Đề tài Nghiên cứu cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp Nhà nước

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

I. THỰC CHẤT CỔ PHẦN HOÁ VÀ CỔ PHẦN BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 2

1. Cổ phần hoá là gì? 2

2. Phân biệt cổ phần hoá và tư nhân hoá. 4

II. SỰ CẦN THIẾT CỦA CỔ PHẦN HOÁ 5

1. Vai trò và thực trạng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. 5

2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay. 6

III. MỤC TIÊU ĐỐI TƯỢNG, ĐIỀU KIỆN ĐỂ CỔ PHẦN HOÁ: 11

1. Mục tiêu: 11

2. Đối tượng: 12

3. Điều kiện: 12

IV. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ: 13

V. VỀ VIỆC CHUẨN BỊ CHO CỔ PHẦN HOÁ MỘT BÔ PHẬN DOANH NGHIỆP

NHÀ NƯỚC Ở XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT KIM KHÂU HÀ NỘI. 19

VI. MỘT SỐ VÍ DỤ VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH 20

VII. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 21

TÀI LIÊU THAM KHẢO 22

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1910 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Bán đấu giá tài sản, bán một phần tài sản thuộc sở hữu Nhà nước cho các thành phần kinh tế, thường áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và lớn có thể đang kinh doanh có lãi hoặc đang gặp khó khăn. - Cổ phần hoá thường áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn đang kinh doanh có lãi. - Cho thuê, hợp đồng kế hoạch, thầu khoán, phương thức BOT, thường được áp dụng cho các doanh nghiệp mà Nhà nước chưa muốn chuyển đổi sở hữu. Như vậy khái niệm cổ phần hoá hẹp hơn tư nhân hoá và cổ phần hoá chỉ là một trong nhiều biện pháp của tư nhân hoá. II. Sự cần thiết của cổ phần hoá 1. Vai trò và thực trạng của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là những cơ sở kinh doanh do Nhà nước sở hữu hoàn toàn hay một phần. Doanh nghiệp nhà nước phân biệt với doanh nghiệp tư nhân ở quyền sở hữu của Chính phủ và phân biệt với các cơ quan khác của chính phủ ở tính chất kinh doanh thương mại, tạo ra thu nhập qua cung cấp hàng hoá và dịch vụ của chúng. Đặc điểm sở hữu của Chính phủ hầu như bao gồm cũng bao gồm cả quyền kiểm soát, chỉ đạo can thiệp ở một mức độ nào đó và hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước là những chuyển khoản từ chính phủ và tiền vay. Trên thế giới, không có nước nào triệt để hoàn toàn các doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của khu vực này được xác định và thay đổi tuỳ thuộc vào đặc điểm chế độ chính trị - xã hội cũng như trình độ và mục tiêu nền kinh tế qua mỗi thời kỳ phát triển kinh tế đất nước. Trước đây chúng ta đã có quan điểm đồng nhất vai trò chủ đạo với vai trò thống trị của kinh tế quốc doanh nên đã tạo ra cho nền kinh tế quốc dân một khu vực quốc doanh đồ sộ và thiết lập một cơ chế nhằm triệt tiêu các thành phần kinh tế phi XHCN. Cơ cấu kinh tế thuần nhất với hai thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể đã không khuyến khích việc thừa kế những lực lượng kinh tế do lịch sử để lại. Do đó đã tạo ra một khu vực kinh tế quốc doanh không năng động, không cần cạnh tranh và hoạt động kém hiệu quả, trong khi đó khu vực kinh tế có sức phát triển (kinh tế tự nhiên) thì bị chèn ép. Trong cơ chế thị trường với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh được xác định cần phải củng cố và phát triển nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, quan trọng có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước, một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Trước yêu cầu giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của thành phần kinh tế, doanh nghiệp nhà nước phải được củng cố, đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân . Doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Đây là yêu cầu có tính quy luật chung của sự phát triển kinh tế xã hội, vì bản thân nền kinh tế thị trường chứa đựng những khuyết tật mà muốn khắc phục cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước. Nhìn chung sự cần thiết của khu vực doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được biện minh bởi những lý do: Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công cộng mà quyền sở hữu không thể xác định (giao thông đường thuỷ, công trình kiến trúc lịch sử, phong cảnh thiên nhiên) hoặc những hàng hoá, dịch vụ mà tư nhân không thể và không muốn làm (điện, nước...) Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước thúc đẩy sự phát triển cân đối và giải quyết việc làm ở các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế đòi hỏi đầu tư lớn và độ mạo hiểm cao mà tư nhân không đủ sức và không muốn đầu tư. Thứ ba, doanh nghiệp Nhà nước kiểm soát những khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh quốc gia như công nghiệp quốc phòng, khai thác mỏ nguyên liệu phóng xạ. Thứ tư, doanh nghiệp Nhà nước thực hiện sự phân phối lại thu nhập, chống khuynh hướng dẫn tới độc quyền tự nhiên lại khu vực tư nhân. Thứ năm, doanh nghiệp Nhà nước là một kênh tạo thu nhập quan trọng cho ngân sách nhà nước, là kênh thu hút viện trợ và vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế cũng như là biểu hiện và phương diện đề cao tinh thần độc lập tự chủ quốc gia và kinh tế là biểu hiện của sự công bằng xã hội. 2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ta hiện nay. Trong cơ chế cũ, ở nước ta doanh nghiệp nhà nước tồn tại với một số lượng khổng lồ. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến ngày 1/9/1990 cả nước có 12.084doanh nghiệp hoạt động trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và do nhiều cấp quản lý. Sau khi thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại theo quyết định 315/HĐBT ngày 1/9/1990 và thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước theo nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn còn 6500 doanh nghiệp. Trong đó 1971 doanh nghiệp (chiếm 30,3%) do các bộ, ngành Trung ương quản lý và 4529 doanh nghiệp (chiếm 69,7%) do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý. Đến năm 1995, số lượng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trong lĩnh vực công nghiệp là 78,8%; xây dựng cơ bản: 49%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: 99,6%; giao thông vận tải bưu điện: 54%; thương nghiệp, vật tư: 46,5% (theo báo cáo về tình hình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước của Bộ kế hoạch và đầu tư ngày 14/3/1995). Sau những năm đổi mới và điều chỉnh, số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã giảm gần một nửa song vẫn còn quá nhiều. Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay vẫn tồn tại ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực, điều đó là không cần thiết. Hơn nữa với số lượng doanh nghiệp Nhà nước nhiều như vậy làm vượt qua khả năng nguồn lực về vốn và các bộ quản lý của nước ta hiện có. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, còn phân bố rất hợp lý. Các doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hồ Chí Minh. Nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào như miền núi phía Bắc hầu như không có doanh nghiệp Nhà nước nào. Sự phân tán các doanh nghiệp Nhà nước ở các ngành, lĩnh vực dẫn đến tình trạng trên cùng một địa bàn lãnh thổ các doanh nghiệp Nhà nước của Trung ương, địa phương hoạt động chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau một cáchvô tổ chức, gây khó khăn cho nhau trong việc sản xuất kinh doanh. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có qui mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả. Theo số lượng thống kê của Bộ Tài chính, tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng tương đương với vốn một doanh nghiệp loại nhỏ ở các nước như Thái Lan, Inđonesia, Malayxia. Đến nay vẫn còn 46,1%doanh nghiệp Nhà nước có số lao động dưới 100 ngàn và gần 50% doanh nghiệp Nhà nước có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa có vốn dưới 500 triệu đồng. Các doanh nghiệp có vốn lớn từ 100 tỷ đồng trở lên chỉ chiếm 1,% tổng số doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có từ 1000 lao động trở lên chỉ chiếm 4% trong tổng số doanh nghiệp. Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chỉ bằng 80 vốn hiện có do kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát, kem phẩm chất chưa được xử lý. Riêng vốn lưu động có 14239 tỷ đồng và chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, 50% còn lại nằm ở lỗ, công nợ khó đòi. Các doanh nghiệp Nhà nước do qui mô nhỏ, vốn ít không có khả năng đầu tư thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh nên yếu sức cạnh tranh trên thị trường. Trình độ kỹ thuật, công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Trừ một số ít (18%) doanh nghiệp nhà nước mới được đầu tư còn chủ yếu có trình độ kỹ thuật thấp, công nghệ lạc hậu. Giá trị còn lại của tài sản cố định trong doanh nghiệp Nhà nước là 61,4% so với nguyên giá. Theo đánh giá của Bộ khoa học công nghệ và môi