Đề tài Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu BHXH và chống thất thu BHXH Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Lời mở đầu 3

CHƯƠNG I: Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội 6

I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 6

1) Khái niệm về BHXH 6

2) Các loại hình BHXH 8

II. Quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH 14

1) Quản lý thu BHXH 14

2) Nội dung của quản lý thu BHXH 16

a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH 16

b) Nội dung quản lý Thu BHXH 17

3) Chống thất thu BHXH. 21

CHƯƠNG II: Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. 24

I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 24

1) Khái quát BHXH Tuyên Quang 24 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên Quang 31 3) Tình hình thất thu của BHXH Tuyên Quang. 36

II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 42 1) quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. 42 2) Đánh giá quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 46

CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 52

I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. 52

II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH. 53

1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH. 53

2) Có chương trình qui hoạch đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 54

3) Mở rộng nguồn thu BHXH. 54

4) Tăng cường công tác tuyên truyền về Luật BHXH 58 5) Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quĩ BHXH. 56

6) Bảo tồn và tăng trưởng quĩ BHXH 59 7) Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu. 60

8) Cải cách thủ tục hành chính 60

Kết luận 61

Tài liệu tham khảo 62

 

 

doc64 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu BHXH và chống thất thu BHXH Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội Tỉnh Tuyên Quang tiến hành tiếp nhận bàn giao và tiếp nhận các cán bộ viên chức từ hai ngành Sở Lao động Thương binh - xã hội và Liên đoàn Lao động Tỉnh. Một hệ thống làm công tác bảo hiểm xã hội từ Tỉnh đến huyện được thành lập, chuyên trách quản lý quỹ và thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang được thành lập và đi vào hoạt động cơ sở vật chất nơi làm việc gặp nhiều khó khăn, trụ sở làm việc là nhà làm việc của sở Lao động thương binh và xã hội, đã xuống cấp, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc như: Bàn làm việc, máy vi tính, phương tiện làm việc đều cũ nhận từ các đơn vị sang hoặc chưa có. Đến nay, được sự quan tâm của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh uỷ, Uỷ Ban nhân dân Tỉnh, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang đã được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc (hai nhà) mới khang trang nằm trên đường Tân Trào ngay giữa trung tâm Thị xã, Trụ sở BHXH huyện cũng đều được xây dựng với quy mô và diện tích tạm đủ phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại giao dịch các cơ quan và đối tượng đến làm việc, cơ sở vật chất được trang bị đầy đủ, hầu hết các phòng đều có đủ ánh sáng, máy vi tính, điện thoại phục vụ cho công việc được thuận tiện, bàn ghế được trang bị lại toàn bộ. Thực hiện Nghị định số 100/2002/NĐ - CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. BHXH Tỉnh lại tiếp tục nhận bàn giao cơ sở vật chất và Cán bộ từ Bảo hiểm y tế chuyển sang do vậy có nhiều biến động về tổ chức cán bộ; cũng như những năm đầu đội ngũ cán bộ, công chức của ngành với trình độ chuyên môn khác nhau, trong đó chủ yếu CBVC có trình độ trung cấp, chưa qua đào tạo cơ bản về các nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến công tác BHXH. Hơn mười năm xây dựng và phát triển, đến nay hầu hết cán bộ, công chức viên chức trong cơ quan đã được đào tạo đại học, được bồi dưỡng chuyên sâu về các nghiệp vụ liên quan trực tiếp đến công tác BHXH, BHYT, đáp ứng cơ bản được yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Trình độ chuyên môn và chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức toàn ngành như sau: Đại học 46 người; chiếm 37,4 %; Cao đẳng 12 người; chiếm 9,8 % Trung cấp 65 người; chiếm 52,8 %, trong đó đang học ĐH tại chức là 42 người. 