Đề tài Ngân sách Nhà nước trong hệ thống tài chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta

 

 

Phần I : Phần mở đầu. 1

Phần II : Phần nội dung. 2

A. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

 nghĩa ở Việt Nam. 2

I. Bản chất của NSNN 2

1. NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế. 2

2. NSNN với tư cách là một bộ phận trong hệ thống tài chính quốc gia 4

II. Vai trò của NSNN 5

1. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế 6

2. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội 7

3. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực thị trường góp phần ổn định thị trường giá cả, chống lạm phát 8

III. NSNN - công cụ tài chính vĩ mô của Nhà nước trong quản lý và điều tiết kinh tế 8

1. Chính sách tài khoá lý thuyết 8

2. Một số vấn đề lý luận về NSNN 9

B. NSNN trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nước ta 11

I. Những vấn đề chung về NSNN 11

1. Thu NSNN 12

2. Chi tiêu NSNN 14

3. Tổ chức hệ thống và phân cấp NSNN 15

II. Thực trạng thu chi Ngân sách Nhà nước ta trong những năm gần đây 15

1. Những thành tựu đạt đựoc của hoạt động thu chi NSNN trong năm 2003 15

2. Những hạn chế và những thách thức 19

3. Phương hướng và giải pháp cơ bản nằhm đổi mới công tác tài chính, nâng cao hiệu

 thu, chi NSNN. 21

Kết luận 24

Tài liệu tham khảo. 25

 

