Qua bức tranh đói nghèo trên của thế giới, ta có thể khẳng định rằng
nghèo đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức xúc
hiện nay. Báo cáo của Liên hiệp quốc cho rằng, tình trạng đói nghèo trên thế
giới, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự khai phá đến kiệt quệ tài
nguyên thiên nhiên, chiến tranh, bùng nổ dân số, phân phối không công bằng
trong xã hội, do các như cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn
nước, vệ sinh.) do quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách
xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý là trở ngại lớn trên con đường đi lên của các
đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng
nhất đối với Liên hiệp quốc.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 20105 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghèo đói ở Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/2 mức
trung bình đầu người).
III. Việc làm 5. Tỷ lệ số người lao động thiếu việc làm (trên 3 tháng/năm)
trong tổng số lao động.
6. Tỷ lệ lao động làm trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp
và phi nông nghiệp.
IV. Sức khoẻ 7. Tỷ lệ trẻ em 1-5 tuổi suy dinh dưỡng thể thiếu cân (dưới
80% trọng lượng cần có của độ tuổi).
8. Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
9. Có hay không trạm y tế xã
10. Số nhân viên y tế (cả công, tư cả y và dược) tính trên
1000 dân.
V. Giáo dục 11. Tỷ lệ người lớn mù chữ
12. Tỷ lệ trẻ em 6-10 tuổi không đi học
13. Số giáo viên hoạt động trên địa bàn tính trên 1000 dân
VI. Nhà ở vệ
sinh
14. Tỷ lệ hộ gia đình ở lều lán và nhà tạm bợ trong tổng số
hộ
15. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch (giếng, ống dẫn nước sạch)
VII: Văn hoá và
giao tiếp
16. Tỷ lệ hộ có nhà tắm
17. Tỷ lệ hộ có nhà xí hợp vệ sinh
18. Số Kw/h điện tiêu dùng tính trên đầu người/tháng
19. Có hay không có công trình văn hoá quan trọng (nhà văn
hoá, thư viện, loa truyền thanh)
20. Có hay không có chợ.
21. Số máy điện thoại tính trên 1000 dân
VIII. Sự tham
gia của nhân dân
vào các hoạt
động xã hội.
22. Tỷ lệ số thành viên các tổ chức chính trị, xã hội (Đảng,
Đoàn thanh niên, phụ nữ, mặt trận tổ quốc, các hội nghề
nghiệp) trên 1000 dân.
IX. Đời sống và
địa vị của phụ
nữ
23. Tỷ lệ phụ nữ có thai suy dinh dưỡng
24. Số phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà
nước và đoàn thể xã hội tại địa phương trên 1000 phụ nữ.
Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức nghèo ở nông
thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 38.
Những chỉ tiêu về mức thu nhập ở cấp cộng đồng (làng xã) là phản ánh
mức độ đáp ứng những nhu cầu cơ bản về hàng hoá và dịch vụ công cộng, cả
trong tiêu dùng vật chất lẫn hưởng thụ văn hoá tinh thần.
Nhìn chung hiện nay nước ta dùng hệ thống chỉ tiêu này để đánh giá
nghèo cấp cộng đồng là tương đối hợp lý. Tuy nhiên nó vẫn còn có mặt hạn
chế, chưa nêu bật được chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người để đánh giá về
nghèo. Mặt khác, sau những trận bão khủng khiếp cuối những năm 90 ở Nam
Bộ, nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về nhà ở kiên cố, người ta xây dựng
nhà nổi để sống chung với lũ. Hoặc hiện nay nhu cầu về gạo đang có xu
hướng giảm, và cũng có thể rất nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về màn
nếu họ ở nhà lầu với máy điều hoà nhiệt độ... Những hộ như thế chưa chắc đã
thuộc diện nghèo đói.1.3. Bức tranh nghèo đói toàn cầu
Trong thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo và cải thiện phúc lợi ở các nước đang phát
triển, tuổi thọ bình quân đã tăng 20 năm, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và tỷ lệ sinh
giảm hơn một nửa. Năm 1965 đến năm 1998, thu nhập trung bình tăng hơn
hai lần ở các nước này và riêng trong giai đoạn 1990-1998, số người trong
cảnh cùng cực đã giảm được 78 triệu người. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XXI
nghèo đói vẫn còn là vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của WB, trong
số 6 tỷ người của thế giới thì có đến 2,8 tỷ người sống dưới mức 2USD/ngày
và 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày. Mức độ nghèo đói của toàn thế
giới là rất lớn. Xét theo từng khu vực mức độ này có khác nhau nhưng vẫn nói
lê tính nghiêm trọng của tình hình nghèo đói của từng khu vực cũng như toàn
thế giới. Số liệu thống kê của LHQ năm 1998 cho thấy: Tại Nam á, có 560
triệu người nghèo (chiếm một nửa tổng số người nghèo trên thế giới). 600
triệu dân đang suy dinh dưỡng, 250 triệu người không được sống trong những
điều kiện vệ sinh cơ bản. Có 1/3 trẻ sơ sinh thiếu cân, 80% số phụ nữ mang
thai lại thiếu máu, 1,8 triệu trẻ em không được tới trường học. Lực lượng trẻ
em phải lao động kiếm sống rất cao. Ví dụ, ở ấn Độ có khoảng từ 14 đến 100
triệu trẻ em phải lao động. Đông á là khu vực có GDP tính trên đầu người
tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy vậy, khu vực này vẫn có 170
triệu người nghèo khổ. Tại miền Nam Châu Phi - Xahara có 215 triệu người
nghèo, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi tới trường không được đi học. Hàng năm
có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. Tại các nước ả Rập, từ năm 1960
đến năm 1993, thu nhập thực tế là 3%/năm, nhưng hiện nay vẫn còn 73 triệu
người nghèo, 60 triệu người mù chữ. Tại Mĩ la tinh và vùng Caribê, 150 triệu
người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống. Tại các nước nông
nghiệp phát triển, GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vãn có hơn 100
triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu người
nghèo không có việc làm.
Qua những số liệu trên, ta thấy nghèo đói toàn cầu vẫn đang là vấn đề
mang tính bức xúc. Điều này còn được thể hiện ở sự bất bình đẳng cao trên
thế giới, theo số liệu của WB, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp
37 lần mức thu nhập trung bình của 20 nước nghèo nhất (khoảng cách này đã
tăng gâp đôi trong vòng 40 năm qua). Nếu phân chia toàn bộ dân số thế giới,
và chiếm một lượng của cải vật chất và trình độ tương ứng với mỗi nhóm thì ta
có thể thấy: 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2%
thương mại thế giới; 85,0% tích luỹ; 85,0% đầu tư trong khi đó 20% dân số
nghèo nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là 1,46%; 0,9%; 0,7% và 0,9%. Rõ
ràng là một nhóm người thì có tất cả còn nhóm kia coi như không có gì.
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, hiện nay, loài người thực tế đã sản xuất
đủ lương thực, thực phẩm để nuôi sống toàn bộ hành tinh, nếu tính lượng
Kcalo bình quân đầu người. Nhưng vấn đề lại là ở việc phân phối chúng như
thế nào. 20% dân số giàu nhất tiêu dùng 87-90% giá trị sản phẩm của toàn thế
giới, 6% số người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40% sản phẩm của thế giới. Do
vậy, nghèo đói, bệnh tật và suy dinh dưỡng có thể coi là điều tất yếu với nhóm
dân số nghèo.
Sự bất bình đẳng cao còn thể hiện giữa các giới, tỷ lệ người nghèo đói
trong giới phụ nữ vẫn trầm trọng hơn nam giới. Phụ nữ chiếm 60% lực lượng
lao động trên thế giới nhưng họ chỉ hưởng 10% thu nhập và sử dụng chưa đầy
1% ruộng đất của thế giới, chiếm 1/6 trong số 6 tỷ người của thế giới hiện
đang thiếu dinh dưỡng. Có từ 20-40% phụ nữ ở các nước đang phát triển
không thể có chế độ ăn phù hợp, 350 triệu phụ nữ không được hưởng dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cần thiết. Riêng khu vực Nam á, được đánh giá là
nơi có sự phân hoá giàu nghèo chậm hơn cả, thì vẫn còn tới 80% số phụ nữ
mang thai bị thiếu máu, số người thiếu dinh dưỡng lên tới 841 triệu(1).