70% cán bộ, công chức là Đảng viên Đảng ủy và Ban giám đốc, các đoàn thể thường xuyên quan tâm đến công tác cán bộ, đã thực hiện có hiệu quả công tác đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức, huấn chuyên môn nghiệp vụ , cử đi học các trường đại học đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao trong tình hình mới, hơn 10 năm đã có 55 cán bộ được đào tạo mới và đào tạo lại với phương châm vừa học vừa làm (đại học tại chức). người có trình độ chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm trong công tác hướng dân cho cán bộ mới hoặc thiếu kinh nghiệm Nhiệm vụ của BHXH tỉnh Tuyên Quang: Ngày 17/12/2002 Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1620/ 2002/QĐ-BHXH-TCCB về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương; BHXH Tỉnh Tuyên quang có Nhiệm vụ, quyền hạn sau: 1. Xây dựng chương trình, kế hoạch năm trình Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam phê duyệt và tổ chức thực hiện; 2 . Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội; cấp các loại sổ, thẻ Bảo hiểm xã hội; 3 . Tổ chức thực hiện thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện; 4 . Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội; 5. Tổ chức quản lý, lưu trữ hồ sơ các đối tượng Bảo hiểm xã hội ; 6 . Tổ chức hợp đồng với cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để phục vụ người có sổ Bảo hiểm xã hội, thẻ BHYT theo quy định; 7 . Tổ chức thực hiện công tác giám định chi khám, chữa bệnh tại cơ sở khám chữa bệnh, đảm bảo khám chữa bệnh và hướng dẫn nghiệp vụ giám định đối với Bảo hiểm xã hội cấp huyện 8 . Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội cho đối tượng đúng quy định. 9 . Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán, thống kê theo quy định của Nhà nước, của Bảo hiểm xã hội Việt Nam và hướng dẫn BHXH cấp huyện thực hiện. 10. Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu, chi Bảo hiểm xã hội đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động, cá nhân, cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; Kiến nghị với cơ quan pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan cấp trên của đơn vị sử dụng lao động hoặc cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về các chế độ Bảo hiểm xã hội. 11. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức và cá nhân theo thẩm quyền; 12. Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ Bảo hiểm xã hội trên địa bàn Tỉnh Tuyên Quang. 13. Tổ chức thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chế độ Bảo hiểm xã hội. 14 . Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động Bảo hiểm xã hội. 15. Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức, tài chính và tài sản thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh theo phân cấp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam; 16. Thực hiện chế độ báo cáo với BHXH Việt Nam và UBND tỉnh theo quy định. Chế độ quản lý của Giám đốc BHXH Tỉnh: BHXH tỉnh do Giám đốc quản lý, điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp Giám đốc có các Phó Giám đốc. Giám đốc và Phó giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh do Tổng Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyển, khen thưởng và kỷ luật. Cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang. + Phòng Tổ chức - Hành Chính; + Phòng Thu; + Phòng Bảo hiểm tự nguyện; + Phòng Kế hoạch - Tài Chính; + Phòng chế độ, chính sách; + Phòng Giám định chi; + Phòng Công nghệ thông tin; + Phòng Kiểm tra. Các phòng trực thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh có chức năng giúp Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao theo từng lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Tổng Giám đốc. Các phòng chịu sự quản quản lý, điều hành trực tiếp của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh và sự chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Phòng do Trưởng phòng quản lý và điều hành theo chế độ thủ trưởng. Giúp trưởng phòng có Phó trưởng phòng. Trưởng phòng, Phó trưởng phòng do Giám đốc Bảo hiểm xã hội Tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, miễn nhiệm, điều động, thuyên chuyên, khen thưởng, kỷ luật sau khi có ý kiến phê duyệt bằng văn bản của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam Thành lập 6 Bảo hiểm xã hội huyện thị để thực hiện chức năng nhiệm vụ bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện thị. Gồm có : 1. BHXH Thị xã Tuyên Quang 4 . BHXH huyện Hàm yên 2. BHXH huyện Yên Sơn 5. BHXH huyện Chiêm hoá 3. BHXH huyện Sơn Dương 6. BHXH huyện Nà Hang Hệ thống cơ cấu tổ chức Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH Phòng Tổ chức hành chính Phòng thu BHXH Phòng BH tự nguyện Phòng Công nghệ thông tin Phòng Kiểm tra Phòng Chế độ chính sách Phòng Giám định chi Phòng Kế hoạch tài chính BHXH Thị xã Tuyên Quang BHXH huyện Yên Sơn BHXH huyện Sơn Dương BHXH huyện Hàm Yên BHXH huyện Chiêm Hóa BHXH huyện Na Hang PHÓ GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH PHÓ GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên quang: BHXH tỉnh Tuyên Quang được thành lập và đảm bảo nhiệm vụ thực hiện các chế độ, chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước trên địa bàn tỉnh, có vị trí quan trọng về đời sống kinh tế xã hội và an ninh chính trị của địa phương, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh uỷ, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh, sự phối hợp của các ngành đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội. Thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TU của TW "về tăng cường lãnh đạo, thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội", Đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện các mặt công tác bảo hiểm xã hội ở địa phương. Thông báo số 62/TB-TU của văn phòng Tỉnh uỷ nêu những ý kiến chỉ đạo của thường vụ Tỉnh uỷ về công tác bảo hiểm xã hội, đã có tác dụng lớn để các cấp uỷ cơ sở chú trọng tập trung lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong việc thu, chi bảo hiểm xã hội. Đến nay đa số các đơn vị đã có những chuyển biến rõ nét về mặt nhận thức trong việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội. Tổ chức Bảo hiểm xã hội Tỉnh đã được ổn định và kiện toàn từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Các chế độ quản lý vận hành và hoạt động đã đi vào nền nếp như kế toán Bảo hiểm xã hội, quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội và xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội đồng thời luôn có sự quan tâm và chỉ đạo thường xuyên của Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong việc thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội đã chủ động xây dựng mối quan hệ với các ngành: Liên đoàn lao động Tỉnh, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở tài chính vật giá, Kho bạc Tỉnh, Sở y tế, Viện kiểm sát Nhân Dân, công an Tỉnh...Đã có sự phối hợp, tạo điều kiện để hệ thống bảo hiểm xã hội của địa phương thực hiện tốt công tác quản lý thu, chi đảm bảo đúng nguyên tắc, chặt chẽ về chế độ và tài chính bảo hiểm xã hội . Căn cứ vào các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý để cơ quan Bảo hiểm xã hội Tỉnh ra quyết định hưởng chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc "Có đóng BHXH mới được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội”. Từ nguyên tắc này đã làm thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động, là tiền đề hết sức quan trọng để đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về bảo hiểm xã hội và làm cho chính sách bảo hiểm xã hội của Đảng và Nhà Nước thực sự đi vào đời sống hàng ngày của người lao động, thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp cũng như hoạt động của các đơn vị hành chính sự nghiệp phát triển. Cán bộ công nhân viên chức Bảo hiểm xã hội được tuyển chọn có đầy đủ những phẩm chất của người cán bộ, năng động sáng tạo, đại đa số đã được đào tạo qua các trường, lớp và được đào tạo lại ngày một nâng cao về chuyên môn, nhận thức từ cơ quan hành chính chuyển sang làm công tác phục vụ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của ngành. Bên cạnh những thuận lợi đã trình bày ở trên Bảo hiểm xã hội Tỉnh Tuyên Quang cũng không tránh khỏi những khó khăn đó là: Hệ thống Bảo hiểm xã hội Tỉnh tiếp nhận cán bộ viên chức chủ yếu từ các ngành Liên đoàn lao động tỉnh và Sở lao động -Thương binh và xã hội, bảo hiểm y tế Tỉnh với trình độ không đồng đều. Số lượng cán bộ ít, cơ cấu tổ chức chưa kiện toàn, nhiệm vụ lớn nên chưa đủ sức bao quát, một số cán bộ mới còn thiếu kinh nghiệm thực tế , năng lực công tác về BHXH của một số cán bộ đơn vị còn hạn chế, bố trí làm công tác còn kiêm nhiệm, còn lúng túng trong tác nghiệp, mặt khác tinh thần trách nhiệm một số nhân viên cơ quan chưa thực sự yên tâm, nhiệt tình công việc nên chất lượng công việc chưa cao. Tuyên Quang là một Tỉnh miền núi, gồm có 5 huyện và 1 thị xã địa bàn rộng, dân cư thưa, các cơ quan đơn vị đóng xa nhau có nhiều