doc30 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngân sách Nhà nước trong hệ thống tài chính trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là thu nhập của Nhà nước T Các khoản chi tiêu của Nhà nước là G. B là hiệu giưa thu và chi ngân sách ( cán cân ngân sách ) ta có công thức sau: B = T - G Vấn đề cơ bản của ngân sách Nhà nước là giải quyết mối quan hệ giữa thu ( T ) và chi tiêu ( G ). Tuy theo so sánh giưa thu và chi ta có các trạng thái sau: + B > 0 Thặng dư ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách .T > G + B = 0 Cân bằng ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách . T = G + B < 0 Thâm hụt ngân sách hay thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách . T < G Khi nghiên cứu về vấn đề ngân sách Nhà nước, nhiều nhà kinh tế đã đặt ra những câu hỏi mà đến bây giờ vẫn còn là những vấn đề tranh luận. 2.1. Có nhất thiết phải để ngân sách Nhà nước ở trạng thái cân bằng hay không ? Một số nhà kinh tế cho rằng, khi điều chỉnh các khoản thu và chi ngân sách, Nhà nước cần thực hiện chính sách "cân bằng ngân sách". Theo quy tắc này, Nhà nước không được phép chi tiêu hơn số tiền mà nó nhận được. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế phản đối quy tắc đòi hỏi Nhà nước phải cân bằng ngân sách của mình một cách nghiêm ngặt. Bởi nếu như ngân sách cân bằng nhưng các khoản thu, chi năm sau không nhiều hơn năm trước chứng tỏ nền kinh tế không phát triển đi lên vì vậy nếu giữ ngân sách cân bằng thì phải là cân bằng trong trạng thái động. Hơn nữa, đôi khi thâm hụt hoặc thặng dư ngân sách lại trở nên cần thiết. Thứ nhất, quy tắc "cân bằng ngân sách" thủ tiêu năng lực tự ổn định của hệ thống thuế và các khoản chuyển giao thu nhập nhằm ổn định nền kinh tế. Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, các khoản thuế và chuyển giao thu nhập ( tính trên cơ sở thu nhập ) tự động thay đổi dù tỉ lệ của chúng không đổi; cụ thể là thuế giảm, chuyển giao thu nhập tăng khi thu nhập giảm. Các phản ứng ứng tự động góp phần ổn định nền kinh tế này lại làm cho ngân sách bị thâm hụt. Trong khi đó, quy tắc "ngân sách cân bằng" nhiêm ngặt đòi hỏi Nhà nước phải tăng thuế hay cắt giảm chi tiêu vào thời kìư suy thoái ; hoạt động này tiếp tục làm tổng cầu giảm sút hơn nữa, kết quả là suy thoái ngày càng tăng. Thứ hai, Người ta có thể sử dụng thâm hụt để chuyển gánh nặng thuế từ thế hệ hiện tại cho thế hệ tương lai. Một số nhà kinh tế lập luận rằng, nếu thế hệ hiện tại phải phát đọng chiến tranh để bảo vệ độc lập, tự do cho tổ quốcthì các thế hệ tương lai sẽ có lợi. Để buộc người hưởng thụ tương lai phải trả một phần chi phí, thế hệ hiện tại có thể tài trợ cho chiến tranh bằng cách cháp nhận thâm hụt ngân sách. Nhà nước có thể trả lại số nợ trong chiến tranh bằng cách đánh thuế vào thế hệ tiếp theo. Những nguyên nhân này làm cho hầu hết các nhà kinh tế phủ nhậnn quy tắc "cân bằng ngân sách" nghiêm ngặt. 2.2. Thâm hụt ngân sách và các biện pháp khắc phục: Để lượng hoá thâm hụt ngân sách, các nhà kinh tế chia thâm hụt ngân sách ra làm ba loại: - Thâm hụt thực tế, tức là thâm hụt ngân sách xảy ra khi số chi thực tế vượt số thu thực tế trong một thời kỳ nhất định. - Thâm hụt cơ cấu, là thâm hụt ngân sách xảy ra khi nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng. - Thâm hụt chu kỳ, tức là thâm hụt ngan sách bị động do trạng thái chu kỳ của nền kinh tế gây ra. Nó bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu. Thâm hụt ngân sách xảy ra khi Nhà nước tăng chi tiêu, kết quả là cung vốn vay giảm, lãi suất tăng dẫn đến hiện tuợng tháo lui đầu tư, làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nhà nước cần có biện pháp kịp thời khắc phục thâm hụt. Nguyên tắc cơ bản là "tăng thu, giảm chi", song không phải nền kinh tế nào cũng áp dụng được biện pháp này. Khi các giải pháp tăng thu, giảm chi không khắc phục được thâm hụt, thì Nhà nước phải sử dung giải pháp tài trợ cho thâm hụt. Có bốn giải pháp tài trợ là : Thứ nhất, là vay tiền ngân hàng ( in thêm tiền ). Thế mạnh của giải pháp này là tài trợ kịp thời cho các khoản thâm thủng của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ máy tài chính vận hành bình thường, giải toả những ngưng trệ trong bộ máy Nhà nước. Song, giải