Lời nói đầu 1
NỘI DUNG 2
* Vai trò của Ngân hàng Trung Ương. 2
* Chức năng của Ngân hàng Trung Ương. 2
KẾT LUẬN 10
11 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ngân hàng trung ương và vai trò của ngân hàng trung ương trong việc quản lý nền kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sau nhiều năm xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong những năm xây dựng, đổi mới đó chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhưng chúng ta cũng gặp phải những khó khăn, đối mặt với những vấn đề do nhiều nguyên nhân, ảnh hưởng gây ra. Và trong những thành tựu mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt được em thấy ngành Ngân hàng có vai trò không nhỏ cho sự thắng lợi của quá trình đổi mới của đất nước. Em rất thích ngành Ngân hàng, bởi vì ngành Ngân hàng có nhiều cái hay mà em chưa biết, em muốn tìm hiểu. Chính vì vậy, nghiên cứu nắm bắt về vai trò, hoạt động, chức năng của ngành Ngân hàng nói chung, Ngân hàng Trung Ương nói riêng là sự cần thiết. Về khái niệm Ngân hàng em không được hiểu rõ, em chỉ biết Ngân hàng có nhiệm vụ nhận gửi và cho vay. Đối với em chọn đề tài: "Ngân hàng Trung Ương và vai trò của Ngân hàng Trung Ương trong việc quản lý nền kinh tế" là rất khó đối với em, nhưng so với các đề tài này là em còn biết một chút ít. Em rất thích đề tài này, em rất muốn mình sau này mình có thật nhiều tiền để gửi vào Ngân hàng. Đề tài rất hay và có tính thực tiễn cao.
Do hiểu biết của em còn hạn chế và nhận thức của em chưa thật thấu đáo nên bài làm không tránh khỏi những sai sót, nhược điểm. Em mong thầy cô thông cảm và chỉ bảo, góp ý cho em.
Nội dung
Thật vậy, sau nhiều năm xây dựng nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta đạt được một số thành tựu đáng kể không chỉ rong nước mà cả trong quan hệ quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng vấp phải những khó khăn, ảnh hưởng đối mặt với những vấn đề do nhiều nguyên nhân. Nhưng chúng ta phải hiểu có vẫp ngã, khó khăn, vất vả thì chúng ta mới rút ra kinh nghiệm, bài học, để từ đó chúng ta có những thành công to lớn. Ngành ngân hàng là một điển hình của sự thành công, ngành đã có những đóng góp đáng kể. Theo em được biết, một người đứng đầu của nước Việt Nam đã đánh giá rất cao những nỗ lực của ngành Ngân hàng trong quá trình đổi mới của đất nước. Có thể nói các hoạt động của Ngân hàng có vai trò không nhỏ cho sự thắng lợi của quá trình đổi mới của đất nước ta.
Với một chút hiểu biết của em, em xin trình bày đề tài. Để hiểu rõ Ngân hàng (Ngân hàng Trung Ương) nước ta trước hết chúng ta phải hiểu rõ được vai trò và chức năng chung của mỗi Ngân hàng Trung Ương.
* Vai trò của Ngân hàng Trung Ương.
Theo em được biết, ngày nay tất cả các quốc gia đều có một Ngân hàng Trung Ương. Ngân hàng này thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản và cơ cấu tổ chức của các Ngân hàng rất chặt chẽ.
+ Nhiệm vụ 1: Đóng vai trò chủ Ngân hàng đối với các Ngân hàng thương mại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động không bị trục trặc.
+ Nhiệm vụ 2: Nó đóng vai trò chủ Ngân hàng đối với Chính phủ, gắn trách nhiệm kiểm soát hệ thống tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách Chính phủ, và ngoài những vai trò của Ngân hàng Trung Ương còn có các chức năng của ngân hàng.
* Chức năng của Ngân hàng Trung Ương.