xã xa trung tâm huyện lỵ, đường xá đi lại khó khăn. Toàn Tỉnh có 145 xã phường đều có các đối tượng tham gia BHXH, BHYT và các đối tượng nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, phần lớn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ sản xuất không ổn định, trong khi đó Nhận thức của một số chủ sử dụng lao động, người lao động về chính sách bảo hiểm xã hội chưa đầy đủ, hoặc quá lạm dụng , trong khi công tác tuyên truyền của ngành chưa sâu rộng, thường hay lặp đi lặp lại một nội dung, một hình thức, mặt khác do kinh phí có hạn ,vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả công tác thu. Các quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tuy đã được bổ sung sửa đổi nhưng chưa đồng bộ các chế tài áp dụng bắt buộc chưa đủ mạnh nên việc thực hiện có lúc còn vướng mắc. Có một số doanh nghiệp Nhà nước như các Doanh nghiệp chè, Công ty phát triển công nghiệp sản xuất theo thời vụ, theo thời gian dự án một vài đơn vị thuộc tổng công ty sông đà đang thi công trên công trường thủy điện Tuyên Quang công nhân chưa đủ việc làm hoặc di chuyển địa điểm làm việc, thu nhập không ổn định dẫn đến chậm trích nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động, số nợ của các doanh nghiệp này lên tới vài tỷ đồng làm ảnh hưởng đến thực hiện giải quyết các chế độ và quyền lợi của người lao động. Công tác thu BHXH: Đây là nhiệm vụ được xác định rất quan trọng của ngành mang tính quyết định đến việc hình thành, tồn tại, tăng trưởng, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội và là cơ sở tài chính để thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động. Do đó, Bảo hiểm xã hội Tỉnh đã đặc biệt quan tâm đến công tác này với phương châm: thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, đảm bảo chính xác. Khi ngành BHXH chưa thành lập công tác thu bảo hiểm xã hội do nhiều cơ quan đảm nhiệm, công tác quản lý qua nhiều đầu mối: Về thu quỹ 15% BHXH giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất do ngành lao đông Thương binh và xã hội quản lý thực hiện theo thông tư số 19/TT-LB ngày 07/3/1994 của liên bộ Tài chính Lao động TB & XH nhưng lại phân cấp thu : đối với khối hành chính sự nghiệp do Sở Tài chính trực tiếp thu, đối với khu vực sản xuất kinh doanh do cơ quan thuế trực tiếp thu. Về thu quỹ 5% BHXH để chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì lại do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý thực hiện theo thông tư số 05/TT LB ngày 12/01/1994 của Liên bộ Tài chính và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Nay được thống nhất đưa về một mối, một đơn vị quản lý đó là Bảo hiểm xã hội Việt nam. Thực hiện các điều của chương XII Bộ luật lao động về Bảo hiểm xã hội. Căn cứ điều 3 Điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ số 12/CP ngày 26/1/1995 (1995 - 2002), NĐ số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 v/v sửa đổi bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH (2003-2006) , từ ngày 01/01/2007 thực hiện Nghị số 152/2006/NĐ-CP thì đối tượng thu bảo hiểm xã hội gồm những đối tượng sau: Tại Điều 2: Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm: 1. Cán bộ công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức. 2. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn đủ từ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên. 3. Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. 4. Người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Tại Điều 3: Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm: 1. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo luật doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang. 2. Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước. 3. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác. 4. Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật. 5. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã. 6. Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. 7. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế h ạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Thực hiện thu BHYT và cấp thẻ BHYT cho các đối tượng theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998, Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội: Căn cứ Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ: Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp ( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH. Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Căn cứ Điều 45, Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ: 1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề ( nếu có). Tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. 2. Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động. 3. Trường hợp mức tiền lương , tiền công tháng quy định tại 2 điểm trên cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bằng 20 tháng mức lương tối thiểu chung. 3) Tình hình thất thu BHXH tại BHXH Tuyên quang: Các văn bản nhà nước, các Nghị định, Luật lao động về BHXH đã cụ thể và bổ sung các điều trong Điều lệ BHXH cụ thể là NĐ12/CP ngày 26/01/1995 Chính phủ mới chỉ quy định một số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Ngày 09/01/2003 chính phủ ra NĐ/01NĐ-CP đã sửa đổi bổ sung NĐ/12 /CP đối với đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc : Trong những năm qua nhất là khi có Nghị định số 01/NĐ-CP của Chính phủ, BHXH Tuyên Quang đã triển khai một cách tích cực, là một trong những BHXH trên cả nước có số lao động ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh các thể tham gia với số lượng lớn, đạt được những thành tựu đáng khích lệ, Khi thực hiện NĐ số 01/NĐ-CP trong đó có đối tượng là Hộ kinh doanh cá thể là đối tượng có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc; Nhưng từ thực tế cho thấy một số hộ do chưa nắm được trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia BHXH, hơn nữa đối tượng này thường tính toán thiệt hơn khi đến tuổi được hưởng chế độ hưu trí nhưng số năm tham gia BHXH lại chưa đủ năm theo Luật nên chưa tham gia BHXH, còn băn khoăn giữa các loại bảo hiểm với BHXH mặt khác cán bộ BHXH làm công tác thu BHXH thuộc các huyện thị còn mang tính chất đi vận động tham gia BHXH; một số hộ đã nắm được chế độ thì tham gia BHXH trước 1 tháng (trước khi sinh con), người nhà bị đau ốm, bệnh dài ngày để được hưởng chế độ nghỉ thai sản. Tuy nhiên công tác thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang vẫn còn những hạn chế làm cho công tác này chưa phát huy được hết vai trò của mình đối với quỹ BHXH những mặt hạn chế đó là: Các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể có tổng số lao động rất đông nhưng đăng ký tham gia BHXH còn ít với nhiều lý do khác nhau để chốn tránh trách nhiệm đóng BHXH, nguyên nhân do chủ sử dụng lao động chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của người lao động và nghĩa vụ đóng của góp của mình đối với người lao động bằng cách ký hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, thuê mướn lao động theo ngày, Tạm dừng hợp đồng lao động nếu có tham gia đóng BHXH thì chỉ đóng cho chính mình và người nhà mình hoặc cho những người đang cần được bảo hiểm xã hội giúp đỡ. Có nhiều đơn vị doanh nghiệp không muốn tham gia BHXH cho người lao động họ nhằm tận dụng nguồn kinh phí không phải bỏ ra cho người lao động để đầu tư lại cho sản xuất, chính vì lẽ đó mà họ luôn tìm cách né tránh đóng BHXH cho người lao động chẳng hạn như thuê lao động mang tính thời vụ kéo dài thời gian thử việc, trì hoãn hợp đồng người lao động cố tình trong việc ký hợp đồng lao động với người lao động họ lợi dụng, sự hiểu biết về BHXH của người lao động còn ít nhưng khi tuyển dụng lao động doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ đảm bảo quyền lợi cho họ bên cạnh đó cũng có số doanh nghiệp hiểu và muốn tham gia BHXH cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình sản xuất của họ gặp nhiều khó khăn do tình hình sản xuất kém vì vốn đầu tư ít làm ra không tiêu thụ được ngay sản phẩm không có ai đứng ra thu mua bao tiêu sản phẩm năng lực tài chính thấp không đủ trả lương cho người lao động theo đúng việc ký kết ban đầu mà chỉ trả được một phần nào đấy còn lại doanh nghiệp nợ lại người lao động trả dần trong năm do vậy họ không đủ khả năng đóng BHXH cho người lao động họ cũng biết mình vi phạm luật lao động về quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tham gia BHXH . Từ phía người lao động: phần lớn người lao động chưa nhận thức được hoặc nhận thức chưa đúng đắn về BHXH và không nắm rõ được về quyền lợi và nghĩa vụ đóng và lợi ích khi tham gia đóng BHXH và không muốm tham gia BHXH ngược lại có những người lao động hiểu về BHXH nhưng chủ doanh nghiệp không đóng BHXH cho họ và họ không dám đòi hỏi quyền lợi đóng cho mình vì