Qua bức tranh đói nghèo trên của thế giới, ta có thể khẳng định rằng
nghèo đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức xúc
hiện nay. Báo cáo của Liên hiệp quốc cho rằng, tình trạng đói nghèo trên thế
giới, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự khai phá đến kiệt quệ tài
nguyên thiên nhiên, chiến tranh, bùng nổ dân số, phân phối không công bằng
trong xã hội, do các như cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn
nước, vệ sinh...) do quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách
xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý là trở ngại lớn trên con đường đi lên của các
đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng
nhất đối với Liên hiệp quốc.
Đói nghèo còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng tội phạm, bạo
lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế - xã hội
nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng
của xung đột. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá đói nghèo đói đã trở thành tiêu
(1) Xem báo Nhân dân, 9/1/1996
điểm chú ý của toàn nhân loại, trở thành mục tiêu và nhiệm vụ nặng nề của
các tổ chức phi chính phủ và các chính phủ trên thế giới. Tất cả đã và đang áp
dụng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng nghèo đói trên hành tinh
chúng ta.
Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam
2.1. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
Nghèo đói đang là một trong những vấn đề bức xúc ở Việt Nam cũng như
nhiều nước trên thế giới, đòi hỏi nhà nước và xã hội cần đặc biệt quan tâm.
Sau 15 năm đổi mới xây dựng kinh tế theo hướng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển, Việt Nam đã và đang thu được những kết quả đáng khích lệ,
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bộ mặt nông thôn có những thay đổi lớn. Một
bộ phận nghèo đói không biết cách làm ăn nhờ sự giúp đỡ của cồng đồng nay
đã thoát khỏi cảnh nghèo. Phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục... từng bước được cải
thiện và phát triển đảm bảo nhu cầu ngày càng tốt hơn của xã hội, đặc biệt là
nhóm người nghèo đã có sự thay đổi rất lớn. Theo báo cáo của WB trong cuộc
toạ đàm về chuẩn nghèo đói ở Việt Nam, tổ chức tại Hà Nội, 15-16/2/2000 thì
tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam năm 1993 là 58,1% giảm xuóng 34,4% năm 1998
và hiện nay còn khoảng 30%. Theo Bộ LĐTBXH thì tỷ lệ nghèo đói của Việt
Nam là 26,0% năm 1993 giảm xuống 15,7% năm 1998 và hiện nay còn
khoảng 11%. Qua các số liệu thống kê trên ta thấy, dù đánh giá tỷ lệ nghèo
đói của Việt Nam bằng phương pháp nào thì Việt Nam vẫn có tốc độ giảm
nghèo rất nhanh, đã từng được cộng đồng quốc đánh giá có một trong những
nước có, tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, xét trên tổng thể,
Việt Nam vẫn là một nước nghèo, phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa
các thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng
gia tăng và gay gắt. Trong báo cáo chính trị tại đại hội VIII Đảng cộng sản
Việt Nam cũng đã chỉ rõ: “Đến nay nước ta vẫn là một trong những nước
nghèo nhất trên thế giới, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần
nhiều, việc làm là vấn đề đặt ra hết sức gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và
kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn”.
• So sánh nghèo đói theo vùng
Bảng 2.1. Diễn biến nghèo đói theo vùng ở Việt Nam
Vùng 1996 1997 1998
Số hộ nghèo
đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ Số hộ
nghèo đói
Tỷ lệ
1. Miền núi và Trung
du Bắc bộ
695.503 27,24 638.400 25,32 570.445 22,89
2. Đồng bằng sông
Hồng
330.519 11,01 302.460 9,81 272.160 8,38
3. Bắc Trung bộ 609.372 30,80 544.926 27,84 500.225 24,62
4. Duyên hải miền
Trung
413.660 23,14 358.260 22,44 291.815 17,8
5. Tây Nguyên 188.876 29,45 180.400 27,84 172.915 25,65
6. Đông Nam Bộ 116.728 6,17 103.900 5,50 91.400 4,75
7. Đồng bằng sông
Cửu Long
502.912 16,25 190.750 15,60 189.090 15,37
Cả nước 2.857.122 19,23 2.622.906 17,68 2.387.050 15,7
Nguồn: Nguyễn Hải Hữu “Nghèo đói ở Việt Nam. Chính sách và giải
pháp”. Hội thảo, toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp ở Việt Nam. Việc làm và
xoá đói giảm nghèo. Bộ LĐTB-XH, năm 1999.
Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các vùng cũng có sự khác biệt
đáng kể. Vùng Bắc Trung Bộ (24,62%) và vùng Tây Nguyên (25,65%) là hai
vùng có tỷ lệ nghèo đói cao nhất, vùng Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đói thấp
nhất 4,75%. ở đây có sự chênh lệch giữa các vùng có tỷ lệ nghèo đói cao với
vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp gần 5 lần. Đồng thời cũng dễ dàng nhận thấy
người nghèo tập trung nhiều nhất ở vùng trung du và miền núi phía Bắc
570.145 hộ chiếm 23,9%, tiếp đến vùng Bắc Trung Bộ có 500.225 hộ chiếm
20,9%, Đồng bằng sông Cửu Long có 489.050 hộ chiếm 20,51%, cả bốn vùng
còn lại chỉ chiếm 34,7%.
Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại
vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là
26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh
lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo
đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều
dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình 55,7%;
Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu 42,4%; Sơn La
40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần. Theo báo cáo
của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ
nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh Đông Nam Bộ 4
tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo
đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc
Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9 tỉnh. Một số
huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có tỷ lệ
hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.
Theo đánh giá cả nhóm công tác các chuyên gia chính phủ cho thấy 40%
người nghèo của Việt Nam sống tập trung tại ba khu vực: miền núi phía Bắc
28%; Đồng bằng sông Cửu Long là 21% và Bắc Trung Bộ là 18%. Như vậy sự
khác nhau về tỷ lệ nghèo ở các vùng, các tỉnh, thành phố cho thấy khả năng
bứt phá, vươn lên của các vùng, tỉnh, thành phố là khác nhau. Nơi nào có điều
kiện phát triển nhanh, nơi đó có tỷ lệ giảm nghèo nhanh.
• So sánh thu nhập bình quân đầu người tháng theo vùng ở Việt Nam
(tính theo giá hiện hành)
Đơn vị: 1000 đồng
Vùng 1994 1995 1996 Tỷ lệ hộ
nghèo 1996
Tỷ lệ hộ
giàu 1996
Cả nước 176,47 206,10 226,70 17,81 3,67
Miền núi và trung du Bắc Bộ 133,63 160,65 173,76 23,69 1,36
Đồng bằng sông Hồng 170,88 201,18 223,30 12,09 2,94
Bắc Trung bộ 135,02 160,21 174,05 23,31 1,42
Duyên hải miền Trung 154,96 176,03 194,66 16,37 1,63
Tây Nguyên 197,71 241,14 165,60 27,77 5,25
Đông Nam bộ 291,85 338,91 378,05 8,09 11,94
Đồng bằng sông Cửu Long 203,90 221,96 242,31 16,30 4,61
Nguồn: “Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói giảm
nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”.
Đề tài cấp Bộ Khoa học quản lý kinh tế, Học viện CTQG HCM, Hà Nội 1997,
trang 43.
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy 2 miền có thu nhập bình quân đầu
người thấp nhất là miền núi và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ cũng là nơi
có tỷ lệ nghèo đói cao và tỷ lệ hộ giàu thấp. Đông Nam bộ là vùng có thu nhập
bình quân đầu người cao nhất đồng thời cũng có tỷ lệ số hộ nghèo thấp nhất
và tỷ lệ số hộ giàu cao nhất. Tuy nhiên, không phải lúc nào thu nhập cũng tỷ
lệ thuận với mức giảm nghèo. ở đồng bằng sông Hồng, thu nhập đứng thứ 4
trong 7 vùng nhưng lại có tỷ lệ nghèo rất thấp, đứng thứ 2. Trong khi đó, Tây
Nguyên có mức thu nhập bình quân đứng thứ 2 nhưng lại có tỷ lệ nghèo đói
cao nhất trong 7 vùng. Như vậy, có sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm
dân cư trong 1 vùng.
• Chênh lệch thu nhập giữa các vùng và các nhóm dân cư.