Để thực hiện vai trò đó Ngân hàng Trung Ương có những chức năng cơ bản sau đây:
- Ngân hàng của các Ngân hàng thương mại: Ngân hàng Trung Ương giữ các tài khoản dự trữ cho các Ngân hàng thương mại, thực hiện tiến trình thanh toán cho Ngân hàng thương mại và hoạt động như một “người cho vay của phương sách cuối cùng của các Ngân hàng thương mại trong trường hợp khẩn cấp“. Bởi lẽ hệ thống Ngân hàng hiện đại với nguồn dự trữ ít ỏi cho phép xã hội tạo ra phương tiện trao đổi với lượng đầu vào tương đối ít về các nguồn lực khan hiếm đất đai, lao động và vốn. Tuy nhiên vẫn phải trả một cái giá cho việc tạo ra một cách có hiệu quả của các phương tiện trao đổi này. Nhưng ta đã biết bất kỳ một hệ thống Ngân hàng nào có nguồn dự trữ giỏi dễ bị ảnh hưởng bởi những cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ do các Ngân hàng này không đủ dự trữ để đáp ứng các nhu cầu rút toàn bộ tiền ký gửi cùng một lúc, mọi dấu hiệu của hiện tượng rút tiền nhiều có khả năng trở thành một lời tiên đoán hiện thực khi người ta đổ xô đến rút tiền ra trước làm cho Ngân hàng bị phá sản. Để tránh cho việc khủng hoảng đó trước tiên cần đảm bảo cho người gửi tin rằng Ngân hàng không bao giờ nói dối. Cần phải có sự đảm bảo rằng các Ngân hàng có thể nhận được tiền mặt và chỉ có thể nhận được tiền mặt khi có sự cần thiết. Và chỉ có thể tạo ra tiền mặt với số lượng không hạn chế đó là Ngân hàng Trung Ương.
- Quản lý nợ và tài trợ thâm hụt với vai trò là chủ Ngân hàng của chính phủ Ngân hàng Trung Ương phải đảm bảo rằng chính phủ có khả năng đáp ứng những khoản chi tiêu khi nó đang có thâm hụt.
Hãy tạm gác khả năng chính phủ có thể vay từ bên ngoài, có hai cách tài trợ cho nhu cầu vay mượn của khu vực công cộng. Thứ nhất, chính phủ có thể vay tiền của dân và trong nước bằng cách bán ra các chứng khoán tài chính, kỳ phiếu của chính phủ và công trái cho công chúng. Điều này được thực hiện như sau. Chính phủ bán các chứng khoán cho Ngân hàng lấy tiền mặt bù đắp cho nhưng thâm hụt. Đến lượt mình Ngân hàng Trung Ương tiến hành một nghiệp vụ thị trường mở bán những chứng khoán này trên thị trường mở để lấy tiền mặt. Khi quá trình này kết thúc, những người dân giữ trong tay những chứng khoán có lãi của chính phủ nhưng lượng cung lớn tiền tệ không thay đổi. Qua việc chi dùng khoản thâm hụt chính phủ đã đưa trở lại nền kinh tế số tiền mặt mà chính phủ đã rút ra khi bán các chứng khoán và Ngân hàng Trung Ương qua việc bán các chứng khoán này, đã thu hồi số tiền mặt mà chính phủ vay ban đầu. Thứ hai, chính phủ có thể tài trợ cho thâm hụt bằng cách in thêm tiền thực chất loà chính phủ bán chứng khoán cho Ngân hàng Trung Ương lấy tiền mặt trang trải cho khoản chi tiêu vượt quá khoản thuế. Khối lượng các chứng khoán chính phủ nằm trong các Ngân hàng thương mại hay ở các cá nhân các công dân không thay đổi, nhưng cơ số tiền đã tăng lên. Lượng cung ứng tiền đã tăng lên nhiều so với hệ số tiền. Vai trò của Ngân hàng Trung Ương vượt quá việc đảm bảo cho khoản thâm hụt hiện hành được tài trợ bằng cách bán chứng khoán và in tiền. Do chính phủ đã phải gánh chịu một khoản thâm hụt trong quá khứ, nên các Ngân hàng thương mại và các công dân vẫn còn giữ các chứng khoán còn tồn.
Do vậy lúc nào cũng có một số chứng khoán được chuộc lại. Ngân hàng Trung Ương chịu trách nhiệm bán ra những chứng khoán mới để huy động tiền mua lại những chứng khoán cũ đến hạn phaỉ chuộc. Việc quản lý nợ và tập hợp những đánh giá do đó người mua quyết định chi tiết của chứng khoán mới để phát hành trong các thời điểm tương lai mà đến lúc đó chính phủ cam kết chuộc lại chứng khoán và lãi suất phải trả có sức hấp dẫn đối với người mua.
- Kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế. Một Ngân hàng Trung Ương có thể tác động đến việc cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế do vậy lượng cung ứng tiền tệ một phần là một khoản nợ của Ngân hàng Trung Ương và một phần là những khoản nợ của các Ngân hàng thương mại. Để hiểu rõ chúng ta mô tả ba công cụ quan trọng nhất mà Ngân hàng Trung Ương có thể sử dụng để tác động đến lượng cung ứng tiền tệ: Dự trữ bắt buộc tỉ suất chiết khấu và những nghiệp vụ của thị trường mở.
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một tỷ lệ tối thiếu dự trữ tiền mặt so với các khoản ký gửi mà Ngân hàng Trung Ương yêu cầu các Ngân hàng thương mại phải duy trì. Nếu một khoản dự trữ bắt buộc đã có hiệu quả các Ngân hàng thương mại có thể giữ lượng tiền mặt cao hơn lượng dự trữ tiền mặt theo yêu cầu, nhưng không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống thấp hơn lượng dự trữ bắt buộc họ phải vay tiền ngay, thường họ phải vay tiền của Ngân hàng Trung Ương để khôi phục lại lượng dự trữ bắt buộc. Do vậy khi Ngân hàng Trung Ương quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà những Ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào, thì hậu quả là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các Ngân hàng , làm giảm trị số của thừa số tiền và giảm lượng cung ứng tiền với bất kỳ cơ số tiền nhất định nào. Tương tự, khi một yêu cầu dự trữ cụ thể đã có hiệu lực, thì bất kỳ mức tăng nào và yêu cầu dự trữ sẽ làm giảm lượng cung ứng tiền. Khi Ngân hàng Trung Ương quy định một mức cao hơn khoản dự trữ mà các Ngân hàng muốn giữ nếu không có quy định đó các Ngân hàng sẽ tạo ra các khoản ký gửi ít hơn và cho vay ít hơn khoản mà họ muốn làm. Do vậy một khoản dự trưc bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế đánh vào các Ngân hàng buộc họ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản dự trữ dưới dạng dự trữ Ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các khoản cho vay có lãi suất cao.
+ Tỷ lệ chiết khấu
Tỷ lệ chiết khấu là lãi suất mà Ngân hàng Trung Ương tính với các Ngân hàng thương mại khi họ muốn vay tiền khi tỷ suất chiết khấu còn là một phần quan trọng trong kiểm soát tiền tệ ở Anh nó còn được gọi là tỷ suất Ngân hàng hay tỷ suất cho vay tối thiểu ( MLR - Mimiumlending Rate ).
Giả sử các Ngân hàng cho rằng tỷ số an toàn tối thiểu giữa tiền mặt với tiền ký gửi là 10 % . Vì những mục đích của lập luận này, dù con số này là sự đánh giá về thương mại hay là một tỷ lệ bắt buộc do Ngân hàng quy định thì cũng không quan trọng. Trong bất cứ một ngày cụ thể nào các Ngân hàng chắc là có một ít tiền mặt trong tay. Giả dụ dự trữ tiền mặt của họ là 12% các khoản ký gửi. Họ dám để cho dự trữ tiền mặt của họ giảm đến đau so với mức tối thiểu 10 % ?
Các Ngân hàng phải cân đối lãi suất họ sẽ thu được từ một khoản cho vay thêm với nguy cơ và chi phí có liên quan nếu bất cứ thình lình có sự rút tiền ồ ạt làm cho dự trữ của họ giảm xuống thấp hơn con số tới hạn là 10 %. Đây là lúc mà tỉ suất chiết khấu bắt đầu hoạt động. Giả sử lãi suất của thị trường là 8 % và Ngân hàng Trung Ương thông báo sẵn sàng cho các Ngân hàng thương mại cũng có thể cho vay ở mức lãi suất 8 %. Các Ngân hàng thương mại cũng có thể cho vay đến mức tối đa và kéo dự trữ tiền mặt của họ xuống mức tối thiểu 10 % tiền ký gửi. Các Ngân hàng hiện nay cho vay với lãi suất 8 % và nếu điều xấu nhất xẩy ra thì họ thiếu tiền mặt, họ có thể vay của Ngân hàng với lãi suất 8%. Các Ngân hàng không thể bị thua lỗ khi cho vay ở mức khả dĩ cao nhất.