sợ chủ doanh nghiệp cho nghỉ việc hoặc người sử dụng lao động cho tham gia BHXH một số lao động không muốn tham gia với lý do rất đơn giản mức thu nhập thấp nếu đóng thì không đủ chi tiêu trang trải hàng ngày. Về cơ chế chính sách: Nghị quyết về chính sách BHXH ở tỉnh Tuyên Quang chưa cụ thể hóa chỉ tiêu thu ở các đơn vị ngoài quốc doanh, hợp tác xã tổ hộ sản xuất kinh doanh mà mới chỉ là chung chung do vậy doanh nghiệp dựa vào đó trốn tránh đóng BHXH cho người lao động nếu đưa vào Nghị quyết là nếu doanh nghiệp nào không tham gia BHXH cho người lao động thì tạm đình chỉ sản xuất kinh doanh hoặc rút giấy phép kinh doanh nếu được như vậy thì sẽ đảm bảo được mọi quyền lợi cho người lao động Đối với người lao động tham gia BHXH được quy định rất rõ trong Luật lao động, các nghị định của Chính phủ về lai lịch nhân thân, quá trình công tác , quá trình tham gia BHXH, số tiền đóng BHXH theo từng mốc nâng lương cụ thể, trên thực tế một số đơn vị lập hồ sơ sai lệch với hồ sơ gốc, mức thời gian đóng bảo hiểm xã hội như chủ yếu của người lao động trước tháng 1/1995: quyết định hưởng một mức nhưng đóng bảo hiểm xã hội lại một mức (chủ yếu khai mức thấp hơn lương thực tế), quyết định điều động việc này nhưng xếp lương đóng bảo hiểm xã hội việc khác, nhất là việc doanh nghiệp tự chuyển xếp lương theo nghị định 26/CP chưa thực hiện đúng quy định. Việc quản lý hồ sơ của các doanh nghiệp bị thất lạc, hoặc thực hiện các thủ tục trong công tác tổ chức thiếu kế hoạch làm cho hồ sơ thiếu: các quyết định tuyển dụng, điều động, nâng lương... thậm chí mất hết cả hồ sơ lý lịch gốc hoặc tẩy xoá, thậm chí làm sai lệch so với hồ sơ gốc. Giám đốc doanh nghiệp thiếu quan tâm đến hồ sơ người lao động nên việc kiện toàn, rà soát hồ sơ còn có mức độ... đều làm ảnh hưởng đến việc xác nhận trên sổ bảo hiển xã hội để giải quyết chế độ cho người lao động. Do việc quản lý ở một số cơ quan doanh nghiệp chưa chặt chẽ, nhất là việc triển khai thực hiện Bộ luật lao động trong các doanh nghiệp nhà nước còn chậm nên một số doanh nghiệp đến nay việc lập danh sách và quản lý lao động có tham gia bảo hiểm xã hội chưa chính xác từ số lượng người đến mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội. Do vậy tình trạng kê khai thiếu người, khai giảm mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội từ các năm trước chưa được khắc phục. Những đơn vị xếp tiền lương, tiền công theo bảng lương quy định theo nghị định 26/CP v/v chuyển xếp lương theo hệ số thì bắt buộc đơn vị phải có danh sách chuyển xếp lương, có đơn vị cấp trên, cấp ký thành lập xác nhận thế nhưng đến nay vẫn có doanh nghiệp chưa nhìn nhận đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế quản lý mới, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa tham gia trích nộp quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng lại muốn người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội như cơ chế quản lý trước đây. Cá biệt có doanh nghiệp biết nợ là phải trích nộp nhưng cứ muốn giãn kéo để được miễn giảm như một số loại đóng góp khác, cũng có khi cố tình chiếm dụng để làm vốn lưu động để kinh doanh, những DN này quá trình giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí chưa thể giải quyết được bởi không xác định được mức đóng góp của từng người chỉ đến khi giải quyết chế độ cho người lao động đơn vị buộc phải đưa ra căn cứ xác định như vậy gây nhiều rắc rối, phức tạp cho công tác thẩm định hồ sơ giải quyết chế độ cho người lao động. Từ khi thực hiện Nghị định số 12/N Đ-CP ngày 20/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ đã có nhiều doanh nghiệp nhận thức đầy đủ đúng đắn ý nghĩa đó nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp hiểu chưa đủ, chưa đúng nên việc quyết tâm chỉ đạo quản lý để thực hiện trích nộp % quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội chưa trở thành công việc thiết thực, thường kỳ của cán bộ quản lý cũng như sự lãnh đạo của cấp uỷ ở doanh nghiệp. Tình hình trích nộp thiếu quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu còn diễn ra ở một số doanh nghiệp nhà nước trong toàn tỉnh, có những nguyên nhân chủ quan như đã nêu ở trên cũng còn những nguyên nhân khách quan, chi phối tác động tới những doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch, dự án thiếu tính khả thi ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5377.doc
Tài liệu liên quan