Bảng 2.3. Thu nhập năm theo giá so sánh bình quân đầu người theo
nhóm hộ và theo vùng kinh tế
Đơn vị: 1000đ
Khu vực VùngChung
Thành thị Nông thôn Miền núi
và trung
du Bắc Bộ
ĐB Sông
Hồng
Bắc Trung
Bộ
Duyên hải
miền
Trung
Tây
Nguyên
Đông
Nam bộ
ĐB sông
Cửu Long
Tổng cộng
chung
Phân theo
nhóm hộ*
3146 7142 2188 2133 3189 2377 2619 2590 6004 2915
1 806 926 804 733 833 863 868 718 628 745
2 1489 1550 1487 1465 1512 1481 1494 1498 1506 1487
3 2177 2235 2173 2184 2190 2165 2180 2131 2218 2151
4 3272 3360 3257 3258 3234 3257 3200 3265 3382 3280
5 7914 9617 6625 6596 8282 6716 6436 7248 9351 6839
Nhóm 5 so
với nhóm 1
(lần)
9,9 10,39 8,24 8,11 9,94 7,79 7,12 10,09 14,89 9,18
Nguồn: TCTK - VLSS - 1998
* Phụ lục 2
Xét theo giá tại thời điểm điều tra, mức thu nhập của nhóm hộ 5 (nhóm
hộ giàu) nhiều gấp 6,73 lần so với nhóm hộ 1 (nhóm hộ nghèo). Tuy nhiên
nếu xét theo giá so sánh thì thấy mức thu nhập của nhóm 5 chung các vùng
lớn gấp 9,9 lần so với nhóm hộ 1. Theo các vùng kinh tế, vùng 1 là 8,11 lần;
vùng 2 là 9,91 lần; vùng 3 là 7,79 lần; vùng 4 là 7,42 lần; vùng 5 là 10,09 lần;
đặc biệt vùng 6 Đông Nam Bộ - có sự chênh lệch rất cao 14,89 lần; và vùng 7
là 9,18 lần. ở khu vực nông thôn là 8,21 lần và và ở khu vực thành thị là
10,39 lần.
Nhìn chung, sự phân tầng thu nhập giữa các nhóm hộ trong vùng với giữa
các vùng, giữa các khu vực có sự chênh lệch lớn so với các giai đoạn trước.
Bảng 2.4- Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Nhóm 1994
(1000đ)
1995
(1000đ)
1996
(1000đ)
1995 so
với 1994
(%)
1996 so
với 1995
(%)
Nhóm 1 63,0 734,3 78,6 117,9 105,8
Nhóm 2 99,0 121,7 134,9 126,0 108,9
Nhóm 3 133,2 166,7 184,4 125,2 110,6
Nhóm 4 185,0 227,6 250,2 122,4 109,9
Nhóm 5 408,5 519,6 574,7 127,2 110,6
Nguồn: Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa “Kinh tế thị trường và sự phân
hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” NXB
CTQG, 1998.
Theo bảng trên ta thấy, thu nhập bình quân đầu người/tháng của các
nhóm đều tăng lên nhưng nhóm 1 tăng chậm nhất. Làm cho khoảng cách về
thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày nay càng lớn tăng 5,8% hay 1,5 nghìn
đồng, nhóm 5 tăng 10,0% hay 55,7 nghìn đồng. Qua phân tích trên ta thấy khả
năng vươn lên để thoát ra khỏi sự tình trạng nghèo đói của nhóm 1 là rất khó
khăn, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ rất lớn của Đảng, Nhà nước và cộng đồng.
• So sánh nghèo đói theo khu vực thành thị - nông thôn
Bảng 2.5 - Tỷ lệ nghèo ở thành thị và nông thôn
Đơn vị: %
Cả nước Thành thị Nông thôn
1993 1998 1993 1998 1993 1998
Tỷ lệ nghèo LTTP 24,9 15,0 7,9 2,3 29,1 18,3
Tỷ lệ nghèo chung* 58,1 37,4 25,1 9,0 66,4 44,9
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói (WB)
ở Việt Nam, nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện
nay số người nghèo sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong
đó 45% sống ở dưới ngưỡng nghèo (theo WB) Việt Nam, tấn công nghèo đói).
Do thu nhập thấp, tăng trưởng kinh tế chậm nên chi tiêu thực tế của
người dân cũng tăng chậm. Ta có thể thấy điều này qua bảng sau.
• So sánh tăng trưởng chỉ tiêu theo vùng
Bảng 2.6- Tăng trưởng chi tiêu bình quân đầu người ở nông thôn và thành
thị (1993-1998)
Tăng trưởng chi
tiêu ở thành thị
(%)
Tăng trưởng chi
tiêu ở nông thôn
(%)
Chênh lệch
thành thị nông
thôn (%)
Chung cả nước 60,5 30,4 30,1
- Miền núi phía Bắc 65,8 26,9 38,9
- Đồng bằng sông Hồng 47,2 51,4 -4,2
- Bắc Trung bộ 86,4 37,2 49,2
- Duyên hải miền Trung 39,1 25,5 13,6
- Tây nguyên 24,8 -
- Đông Nam Bộ 78,1 59,1 19,0
- Đồng bằng sông Cửu Long 35,7 10,6 25,1
Nguồn: Việt Nam - Tấn công nghèo đói 12/1999. Ước tính của WB - dựa
vào số liệu VLSS93 và VLSS98.