trường, máy móc thiết bị của doanh nghiệp nhà nước lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm. Theo điều tra của Tổng cục thống kê: thiết bị của doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ. Các doanh nghiệp Trung ương có tới 54,3 % trình độ thủ công, 41% trình độ cơ khí và 3,7% trình độ tự động. Doanh nghiệp địa phương còn lạc hậu hơn. Chỉ có 2% trình độ tự động, 24% trình độ cơ khí và 74% trình độ thủ công. Nhiều thiết bị trong các doanh nghiệp Nhà nước sau 14 - 15 năm mới được thay đổi, thậm chí trong một số ngành vẫn sử dụng thiết bị từ năm 1938 - 1940 trong khi thời gian đổi mới thiết bị ở các nước khác trung bình là 5 năm. Các báo cáo về tình hình hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm công nghiệp của nước ta đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; 65% số sản phẩm đạt mức dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% số sản phẩm kém chất lượng, hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội. Công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước kém, xét về mặt hiện vật, năng suất lao động của ta về chế biến dầu thực vật chỉ bằng 10% mức của thế giới, về sản xuất các sản phẩm dệt, giấy may chỉ bằng 30% - 40% mức của thế giới, về thi công cầu đường chỉ bằng 1/20 mức của Pháp. Hiện nay mức quản lý của Nhà nước với doanh nghiệp Nhà nước chưa hợp lý. Một mặt các cơ quan chủ quản vẫn can thiệp khá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; mặt khác trong nhiều lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là quản lý nhà nước lại bị buông lỏng. Điều này hạn chế quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời làm cho Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu và tạo cơ hội cho nhiều cá nhân lạm dụng chiếm đoạt tài sản công làm giàu cho mình, hoặc làm ăn phi pháp. Trong một số doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ chuyên môn tổ chức quản lý, chưa đủ tiêu chuẩn vì vậy không đủ sức giải quyết các vấn đề phát sinh trong sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước còn thấp. Tỷ suất lợi nhuận bình quân so với doanh thu năm 1995 là 5% thấp nhất là ở các ngành sản xuất vật chất. Trong các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động chỉ có 12,8% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận từ 15% năm trở lên trong ngành sản xuât vật chất và 4,3% doanh nghiệp Nhà nước có tỷ suất lợi nhuận từ 20% năm trong các ngành dịch vụ. Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế Nhà nước cao gấp 1,5 lần so với và chi phí để tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp hai lần so với kinh tế tư nhân. Hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7% năm trong đó ngành giao thông vận tải 2% năm, ngành công nghiệp khoảng 3% năm, ngành thương nghiệp đạt 22% năm. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể ở thời điểm 1/6/1995 chỉ có 47,6% hoạt động có lãi ở mức thấp dưới 8%, khoảng 30% doanh nghiệp lãi trên 8%, 11% doanh nghiệp bị thua lỗ, bình quân mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ mỗi năm, 12% doanh nghiệp hoạt động không lỗ nhưng cũng không lãi. Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Nhà nước đã gây ra tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân đưa đến việc bội chi ngân sách. Hàng năm 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được giành cho các doanh nghiệp Nhà nước không bảo toàn được nguồn vốn nhà nước đầu tư mà chỉ bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định mới chỉ bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72,52%) lại là ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá trầm trọng do tình trạng quản lý của Nhà nước về ngành dịch vụ. Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần so với chi phí để tạo ra một đồng thu nhập quốc dân cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. Hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7% năm trong đó ngành giao thông vận tải 2% năm, ngành công nghiệp khoảng 3% năm, ngành thương nghiệp đạt 22% năm. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động thua lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể ở thời điểm 1/6/1995 chỉ có 47,6% hoạt động có lãi ở mức thấp dưới 8%, khoảng 30% doanh nghiệp lãi trên 8%, 11% doanh nghiệp bị thua lỗ, bình quân mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ mỗi năm, 12% doanh nghiệp hoạt động không lỗ nhưng cũng không lãi. Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp Nhà nước đã gây ra tổn thất lớn cho ngân sách Nhà nước và là một trong những nguyên nhân đưa đến việc bội chi ngân sách. Hàng năm 85% vốn tín dụng với lãi xuất ưu đãi được giành cho các doanh nghiệp Nhà nước không bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định một chỉ bảo toàn ở mức, 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lên nhất là công nghiệp và thương nghiệp, (72,52%) lại là ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%) vốn để nợ nên vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá trằm trọng do tình trạng quản lý của Nhà nước về tài chính, còn lỏng lẻ, từ đó nạn tham nhũng, lãng phí diễn ra ở mức báo động. Cơ chế thực hiện quyền sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp Nhà nước chưa được xác định rõ ràng. Người đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nứoc chưa được xác định cụ thể do đó dẫn đến tình trạng vô chủ hoặc qua nhiều chủ trong các doanh nghiệp Nhà nước. Do không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu Nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động trong doanh nghiệp nên tài sản của doanh nghiệp Nhà nước không có được sử dụng có hiệu qủa. Người lao động chựa thực sự gắn bó, làm việc hết sức vì doanh nghiệp. Một số quản lý doanh nghiệp cũng như quản lý Nhà nước lợi dụng chức quyền bòn rút tài sản của Nhà nước làm giàu cho cá nhân. III. Mục tiêu đối tượng, điều kiện để cổ phần hoá: 1. Mục tiêu: Cổ phần hoá nhằm 2 mục tiêu đó là: - Huy động vốn của công nhân viên chức trong doanh nghiệp; cá nhân, các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. - Tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong doanh nghiệp cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ sự thật, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, khi Chính phủ Việt Nam nói để cổ phần hoá thì các chuyên gia ngoại quốc lại nói đến giải tư. Vậy hai khái niệm này có phải là 1 không? Một trong những chuyên viên về một kinh tế của một tờ báo nước ngoài đã nói về vấn đề này như sau:" Thật ra thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau nhưng người ta cố ý hiều nhầm. Đối với Chính phủ Việt Nam việc cổ phần hoá tức là làm sao cải tổ lại các xí nghiệp cho hợp lý. Trước đây các xí nghiệp quốc doanh hầu như không có vốn mà chỉ được ngân sách cấp vốn mà thôi. Bây giờ cổ phần hoá tức là cho các doanh nghiệp quốc doanh vốn, tạo thành cổ phần, bắt trước một số xí nghiệp khác trên thế giới. Nhưng còn khi tạo ra cổ phần; Chính phủ có muốn giải tư, bán ra hay không lại là chuyện khác. Theo tôi biết thì Chì phủ chỉ bán ra mộ ít còn vẫn dữ đa số trong xí nghiệp, tức là vẫn hoàn toàn kiểm soát các xí nghiệp này". Qua trên ta cũng hiểu được chính sách cổ phần hoá của nước ta; tức là vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước chứ không tư nhân hoá hoàn toàn. 2. Đối tượng: Đối tượng áp dụng nghị định 28/CP là các doanh nghiệp nghi tại điều 1 của luật doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư (Ví dụ như các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, phục vụ công cộng, các ngành kinh tế chủ chốt, mũi nhọn như: dầu khí, điện, xi măng.v.v...) Các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, các tổ chức xã hội được pháp luật công nhận, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên đều có quyền mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp có cổ phần hóa. Còn việc thí điểm bán cổ phiếu cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy định riêng của Chính phủ. Còn một vấn đề nữa màvẫn còn mới lạ với những người kinh doanh ở Việt Nam và một số người còn băn khoăn, đó là kiểm toán. Vì đã cổ phần hoá là tất yếu phải liên quan đến kiểm toán. Vậy thì khác biệt giữa kiểm toán và kiểm kê thuế vụ như thế nào? Hai vấn đề này khác nhau nhiều lắm. Kiểm kê thuế vụ là của Sở thuế. Tiến hành kiểm kê số lời lãi của xí nghiệp để tính thuế. Còn kiểm toán là hình thức giúp cho người có cổ phần hay những người đầu tư biết tình trạng hoạt động của xí nghiệp như thế nào, không những về lãi suất mà còn về cả về tình trạng thanh toán. Vì ở nước ta đa số những nhà kinh doanh chưa phải là cổ đông và mọi người sợ nộp thuế nên có sự hiểu lầm như vậy. 3. Điều kiện: Theo quyết định 01/CPH thì có bốn bước mà các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang loại hình cổ phần phải thực hiện gồm: chuẩn bị cổ phần hoá, xây dựng phương án cổ phần hoá doanh nghiệp, duyệt và triển