pháp này sẽ dẫn đến hậu quả nan giải là lạm phát cao, giá cả tăng, làm giảm sức mua của đồng tiền và làm đời sống dân cư giảm sút khi lượng tiêng trong lưu thông tăng. Đông tiền giảm sức mua làm giảm khả năng tài trợ cho ngân sách. Bởi khi giá cả tăng, Nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn cho nhưững tiêu dùng không đổi, điều đó buộc Nhà nước lại phải in thêm tiền; cứ như vậy, nền kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng tiền tệ. Thứ hai, là sử dụng dự trữ ngoại tệ. Giải pháp này có hiệu lực rất mạnh, giúp bù đắp kịp thời cho thâm thủng ngân sáchvà ảnh hưởng tiêu cực của nó đến nề kinh tế không tức thời. Sông không phải nước nào cũng có luợng dự trữ ngoại tệ lớn. Nếu lượng dự trữ ngoại tệ bị rút ra thấp hơn mức tối thiểu ( tương đương với giá trị bốn tháng nhập khẩu ) sẽ dẫn đến nguy cơ phá giá đông bản tệ, uy tín của đồng tiền quốc gia trên thị trường quốc tế giảm. Và đặc biệt không thẻ ứng phó với những sự cố trong nên kinh tế, lúc đó tư nhân sẽ chuyển vốn ra nước ngoài, hiện tượng thoái lui đầu tư và suy thoái sẽ xảy ra. Thứ ba, là vay nợ nước ngoài. Giải pháp này đã từng là nguồn tài trợ phổ biến và quan trọng của các nước bị lệ thuộc. Song, giải pháp này cũng có giới hạn và chỉ là giải pháp tình thế. Nếu một nước thường xuyên vay nợ để tài trợ cho thâm thủng ngân sách sẽ vấp phải những đối sách hạn chế của các chủ nợ làm cho các khoản vay không đủ lượng, do đó không hiệu quả. Mặt quan trọng hơn là nợ chồng chất dẫn đến thu nhập quốc dân hàng năm không đủ trả nợ nước ngoài, tất yếu bị lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị. Thứ tư, là vay nợ trong nước. Giải pháp này có ưu thế la huy động được các nguồn nội lực đê khắc phục nguồn thâm thủng ngân sách. Nhà nước vay nợ nhân dân thông qua hinh thức phát hành trái phiếu. Song, nó gây ra không ít hiệu ứng phụ, tác động xấu vào nền kinh tế như: làm giảm khối lượng tín dụng cho đầu tư, làm lãi suất tăng, làm khu vực tư nhân đi vay nợ nước ngoài. . . Trong thực tế, nên áp dung đồng thời và linh hoạt các biện pháp trên để phát huy đuợc những ưu điểm của mỗi phương pháp, nhanh chóng giải quyết thâm hụt ngân sách, ổn định và phát triển kinh tế. 2.3. Thặng dư ngân sách: Thặng dư ngân sách lại có tác động hoàn toàn ngược lại so với trường hợp thâm hụt ngân sách. Mức thặng dư ngan sách, hay tiết kiệm chính phủ làm tăng tiết kiệm quốc dân , tăng cung vốn vay; kết quả là lãi suất giảm và khuyến khích đầu tư, làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy rõ ràng là thặng dư ngân sách Nhà nước có lợi cho tăng trưởng kinh tế hơn so với thâm hụt ngân sách. Đây là điều mà các nhà kinh tế đều thống nhất. Nhưng việc làm gì với khoản thặng dư này thì còn nhiều tranh cãi. Một số nhà hoạch định chính sách cho rằng nên duy trì thặng dư; một số khác lại cho rằng nên thủ tiêu nó bằng cách tăng chi tiêu hay cắt giảm thuế. Các nhà kinh tế ủng hộ duy trì thặng dư lập luận rằng; việc sử dụng phần thặng dư để hoàn trả một số khoản nợ chính phủ sẽ khuyến khích đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế ủng hộ việc thủ tiêu thặng dư ngân sách cho rằng; cắt giảm thuế, thuế suất thấp hơn sẽ làm biến dạng các hoạt đọng kinh tế ít hơn, làm quá trình phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; hoặc thặng dư cần được sử dụng để tăng chi tiêu của chính phủvào cơ sở hạ tầng và giáo dục, bởi vì theo họ lợi suất của đầu tư công cộng vào các lĩnh vực đó cao hơn lợi suất bình quân của tư nhân. Chính sách đúng phụ thuộc vào quan điểm về giá trị của đầu tư tư nhân và đầu tư công cộng, cùng mức độ biến dạng do thuế gây ra. B. Ngân sách Nhà nước trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nước ta: I. Những vấn đề chung về ngân sách Nhà nước: 1. Thu ngân sách Nhà nước: Xét về mặt nội dung, thu ngân sách Nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tạp trung của Nhà nước. Như vậy thu ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản tiền thu được tập trung vào tay Nhà nưowcs để hình thành nên quỹ ngân sách. Thu của ngân sách Nhà nước được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn thu chủ yếu là từ thu nhập quốc dân. Giữa thu nhập quốc dân và thu NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng thu nhập quốc dân là cơ sở để tăng thu ngân sách và quá trình huy động thu nhập quốc dân vào ngân sách cũng có những tác động kích thích tăng thu nhập quốc dân. Thu ngân sách Nhà nước bao gồm: - Thuế, phí, lệ phí do cá nhân và tổ chức nộp theo quy định của pháp luật. - Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: + Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân. + Các khoản viện trợ. + Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. + Các khoản do Nhà nước vay( trong và ngoài nước ) Trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu của ngan sách Nhà nước ta. Thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp cho Ngân sách Nhà nước. Thuế có tính cưỡng chế và pháp lý cao. Thuế còn là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân nhưng không phải hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thu thuế được Nhà nước sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, người nộp it, người nộp nhiều, đều bình đẳng trong việc nhận lại các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước Thuế còn là công cụ để Nhà nước tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô. Băng hệ thống thuế , Nhà nước quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc đánh thuế với thuế suất thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô. Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường thì sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng cao, vấn đề này iên quan đến đạo đức và công bằng xã hội. Sự mất cân bằng đosex được hoà bằng các chính sách thuếcủa Nhà nước. Hệ thống thuế hiện hành ở nước ta bao gồm: Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng ( thuế VAT ) Thuế VAT là một loại thuế gián thu. Người nộp thuế là các tổ chức, cá nhân kinh doanhcó doanh thu thuộc các ngành nghề, các hình thức hoạt động có địa điểm cố định hay lưu động, hạot động thường xuyên hay không thường xuyên trên lãnh thổ Việt Nam. Căn cứ để tính thuế VAT là : Giá trị gia tăng phát sinh trong kỳ nộp thuế và thuế suát. Đây là nguồn thu quan trong nhất của ngân sách Nhà nước. Thứ hai, thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế gián thu, đánh vào giá trị một số hàng hoá sản xuất và lưu thông trong nước hoặc nhập khẩu.Thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta tập trung vào một số mặt hàngnhư: Rượu, bia, thuốc lá, bài lá, vàng mã, xăng dầu các loại, hàng điện tử cao cấp, ô tô, xe máy. Tuỳ tưng loại hàng hoá mà có thuế suất khác nhau. Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và nhập khẩu các hàng hoá trong dạng tiêu thụ đặc biệt. Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nước, có taqcs dụng điều tiết những người có thu nhập cao và hạn chế tiêu dùng những hàng hoá độc hại cho con người. Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là loại thuế trực thu, đánh vào lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất thuộc các thành phần sản xuất. Đối tượng đánh thuế là lợi nhuận thực tế thu được trong kinh doanh. Người nộp thuế là các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc tất cả các ngành nghề của các thành phần kinh tế. Thứ tư, thuế xuát, nhập khẩu. Đối tượng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khảu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. Thuế suất của hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu gồm thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi. Ngoài ra còn có ưu đãi miễn thuế, nhằm khuyến khích suất khảu hàng trong nước cần xuất và nhập những hàng thiết yếu. Thuế suất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế quan trọng trong chính sách mở cửa với bên ngoài, đồng thời là vũ khí để bảo vệ kinh tế trong nước và là một nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Thứ năm, thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thuế sử dụng đất nông nghiệp là thúe trực thu, thu theo dạng đất nông nghiệp do các tổ chức và cá nhân sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Người sử dụng đất nông nghiệp là người nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thuế sử dụng đất nông nghiệp thể hiện quan điểm khoan sưc dân, giảm nhệ sự đóng góp của nông dân cho Nhà nước, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phat