Tuy nhiên, giả sử Ngân hàng công bố rằng, mặc dù lãi suất thị trường là 8% nó sẽ chỉ cho các Ngân hàng thương mại vay ở mức lãi suất phạt là 10 %. Bây giờ một Ngân hàng có dự trữ tiền mặt 12 % có thể kết luận rằng chẳng nên cho vay thêm với lãi suất 8 % , vì đIều đó sẽ là cho dự trữ tiền mặt của nó giảm xuống đến mức tối thiểu là 10 % tiền ký gửi. Đây là một rủi ro cao đến mức mà tình trạng bất ngờ rút tiền ồ ạt sẽ buộc Ngân hàng này phải vay tiền của Ngân hàng Trung Ương với lãi suất 10 %. Nó sẽ bị mất tiền khi cho vay thêm. Như vậy thì tha giữ lại khoản dự trữ tiền mặt cao hơn để đề phòng khả năng rút tiền bất ngờ.
Do vậy, bằng cách ấn định tỉ suất chiết khấu ở mức phạt cao hơn mức lãi suất chung. Ngân hàng Trung Ương có thể khuyến khích các Ngân hàng thương mại tự nguyện duy trì thêm lượng dự trữ tiền mặt. Vì các khoản ký gửi Ngân hàng Trung Ương bây giờ trở thành một bội số nhỏ hơn của dự trữ tiền mặt của các Ngân hàng, nên thừa số tiền được giảm xuống và cung ứng tiền tệ ít hơn đối với bất kỳ cơ số nào.
+ Nghiệp vụ thị trường mở
Một nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành khi Ngân hàng Trung Ương thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào hoặc bán ra các chứng khoán tài chính trên thị trường mở.
Trong khi hai biện pháp kiểm soát tiền tệ trên được tiến hành bằng cách thay đổi trị số của thừa số, thì những nghiệp vụ thị trường mở làm biến đổi cơ số tiền. Do lượng cung ứng tiền tệ bằng cơ số tiền nhân với thừa số, các nghiệp vụ này làm thay đổi lượng cung ứng tiền tệ.
Giả sử Cục phát hành tiền của Ngân hàng Trung Ương in ra 1 triệu Bảng giấy bạc mới và dùng để mua các chứng khoán của chính phủ trên thị trường tự do. Như vậy bây giờ các Ngân hàng hoặc khu vực tư nhân có đi 1 triệu Bảng chứng khoán. Và nền kinh tế đã được bơm thêm 1 triệu Bảng tiền mặt. Một số sẽ được giữ trong lưu thông tư nhân, nhưng hầu hết sẽ được gửi vào hệ thống Ngân hàng, mà có thể tăng khoản cho vay ký gửi dựa vào khoản dự trữ tiền mặt cao hơn của nó. Ngược lại, nếu Cục phát hành tiền của Ngân hàng Trung Ương bán ra 1 triệu Bảng chứng khoán của chính phủ từ khoản dự trữ hiện có, thì đúng 1 triệu Bảng tiền mặt phải được rút từ lưu thông tư nhân hoặc khoản dự trữ tiền mặt của các Ngân hàng. Cơ số tiền bị giảm mất 1 triệu Bảng. Do các Ngân hàng bị hụt bớt dự trữ tiền mặt, họ buộc phải giảm cho vay tiền ký gửi và lượng cung ứng tiền tệ giảm xuống.
Hãy lưu ý rằng, có rất ít khác biệt khi Ngân hàng giao dịch với các Ngân hàng khác hoặc với các tổ chức kinh doanh công cộng phi Ngân hàng. Nếu Ngân hàng Trung Ương bán trực tiếp chứng khoán cho hệ thống Ngân hàng , dự trữ tiền mặt của các Ngân hàng sẽ giảm ngay lập tức. Nếu Ngân hàng Trung Ương bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân sẽ lại trả bằng séc theo tài khoản của họ ở Ngân hàng, làm cho dự trữ tiền mặt của các Ngân hàng bị giảm sút. Trong cả hai trường hợp, bằng những nghiệp vụ thị trường mở trong lĩnh vực chứng khoán tài chính, Ngân hàng làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền mặt của cácNgân hàng , khoản cho vay tiền ký gửi và lượng cung ứng tiền tệ.
Ngoài những chức năng trên chúng ta phải kể đến các chính sách mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng để quản lý nền kinh tế.
Về dự trữ bắt buộc theo em được biết Ngân hàng Nhà nước đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ 7% xuống 5%. Riêng Ngân hàng Nhà nước và Phát triển Nông thôn do phải tập trung vỗn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống mức 3%.