khai, ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh. Trước khi tiến hành bốn bước kể trên, các doanh nghiệp Nhà nước phải hội tụ đủ các điều kiện sau đây: - Có qui mô nhỏ và vừa (trừ những doanh nghiệp cổ phần hoá theo hình thức qui định tại điểm 1, điều 9 của nghị định28/CP). - Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư của Nhà nước. - Có phương án kinh doanh hiệu quả. Còn đối với bộ phận doanh nghiệp được tách ra để cổ phần hóa phải đảm bảo các điều kiện sau: - Phải là đơn vị hạch toán phụ thuộc, tính được giá thành trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, có báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (của ít nhất một năm cuối cùng của thời điểm cổ phần hoá). - Phải đôc lập tương đối về tài sản, tiền vốn, công nghệ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, địa điểm làm việc. - Phải làm đảm bảo điều kiện về vốn pháp định theo ngành nghề kinh doanh đối với doanh nghiệp chính sau khi đã tách một bộ phận để cổ phần hoá. IV. Các bước tiến hành cổ phần hoá: Các bộ phận doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần (gọi tắt là cổ phần hoá) tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị cổ phần hóa 1) Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp: 1. Tuyên truyền phổ biến giải đáp cho người lao động trong doanh nghiệp về những chủ trương, chính sách và qui định của Chính phủ, của các Bộ về cổ phần hoá. 2. Chuẩn bị các tài liệu, số liệu có liên quan đến sản xuất, tài chính,lao động của doanh nghiệp gồm: - Báo cáo quyết toán 3 năm cuối cùng đến thời điểm cổ phần hoá: - Báo cáo tình hình công nợ, tài sản, vật tư, hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất; phân tích rõ nguyên nhân và dự kiến hướng giải quyết. - Báo cáo danh sách lao động của bộ phận doanh nghiệp đến thời điểm cổ phần hoá, trong đó nêu rõ số lượng, chất lượng, thời gian công tác của từng người lao động. 3. Lập dự toán chi phí cho việc cổ phần hoá theo các khoản mục chi tiết như Thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính cho đến khi họp xong đại hội cổ đông lần thứ nhất. 4. Kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ của bộ phận doanh nghiệp, dự kiến phân loại tài sản: - Tài sản đang dùng, - Tài sản không cần dùng, - Tài sản xin thanh lý, - Tài sản (hiện vật) được hình thành từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của bộ phận doanh nghiệp để chuẩn bị bàn giao cho công đoàn công ty quản lý. 2) Giám đốc doanh nghiệp: 1. Ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán hợp pháp để kiểm toán kết quả hoạt động kinh doanh làm cơ sở xác định giá trị doanh nghiệp. Việc chọn cơ quan kiểm toán phải có sự thống nhất của cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. 2. Tổ chức thanh toán công nợ đã xác định, xử lý tài sản, vật tư ứ đọng, thanh lý tài sản thuộc thẩm quyền. 3. Đăng ký với kho bạc Nhà nước để mở tài khoản tiền nộp bán cổ phần bộ phận doanh nghiệp cổ phần hoá. 4. Mở sổ đăng ký các cổ đông dự định mua cổ phần bộ phận doanh nghiệp. Đăng ký mua ấn chỉ cổ phiếu tại kho bạc Nhà nước. Bước 2: Xây dựng phương án cổ phần hoá doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp. 1) Lập phương án (dự kiến) về: 1. Phân phối quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) cho người lao động trong bộ phận doanh nghiệp (nếu có). 2. Xác định số cổ phiếu cấp cho người lao động để hưởng cổ tức theo thâm niên và chất lượng công tác của từng người lao động đang làm việc tại bộ phận doanh nghiệp. 3. Xác định số tiền cho vay để mua chịu cổ phiếu với lãi suất 4%/năm đối với từng người lao động. 2) Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án nêu trên cho người lao động trong doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được biết và thảo luận thống nhất cùng thực hiện. 3) Căn cứ kết quả kiểm toán và hướng dẫn của Bộ tài chính, Ban cổ phần phần hoá tại doanh nghiệp lập Hội đồng xác định giá trị bộ phận doanh nghiệp gồm các thành viên Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp, đại diện có thẩm quyền của cơ quan quản lý vốn và tài sản của Nhà nước tại bộ phận doanh nghiệp và một số cán bộ kinh tế - kỹ thuật theo đặc điểm của từng doanh nghiệp do Trưởng ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp làm chủ tịch để dự kiến giá trị thực tế của doanh nghiệp. Sau khi giá trị thực tế của bộ phận doanh nghiệp đã được dự kiến, Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp báo