Qua bảng trên có thể thấy tăng trưởng chi tiêu ở vùng nông thôn là tương
đối thấp (trừ đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ) Duyên Hải miền Trung
và Đồng bằng sông Cửu Long có mức tăng trưởng chi tiêu ở thành thị và cả ở
* Tỷ lệ nghèo chung bằng tỷ lệ nghèo LTTP + Tỷ lệ nghèo phi lương thực
nông thôn là thấp nhất. Chênh lệch thành thị và nông thôn ở Bắc Trung Bộ cao
nhất là 49,2%, ở đồng bằng sông Hồng thấp nhất -4,2%.
Mức tăng chi tiêu thể hiện chất lượng cuộc sống được cải thiện ở mức
nào chênh lệch giữa thành thị và nông thôn thể hiện khoảng cách chênh lệch
mức cải thiện đời sống giữa hai khu vực. Qua bảng trên ta thấy khoảng cách
này có nơi tương đối lớn thể hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa 2 khu vực tăng.
Tóm lại, qua những phân tích ta thấy tỷ lệ các hộ nghèo đói trong cả
nước đã giảm nhưng vẫn ở mức cao 11%. Riêng ở nông thôn còn khoảng
20,87% hộ nghèo với khoảng 10 tiệu nông dân nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo
giữa nông thôn, thành thị, giữa các vùng là tương đối phổ biến và có xu hướng
ngày càng tăng thu nhập bình quân của các nhóm dân cư tăng nhưng nhóm 2
tăng chưa đáng kể, cuộc sống của người dân nghèo đã được cải thiện nhưng
chưa nhiều. Ngưỡng nghèo của Việt Nam nói chung vẫn xa so với ngưỡng
nghèo của thế giới.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo
Để đánh giá được tình trạng đói nghèo ở nước ta, trước tiên cần phải tìm
hiểu các nhân tố tác động đến vấn đề nghèo đói. Có rất nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến nghèo đói, nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên
tai, địch hoạ gây ra. Mà tình trạng đói nghèo ở nước ta có sự đan xen của cái
tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực
tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự nhiên lẫn kinh tế - xã hội. Do đó cần
phải đánh giá đúng nguyên nhân, mức độ của từng nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói đối với từng đối tượng cụ thể.
2.2.1. Nhóm nguyên tố thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
• Vị trí địa lý không thuận lợi ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình phức
tạp (miền núi, hải đảo vùng sâu), không có đường giao thông. Đây cũng chính
là một nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các vùng và địa
phương ở vào vị trí địa lý này. Do điều kiện địa lý như vậy, họ dễ rơi vào thế
bị cô lập, tách biệt với bên ngoài, khó tiếp cận được các nguồn lực của phát
triển, như tín dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường... làm cho cuộc
sống của họ lạc hậu, khó phát triển, kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc là những
nhân tố khách quan tác động mạnh mẽ đến vấn đề nghèo đói.
• Đất canh tác ít, đất cằn cỗi, ít mầu mỡ, canh tác khó, năng suất cây
trồng vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản xuất trong nông
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, làm cho thu nhập của người nông dân thấp,
việc tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc hầu như không có. Theo
các kết quả điều tra, đánh giá đói nghèo có sự tham gia của người dân thì
thiếu đất canh tác hay đất đai khó làm ăn cũng là nguyên nhân đáng kể dẫn
đến cảnh túng thiếu, đói ăn, đứt bữa của người dân đặc biệt là đối với các hộ
nghèo đói ở vùng núi. Hiện nay vấn đề thiếu đất sản xuất lương thực ở nước ta
(đặc biệt là đất lúa) ngày càng mang tính trầm trọng. Nguyên nhân này là do
dân số ngày càng đông nhưng đất nông nghiệp thì ngày càng bị thu hẹp làm
cho rất nhiều hộ nông dân không đủ tiềm lực để phát triển. Hiện nay nhiều nơi
ở vùng biển không có hoặc có không đáng kể đất trồng lúa, đây là nhân tố tác
động trực tiếp đến các hộ nghèo, có thể được coi là một trong những nhân tố
cơ bản làm cho những hộ này triền miên bị đói. Nhưng việc xoá đói không
phải bằng cách cấp đất sản xuất lương thực mà phải kết hợp nhiều biện pháp
khác. Đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với các cấp lãnh đạo trong việc lựa
chọn các giải pháp thích họp giúp họ xoá đói, tức là phải làm gì để giúp họ có
thu nhập thì họ mới có khả năng tiếp cận được lương thực, thực phẩm.
• Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra đặc
biệt là bão, lut, hạn hán, cháy rừng, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời
sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn bão, lụt một năm, lại thêm hạn hán,
mưa đá, cháy rừng, những cơn lốc xảy ra thường xuyên ở nhiều vùng đã là
nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2 triệu người thiếu đói hàng năm. Tác
hại của bão lụt, hạn hán là rất lớn, nó luôn là kẻ thù đồng hành với những
người nghèo đói, nó có thể cướp đi cả tính mạng sống và tiền của con người.
Rất nhiều vùng và tỉnh đang trù phú nhưng chỉ sau một trận thiên tai gây ra
như lụt bão thì hàng nghìn hộ lại rơi vào cảnh thiếu đói, các công trình công
cộng, các cơ sở sản xuất và hạ tầng bị phá hỏng. Điển hình là trận lũ xảy ra
vào tháng 11 và tháng 12 năm 1999 ở các tỉnh miền Trung đã gây ra những
tổn thất to lớn về người và tài sản cho 7 triệu dân ở 7 tỉnh phá huỷ nhiều cơ sở
hạ tầng ở vungf này, ước tính thiệt hại do lũ lụt gây ra trên 3000 tỷ đồng, tác
độg trực tiếp đến đời sống vốn đã cơ hàn của người dân. Hậu quả của bão lụt
để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc lát mà phải trải qua
nhiều năm. Hiện nay hạnhán, thiếu nước, cháy rừng cũng được xem là vấn đề
nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của người dân. Trong
cuối tháng 3 đầu tháng 4 vừa qua hạn hán xảy ra ở nhiều nơi tàn phá nhiều cây
lương thực và hoa màu. ở Đắc Lắc ước tính mỗi ngày có đến 250-300 ha bị
thiệt hại do hạn hán gây ra. ở tỉnh Kiên Giang ảnh hưởng của diện cháy rừng
là rất lớn hơn 4000 ha rừng U Minh Thượng bị tàn phá ảnh hưởng trực tiếp
đến 2700 hộ đói xung quanh vốn đã cơ cực, túng thiếu. Thêm vào đó tình
trạng thiếu nước sinh hoạt, thiếu nước tưới tiêu cũng là vấn đề rất khó khăn mà
những người dân nghèo gặp phải (hiện nay giá nước ở một số nơi lêntới trên
3000 đồng/1km với tình hình hiện nay, hiện tượng hạn hán, thiếu nước kéo
dài, cháy rừng xảy ra liên miên (như rừng Tràm, rừng U Minh Thượng, rừng
quốc gia Cà Mau) đang là vấn đề đặt ra rất cấp bách đối với các cấp chính
quyền là phải làm gì để cải thiện tình hình tốt hơn.
• Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng thấp kém nhưng
không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không đầy đủ
cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Mặc dù
trong những năm gần đây chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư xây
dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, tuy nhiên cho
đến nay vẫn còn nhiều nơi xa. Đây là những nơi còn tiềm ẩn nhiều dấu hiệu
của đói nghèo lạc hậu. Những hộ ở đây không phải ai cũng được sử dụng điện.
Hệ thống tưới tiêu còn hạn chế, rất nhiều nơi chưa có trạm bơm. Việc tiếp cận
với nước sạch (nước máy) gần như không có, ngay cả nước giếng vẫn còn hạn
hẹp, rất nhiều hộ còn đang dùng nước sông, suối, nước mưa...
Trong sản xuất trồng trọt, khó khăn lớn nhất là hệ thống kênh mương
chưa phát triển nên không đủ nước tưới cho câ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghèo đói ở Việt Nam ,Thực trạng nguyên nhân và giải pháp.pdf