Về nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng Nhà nước đã gấp rút chuẩn bị các điều kiện về pháp lý.
* Về điều chỉnh tỷ giá.
Ngân hàng Nhà nước đã mua được một số lượng đáng kể ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ Nhà nước và bổ sung ngoại tệ cho quỹ kinh doanh. Có thể nói, việc đổi mới cơ chế Ngân hàng Nhà nước là một bước đi đúng đắn và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
* Về quản lý ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường theo dõi, giám sát các TCTD thực hiện các quy định của thủ tướng Chính phủ về ban hành quy định về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước để thu hút nguồn ngoại tệ phục vụ công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Cùng với việc đổi mới trong quản lý các giao dịch vãng lai, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường các biện pháp trong quản lý vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp, quản lý đầu tư nước ngoài quản lý kinh doanh vàng.
* Về đầu tư tín dụng: Đầu 1999 dư nợ cho vay nền kinh tế tăng so với năm 1998.
* Về huy động vốn.
Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Ngân hàng thương mại tích cực mở rộng các hình thức huy động vốn thích hợp đặc biệt là vốn dài hạn, trung hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đầu tư.
* Về công tác chấn chỉnh, củng cố.
Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp chặt chẽ với UBND các tỉnh, thành phố có Ngân hàng Thương mại cổ phần trên địa bàn Ngân hàng Nhà nước đã hoàn thành cấp đủ vốn điều lệ song song với công tác chuẩn bị Ngân hàng Nhà nước đã khẩn trương chỉ đạo, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của quỹ tín dụng.
* Và để quản lý nền kinh tế ngoài các chính sách trên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn có một chính sách rất quan trọng đó là hoạt động đối ngoại Ngân hàng Nhà nước hoạt động đối ngoại rất tốt ngày một sâu sắc và đạt được những kết quả quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập với khu vực và qtt. Ví dụ theo em được biết đã đàm phán với IMF, WB, nhằm tháo gỡ những khó khăn, ách tắc trong quá trình triển khai chương trình ESAF/ACII. Thiết lập quan hệ hợp tác với các nước như đẩy mạnh quan hệ với Ngân hàng Trung Ương, Cu Ba.v.v...
* Thực hiện các dự án tín dụng quốc tế do Ngân hàng Nhà nước quản lý.
* Về chính sách lãi suất.
Ngân hàng Nhà nước có sự thay đổi theo hướng tự do hoá (đầu năm 1996), hủy bỏ các quy định về lãi suất tiền gửi, điều chỉnh giảm mức lãi suất trần cho vay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng. Đối với Việt Nam, lãi suất luôn luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kinh tế và các tầng lớp dân cư.
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp, nó vừa là công cụ hết sức quan trọng và nhạy cảm trong việc điều hành chính sách tiền tệ, vừa là giá cả sử dụng vốn của hoạt động tín dụng. Và tiếp theo chúng ta nói về công tác cải cách hành chính của Ngân hàng Nhà nước.
* Ngân hàng Nhà nước trong năm 1999 đã cải cách tập trung vào việc đẩy nhanh việc hoàn thiện các cơ chế, quy chế đặc biệt là các văn bản hướng dẫn hai luật ngân hàng. Để quản lý nền kinh tế cho thật tốt Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải có những chính sách phù hợp như phải có biện pháp đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, trên cơ sở an toàn, hiệu quả. Nâng cao chất lượng, nâng cao năng lực nghiệp vụ thanh tra Ngân hàng. Nói chung các chính sách phải phù hợp, phải điều chỉnh một cách hợp lý.
Kết luận
Nói tóm lại, để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải học hỏi, xây dựng và ban hành có hiệu quả các chính sách quản lý nền kinh tế của Nhà nước, đặc biệt phải củng cố nâng cao vai trò của ngân hàng Trung Ương.
Ngân hàng Trung Ương là yếu tố quyết định làm điều hoà lạm phát đưa nền kinh tế phát triển ổn định lâu bền.
Vai trò và chức năng của ngân hàng Trung Ương rất nhiều chức năng cho nên em rất muốn tìm hiểu từng chi tiết. Các chính sách mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng để quản lý nền kinh tế rất nhiều. Nhưng vì hiểu biết của em còn hạn hẹp, chắc rằng bài viết của em không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0801.doc