay, và trong tương lai, tư tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ là tư tưởng dẫn đạo cho kinh tế chính trị Việt Nam phát triển trong nghiên cứu lý luận cũng như trong hoạt động kinh tế thực tiễn. Việc cần thiết hiên nay là, giới lý luận phải đáp ứng được yêu cầu làm sáng tỏ tư tưởng này trong thời kỳ lịch sử mới .
Phát triển kinh tế thị trường là bước đi tất yếu, là giai đoạn khách quan của quá trình tiến hoá của nhân loại và xã hội hoá sản xuất. Tính tất yếu phải trải qua các giai đoạn phát triển kinh tế thị trường lại càng đặt ra một cách bức bách hơn đối với các quốc gia chậm phát triển, bởi vì đây là con đường duy nhất, là phương cách tốt nhất để thực hiện phát triển rút ngắn và chống nguy cơ tụt hậu đối với phát triển kinh tế – xã hội của nước ta. Phát triển hệ thống kinh tế thị trường một cách đầy đủ, chuẩm mực và hiện đại là giải pháp tốt nhất để đảm bảo những cơ sở khách quan cho định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.ủa dân tộc, thời Việt Nam hội nhập toàn cầu.
2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
2.1 Tổng quan những thành tựu về kinh tế ,văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới.
Trong những năm qua Việt Nam đã từng bước chủ động tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực. Thực tế cho thấy hợp tác kinh tế quốc tế đã đạt được những thành tựu vượt bậc, đã có hơn 70 tỷ USD của hàng ngàn doanh nghiệp từ hơn 77 quốc gia trên thế giới đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong năm 2006 vừa qua, môi trường đầu tư của Việt Nam tiếp tục có những chuyển biến tích cực với việc ban hành thực thi có hiệu quả các luật kinh tế quan trọng cùng với việc tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14, gia nhập WTO đã tạo điều kiện để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài với mức kỷ lục, vượt ngưỡng 10 tỷ USD, mức cao nhất trong vòng 10 năm qua và gấp đôi mức bình quân của 5 năm trước. Chúng ta cũng đã có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trên 20% trong nhiều năm với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2006 đạt trên 85 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân trong 5 năm 2001-2005 đã đạt 7,5% và năm 2006 đạt 8,2%. Hiện đã có một số dự báo cho rằng Việt Nam có thể đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao hơn ở mức 8-9%, thậm chí ở mức hai con số trong những năm tới. Đánh giá về thành tựu 20 năm qua của Việt Nam, Giáo sư Pietro P. Masina, Trường đại học Naples, Italy, đã ghi nhận những thành quả đầy ấn tượng của Việt Nam là sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững, Việt Nam đã phát triển trong một khu vực năng động nhất của nền kinh tế thế giới. Ông cũng cho rằng không một quốc gia nào trên thế giới có thể giảm tỷ lệ đói nghèo nhanh như Việt Nam đã đạt được từ đầu những năm 1990 cho đến hiện nay và được coi như là một “câu chuyện thành công” của việc thúc đẩy phát triển trên thế giới.
Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt Nam là tấm gương sáng trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá, xã hội và con người.
Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn. Việc làm khan hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm nhập ở mọi tầng lớp d ân cư .Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết, Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân.
Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc
gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004. Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là 13,3%.
Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học – công nghệ có bước phát triển nhất định. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung b ình (0,498n ăm1991)lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra. Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt lên 19 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước được thống kê, còn HDI xếp thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta.
Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng.
Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ. Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp làm việc trong các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39 triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu…
Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể, những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những thành tựu trên có được là do Đảng ta đã nhận thức đúng mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình phát triển luôn luôn coi con người với tư cách vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là chủ thể của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc.
Những đóng góp của khoa học xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước(ĐCSVN)- Sau 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục ổn định và phát triển; tạo lập được những tiền đề cần thiết để bắt đầu từ năm 2001, đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực an ninh, quốc phòng được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chỉ số phát triển con người (HDI) được liên tục nâng cao và thành tựu phát triển con người của Việt Nam được UNDP đánh giá là tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Những thành tựu của 20 năm đổi mới làm tăng thêm thế và lực mới của Việt Nam, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2 Những thành tựu về khoa học –xã hội và lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Khoa học xã hội đã góp phần quan trọng, trong việc cung cấp những luận cứ khoa học cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của sự phát triển, nhất là đổi mới tư duy kinh tế.
Nghiên cứu đó có liên quan trực tiếp tới việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá - con người, môi trường, quốc phòng, an ninh ở mỗi giai đoạn. Những kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận, luận giải những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VI, VII, VIII và IX. Kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài được in thành sách, được công bố trên các tạp chí khoa học đã góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về con đường mà Việt Nam đã lựa chọn, về sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Có thể nói, chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội đã được nâng cao thêm một bước. Những tri thức khoa học hiện đại đã bước đầu được vận dụng vào công tác quản lý kinh tế - xã hội, khắc phục lối tư duy siêu hình, duy ý chí, mở rộng tầm nhìn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trong 20 năm qua, khoa học xã hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp trong những lĩnh vực chủ yếu sau:
4Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Trong 20 năm qua, khoa học xã hội đã góp phần tạo lập được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Từ thực tiễn của 20 năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần cung cấp những cơ sở lý luận để hiểu đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội từng bước khắc phục một số quan điểm giản đơn, ấu trĩ như đồng nhất chủ nghĩa xã hội với chế độ phân phối bình quân; muốn có chủ nghĩa xã hội phải nhanh chóng cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất; cường điệu vai trò của chế độ công hữu, coi sở hữu tư nhân là đối lập hoàn toàn với bản chất của chủ nghĩa xã hội; và cần phải loại bỏ nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, từ đó coi nhẹ những giá trị, những thành tựu đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; đối lập kinh tế xã hội chủ nghĩa với sản xuất hàng hoá, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...
Khoa học xã hội đã góp phần khẳng định mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Về đổi mới và phát triển kinh tế: Một trong những thành tựu quan trọng của khoa học xã hội trong lĩnh vực kinh tế là đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới tư duy kinh tế, tạo nên bước chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng hoá, tư duy thị trường; từ tư duy bao cấp, ỷ lại sang tư duy chủ động, sáng tạo; từ tư duy kế hoạch hoá tập trung sang tư duy kinh tế thị trường; từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, từ tư duy đơn sở hữu sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần; từ không thừa nhận đến thừa nhận sự đa dạng hoá các hình thức phân phối, kể cả phân phối theo vốn, tài sản; từ tư duy Nhà nước làm tất cả, độc quyền sang tư duy đa dạng hoá các chủ thể làm kinh tế, giảm độc quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, v.v..
Bên cạnh đóng góp vào việc đổi mới tư duy kinh tế, khoa học xã hội đã góp phần khẳng định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là vấn đề mang tầm chiến lược và có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có hai chế độ sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh tế phải được đối xử công bằng và bình đẳng.
Cùng với công cuộc đổi mới, các nghiên cứu về khoa học xã hội xác định ngày càng rõ hơn vai trò của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tư cách là động lực của nền kinh tế.
Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá: khoa học xã hội đã đặt cơ sở lý luận cho sự chuyển biến quan điểm từ công nghiệp hoá kiểu cũ sang công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá; từ công nghiệp hoá theo mô hình khép kín hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một nền kinh tế mở, gắn công nghiệp hoá, hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50162.DOC