triển phù hợp với kinh tế thị trường, góp phần sử dụng có hệu quả đất nông nghiệp, công bằng , hợp lý trong việc sử dụng đất nông nghiệp giữa các miền, các địa phương, góp phần cải thiện đời sống nông dân. Thứ sáu, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Thuế thu nhập là thuế trực thu đánh vào thu nhập thường xuyên và không thường xuyên của người được hưởng thu nhạp cao. Người nộp thuế là công dân việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thu nhập cao. Thuế suất áp dụng theo thuế luỹ tiến. Thuế thu nhập dần dần trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước, bao quát được nguồn thu nhập của công dân góp phần giải quyết công bằng xã hội trong phân phối, điều tiết thu nhập. Thứ bảy, thuế tài nguyên . Thuế tài nguyên là thuế đánh vào người khai thác tài nguyên quốc gia. Người nộp thuế tài nguyên là nguời khai thác tất cả các tài nguyên quốc gia bao gồm: khoáng sản, sản phẩm rừng tự nhiên, cá và các loại thuỷ sản tự nhiên khác. Căn cứ tính thuế tài nguyên là số lượng tài nguyên khai thác, giá tính thuế đơn vị tài nguyên và thuế suát. Thuế tài nguyên có vai trò quan trọng trong khuyến khích, bảo vệ, khia thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, có hiệy quả cao, đông thời là nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Bên cạnh thuế, phí và lệ phí cũng là một nguồn thu quan trong mang tính chất bắt buộc nhưng có tích chất đối giá, nghĩa là lệ phí thực chấtlà một khoản tiền mà dân chúng bỏ ra trả cho Nhà nước khi họ hưởng thụ những dịch vụ do Nhà nước cung cấp, đó là những hang hoá công cộng có tích chất giới hạn và hàng hoá công cộng có thể định giá như lệ phí qua cầu, lệ phí công chứng giấy tờ, xác nhận, cấp visa. . . Ngoài các khoản thuế, lệ phí, NSNN còn có những khoản vay; đối tượng vay có thể là dân cư, Ngân hàng và bằng cách phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ. Hoặc các khoản vay, viện trợ từ nước ngoài, vay chính phủ các nước hoặc các tổ chức quốc tế. Khi vay cần cân đối giưa những lợi ích của các khoản vay và chi phí của chúng cũng như xem xét khả năng hoàn trả. . . 2. Chi tiêu ngân sách Nhà nước: Chi NSNN thể hiện qua các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tê-xã hội mà Nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định. Theo chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, nội dung chi tiêu ngân sách Nhà nước bao gồm: - Chi về kinh tế: Chi cho đầu tư vốn cố định và vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội; chi cho quỹ phát triển các chương trình, dự án phát triển kinh tế, chi cho sự nghiệp kinh tế, chi cho dự trữ Nhà nước. - Chi về văn hoá xã hội: chi cho các sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao,sự nghiệp khoa hoc, công nghệ và môi trường, cac sự nghiệp khác; chi cho các chương trình quốc gia; cho hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội; tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp. - Chi cho bộ máy Nhà nước: chi cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Hội đồng nhân dan và uỷ ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính các cấp, toà án và viẹn kiểm sát các cấp. - Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. - Chi trả nợ nước ngoài. - Chi viện trợ nước ngaòi. - Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính. - Chi khác. Theo tính chất kinh tế, chi NSNN được chia ra các nội dung sau đây. + Chi thường xuyên: Là những khoản chi không óc trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì "đời sống quốc gia". Về nguyên tắc, các khoản chi này phải được tài trợ bằng các khoản tiền không mang tính chất hoàn trả của NSNN. + Chi đầu tư phát triển: Là tất cả các chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Nhà nước hiện đại. Để đạt được sự phát triển, chính phủ phải hoạch định được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp và cần phải có vốn đầu tư của Nhà nước. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là những công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn và những công trình kinh tế mà không thể dựa vào đầu tư tư nhân, nhưng những hoạt động của chúng là cần thiết cho xã hội. 3. Tổ chức hệ thống và phân cấp ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước được quản lý và điều hành theo luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội Cộng hoà xã hội chu nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-3-1996. Ngân sách Nhà nước được quản lý và điều hành theo chế độ kế hoạch hoá thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Mọi sự thu chi của Ngân sách Nhà nước đều được thể hiện qua kế hoạch thống nhất từ trung ương đến sơ sở. Kế hoạch ngân sách do Quốc hội thông qua hàng năm. Thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước phù hợp với sự phân cấp hành chính. Theo đó ngân sách Nhà nước được chia làm bốn cấp: - Cấp trung ương; - Cấp tỉnh ( thành phố trực thuộc trung ương); - Cấp huyện ( quận ); - Cấp xã ( phường ). Tuy nhiên việc phan công, phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước là phân công, phân cấp quản lý theo nhiệm vụ, kế hoạch thu, chi ngân sách cho các cấp trên cơ sở chế độ thống nhất, kế hoạch thống nhất. Phân công phân cấp không phải là phân chia ngân sách. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước là xác định phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp ngan sách trong việc quản lý thu, chi từng cấp, thực hiện theo chức năng nhiệm vụ quản lý của Nhà nước ở từng cấp dựa trên cơ sở thống nhất về pháp luật, về chính sách, về kế hoạch kinh tế-xã hội nhằm bảo đảm thực hiện chính sách thu, chi ngân sách Nhà nước, sử dụng hợp lý các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, đề cao trách nhiệm và khuyến khích tính chủ động, sáng tạocủa chính quỳen địa phương trong việc quản lý chặt chẽ, tiết kiẹm và hiệu quả, nâng cao khả năng tạo vốn trong quá trình thực thi ngân sách Nhà nước. II. Thực trạng thu chi Ngân sách Nhà nước ta những năm gần đây: 1. Những thành tựu đã đạt được của hoạt đông ngân sách Nhà nước trong năm 2003: 1.1. Thành tựu: Kế hoạch tài chính 5 năm 2001-2005 đã thực hiện được một nửa, toàn ngành tài chính nói chung đã thu được những thành tựu đáng kể. Toàn ngành đã vượt qua nhiều khó khăn và thách thức, tiếp tục sự nghiệp đổi mới và đã đạt được một số kết quả có ý nghĩa quan trọng. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, tài chính có nhiều đổi mới, tiến bộ góp phần tạo môi trường và thị trường thuận lợi hơn để giải phóng sức sản xuất xã hội, cổ vũ cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tích cực thực hành tiết kiệm tăng tích luỹ cho đầu tư, tạo thêm nhiều việc làm để xoá đói, giảm nghèo, tăng thu nhập cho chính mình , cho gia đình mình và tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nhờ đó đã góp phần tạo động lực mạnh mẽ để nền kinh tế nước ta tiếp tục duy trì và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao ( bình quân 3 năm là 7,1% ), huy động thêm nhiều nguồn nội lực và ngoại lực để tăng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tê-xã hội, thúc đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết các vấn đề phát triển xã hội, cải cách tiền lương và đảm bảo an ninh quốc phòng. Đóng góp không nhỏ trong sự thành công ấy là những hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện một cách có hiệu quả. Năm 2003, dự toán thu ngân sách Nhà nước do ngành tài chính đảm nhiệm ước đạt 132.500 tỷ đồng; vượt 7,1% so với dự toán quốc hội giao; tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; đạt tỷ lệ động viên 21,7% GDP; trở thành năm thứ sáu liên tục thực hiện vượt thu. Nhờ nguồn thu NSNN tăng khá, nên không những đảm bảo chi theo dự toán dược giao mà còn tăng bổ sung nguồn ngân sách gần 10000 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Kết quả cụ thể là: - Về thu NSNN: Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 106,1% dự toán cả năm; đây là năm thứ sáu liên tục vượt dự toán do Quốc hội đề ra. Vượt thu không phải do có thêm thuế mới hay nâng thuế suất, tría lại một số khoản thu còn được miễn giảm như thuế sử dụng đất nông nghiệp, một số khoản phí và lệ phí khác, đặc biệt là thuế nhập khẩu. . . Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế đạt khá, công tác hành thu đã bám sát sự tăng lên của sản xuất kinh doanh, bám sát dự toán đề ra, rà soát để tìm các khoản thu, đặc biệt là chống thất thoát thu có hiệu quả. Năm 2003 so với năm 2002, tổng thu ngân sách Nhà nước ước tăng 11,3%. Một số khoản thu lớn còn tăng với tốc độ cao hơn, như thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng tới 30%, thu từ công thuowng nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 28,5%, thu từ doanh nghiệp Nhà nước tăng 17,9%. . . Do tốc độ tăng thu đạt khá, nên tỷ lệ giữa tổng thu ngân sách so với GDP vẫn đạt khonảg 21,9%, tuy chưa bằng tỷ lệ 22,2% của năm 2002, nhưng đã cao hơn tỷ lệ trong các năm trước đó ( năm 2001 đạt 21,6%, năm 2000 đạt 20,5%, năm 1999 đạt 19,6% . . . ). Điều đó chứng tỏ, một mặt đã tích cực tận thu, mặt khác vẫn thực hiện chính sách khoan thư sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu- một chủ trương có tính chiến lược về thu, chi ngân sách Nhà nước. Cơ cấu thu ngân sách đã có những chuyển biến tích cực hơn các năm trước, ngày càng phù hợp với độ mở cửa ngày một tăng lên của nền kinh tế, phản ánh trực tiếp hơn hiệu quả của kinh tế trong nước và sẽ không bị hụt hẫng khi thực hiện cam kết theo hiệp định đã kí với khu vực ASEAN, với Mỹ, cũng như chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ). Theo ước tính ban đầu, tỷ trong các khoản thu từ hàng nhập khẩu, thu từ dầu thô. . . những khoản thu không trực tiếp phản ánh hiệu quả sản xuất ở trong nước và ảnh hưởng đến người tiêu dùng đã giảm từ 49,5% trong các năm 2001,2002 xuống còn 47,9% trong năm 2003. Trong đó tỷ trọng thu từ dầu thô đã giảm xuống từ 25,9% trong năm 2000, 25,5% trong năm 2001, 21,6% trong năm 2002 và ước còn 20,5% trong năm 2003; điều này phản ánh nguồn thu từ việc xuất khẩu tài nguyên ngày một giảm, trong khi tổng thu tăng 11,3% thì thu từ dầu thô chỉ tăng 1,6%. Thu từ xuất nhập khẩu chỉ tăng 10,4% cũng thấp hơn tốc độ tăng của tổng thu.. Tỷ trọng trong tổng th của nội địa những khoản thu phản ánh trực tiếp hiệu quả sản xuất trong nước đã tăng từ 50,5% trong các năm 2001,2002 lên 52,8% trong năm 2003. Tất cả những điều này phản ánh cơ cấu thu ngân sách ngày càng có những thay đổi tích cực. Cơ cấu thu ngân sách đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực: Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN đã tăng từ 50,7% năm 2001 lên 52,6% năm 2003; thu từ hoạt động xuất nhập khảu, từ dầu thô giảm từ 47,4% năm 2001 xuống 45,9% năm 2003. Đến năm 2003 đã có 26 tỉnh, thành phố có quy mô thu NSNN trên địa bàn đạt mức trên 500 tỷ đồng. Đặc biệt, năm qua Bộ tài chính đã tiến hành phát hành công trái giáo dục trên địa bàn toàn quốc với tổng số tiền thu được là 2.580 tỷ đồng. Đây là lân đầu tiên nước ta phát hành công trái giáo dục nhằm huy đông vốn để hhõ trợ các tỉnh miền núi, Tây nguyên và các tỉnh khó khăn. Ngày 15/10/2003, phát hành trái phiéu Chính phủ đợt I/2003, nhằm huy động sự đóng góp của toàn dân để đầu tư, xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi quan trọng của đất nước . Đây là một chủ trương lớn và dài hạn của Đảng và Nhà nước trong việc huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. -Về chi NSNN: Chi ngân sách Nhà nước cũng đạt kết quả tích cực tren cả hai mặt. Một mặt, nhờ thu vượt dự toán 7,1% mà chi ngân sách cũng đã vượt 6,1% so với dự toán được duyệt và tỷ lệ vượt dự toán của tổng chi thấp hơn tổng thu nên đã tăng tính chủ động, rỉ ro, tăng kết dư, giảm bội chi. Mặt khác, năm 2003 so với năm 2002, tổng chi tăng 14,1%, cao hơn tốc độ tăng 11,3% của tổng thu, phù hợp với chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng của chính phủ. Chi ngân sách cho đầu tư phát triên đạt 106,85 dự toán và tăng 6,7% so với năm 2002, đều cao hơn các chỉ số của chi thường xuyên ( tương ứng đạt 104,9% và tăng 4,9% ); chi cho đầu tư phát triển chiếm khoảng 28% tổng chi, chưa kể công trái, trái phiếu mới huy động để đầu tư. Một số khoản chi lớn và quan trọng trong chi thường xuyên đã đạt khá so với dự toán và tăng khá so với năm 2002; chi cho thể dục thể thao đạt 232,7% tăng tới 60,7%; chi cho giáo dục và đào tạo đạt 102,8% và tăng 12%; chi cho y tế đạt 106,5% và tăng 12,3%; chi cho sự nghiệp kinh tế đạt 103,9% và tăng 5,7%. Có thể nói, nguồn lực tà chính Nhà nước đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết những vấn đề bức xúc của nền kinh tế và xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0811.doc
Tài liệu liên quan