cáo Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Hội đồng quản trị tổng công ty 91 để thông qua trước khi trình Bộ tài chính(hệ thống Tổng cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp) quyết định. 4) Lập phương án cổ phần hoá: Phương án cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp có 4 phần chính sau: Phần thứ nhất: Đánh giá thực trạng của bộ phận doanh nghiệp và dự kiến phương hướng phát triển của bộ phận doanh nghiệp từ 3 đến năm sau khi cổ phần hoá. a. Tình hình chung hiện nay của bộ phận doanh nghiệp; địa điểm, ngành kinh doanh, thuận lợi, khó khăn. b. Tình hình biến động tài sản, tiền vốn, lao động, kết quả kinh doanh của bộ phận doanh nghiệp trong 3 năm gần nhất. c. Đánh giá thực trạng của bộ phận doanh nghiệp và dự kiến phương hướng phát triển của bộ phận doanh nghiệp cổ phần hoá 3 đến 5 sau (chiến lược phát triển, kế hoạch kinh doanh, giá thành, lợi nhuận, phân phối cổ tức, bổ sung vốn, tái đầu tư...) Phần thứ hai: Phương án tiến hành cổ phần hoá: a. Xác định mục tiêu cụ thể và hình thức cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp Nhà nước: giá trị của bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hoá, số vốn cần huy động thêm (nếu có). b. Mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu, loại bỏ phiếu cần được phát hành. c. Xác định tỷ lệ phần vốn của các cổ đông trong bộ phận doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá phân theo: - Tỷ lệ cổ phần của doanh nghiệp. - Tỷ lệ cổ phần của người lao động trong bộ phận doanh nghiệp. - Tỷ lệ cổ phần của cổ đông ngoài doanh nghiệp và của CBCCN trong doanh nghiệp. - d. Mức phân phối ưu đãi về tài chính cho người lao động trong bộ phận doanh nghiệp. - Tổng giá trị cổ phiếu cấp cho người lao động để hưởng cổ tức (số người được cấp, người cao nhất, người thấp nhất). - Tổng trị giá cổ phiếu được mua chịu, trả chậm trong 5 năm (tổng số người, người cao nhất, người thấp nhất). - Phương hướng hoàn trả số tiền mua chịu. e. Thời gian và cơ quan bán cổ phiếu: Doanh nghiệp tự bán hay thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại hay công ty tài chính. g. Thời hạn để các cổ đông nộp tiền và nhận được cổ phiếu (kể cả trong và ngoài doanh nghiệp). h. Những vấn đề đề nghị giải quyết về: - Vốn, tài sản. - Lao động - Thuế - Những kiến nghị khác Phần thứ ba: Một số nội dung của dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần được thành lập sau cổ phần hoá: Căn cứ vào Luật doanh nghiệp nhà nước Luật công ty dự kiến các nội dung sau: a. Hình thức cổ phần của doanh nghiệp (cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt...) b. Cổ phiếu được cấp cho người trong bộ phận doanh nghiệp c. Qui định về cử, bãi miễn người quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần. d. Quyền hạn và trách nhiệm của người được cử quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần. e. Dự kiến nhân sự đại diện cho công nhân viên chức trong bộ phận doanh nghiệp để ứng cử, đề cử bầu vào Hội đồng quản trị. Ban kiểm soát của công ty cổ phần theo qui định của Luật công ty. g. Dự kiến các qui định khác thích hợp với từng công ty cổ phần. Phần thứ tư: Tổ chức thực hiện phương án được duyệt a. Thời gian để chuyên bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. b. Những vấn đề cần được xem xét tiếp tục giải quyết. Sau khi bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần. c. Dự kiến sự trực tiếp quản lý phần vốn doanh nghiệp tại công ty cổ phần. d. Những vấn đề khác về chỉ đạo thực hiện phương án cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp. e. Tổ chức đại công nhân viên chức (bất thường) để lấy ý kiến về cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp. g. Hoàn chỉnh phương án cổ phần hoá bộ phận doanh nghiệp nhà nước (sau khi đã có ý kiến đóng góp của người lao động). h. Trình cơ quan có thẩm quyền duyệt phương án cổ phần hoá của bộ phận doanh nghiệp. i. Dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần và báo cáo xin ý kiến của bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Hội đồng quan trị Tổng công ty 91 về bản dự thảo điều lệ. Bước ba: Duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần hoá. 1) Thong báo công khai tình hình tài chính của bộ phận doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá. 2) Thông báo việc bán cổ phần, tổ chức cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp đăng ký mua cổ phần.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72194.DOC
Tài liệu liên quan