Đề tài Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard

MUÏC LUÏC

  

 

 

Chương 1: Lý thuyết về phá giá đồng nội tệ Trang

1.1./ Khái niệm 4

1.2./ Những tác động 5

1.2.1./ Ngắn hạn 5

1.2.2./ Trung hạn 6

1.2.3./ Dài hạn 6

1.3./ Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ 7

1.4./ Điều kiện để phá giá thành công 7

1.4.1./ Phương pháp tính độ co giãn: 7

1.4.2./ Phương pháp hấp thu: 8

1.4.3./ Phương pháp tiền tệ : 9

1.5./ Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ 9

1.5.2./ Những mặt lợi mà Trung Quốc có được từ phá giá: 10

1.5.1./ Cụ thể hành động của chính phủ: 13

1.6./ So sánh độ mở nền kinh tế Việt Nam năm 2008 và Trung Quốc giai đoạn 1993-1994 18

Chương 2: Đề xuất giảm giá VND của nhóm nghiên cứu đại học Harvard

2.1./ Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 19

2.1.1./ Thuận lợi để thực hiện đề xuất giảm giá VND 19

2.1.1.1./ CPI tăng: 19

2.1.1.2./ Lạm phát ở mức cao: 21

2.1.1.3./ Các biện pháp hành chính thời gian qua tỏ ra không có hiệu quả: 23

2.1.1.4./ Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 29

 

 

2.1.1.5./ Thu nhập quốc dân tăng cao: 33

2.1.1.6./ VND đang bị định giá cao: 36

2.1.1.7./ Những yếu tố khác làm cho tỷ giá USD/VND tăng 49

2.1.2./ Khó khăn khi thực hiện đề xuất giảm giá VND 50

2.2./ Đánh giá tác động của việc giảm giá VND đối với Việt Nam 52

2.2.1./ Những tác động tích cực của việc giảm giá VND 52

2.2.2./ Những tác động tiêu cực của việc giảm giá VND 54

2.2.2.1./Ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu 54

2.2.2.2./Tác động đến các ngành sản xuất trong nước 57

2.2.2.3 ./Tác động đến thị trường ngoại tệ trong nước. 58

2.2.2.4./ Tác động tâm lý người dân và các doanh nghiệp. 58

2.2.2.5./ Tác động đến các khoản nợ của chính phủ và DN trong nước. 59

2.2.2.6./ Tỷ giá, lạm phát & lãi suất 60

2.2.2.7./ Tác động đến cán cân tài khoản vãng lai 61

 

Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ cho đề xuất giảm giá VND

3.1./ Giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu trước biến động tỷ giá: sử dụng các công cụ phái sinh của ngân hàng thương mại 62

3.2./ Hiện nay, VND mang rủi ro lớn nhất chính là “mất niềm tin” 62

3.3./ Điều chỉnh ưu tiên của đầu tư công 62

3.4./ Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công 63

3.5./ Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín dụng. 64

3.6./ Cần phải khuyến khích cạnh tranh 64

 

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được Vụ Quản lý ngoại hối cân nhắc. Bảng 2.1: Thống kê biến động tỷ giá VND ¤ Không chịu sự kiểm soát của một mức cơ bản hay biên độ dao động, tỷ giá áp dụng trên thị trường tự do liên tục tăng lên. Trong tháng Năm, tỷ giá đã tới gần sát 18.000 VND/USD. Sang tháng 6, có thời điểm đô-la Mỹ bán ra với giá 19.700 VND/USD trước khi lùi dần về mức 18.000 VND/USD vào cuối tháng. Mức thay đổi lớn trong khoảng thời gian ngắn tạo nên trạng thái khan hiếm và khó khăn trong giao dịch chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô-la Mỹ. Tại các địa điểm giao dịch tư nhân, tỷ giá được xác định theo từng lần giao dịch. Mức chênh lệch giữa mua vào và bán ra tương đối lớn, từ 200 đến 300 đồng với một đô-la Mỹ. Cá biệt, khảo sát vào ngày 19/6/2008 ghi nhận khoảng cách này lên tới 1.000 đồng. ¤ Trong nỗ lực bình ổn thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 2%, từ 16.139 VND/USD lên 16.461 VND/USD vào ngày 11/6/2008. Trước đó, ngày 6/6/2008, biện pháp giám sát hành chính chặt chẽ được áp dụng nhằm chấm dứt các hoạt động trao đổi tự do đồng Việt Nam và đô-la Mỹ- không tuân theo tỷ giá qui định và biên độ dao động ± 1%. Trước áp lực tỷ giá tăng cao, ngày 27/6/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đồng ý nới rộng biên độ giao dịch lên mức ± 2%. Cùng với các kết quả cải thiện kinh tế vĩ mô trong tháng Sáu, các điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước đã phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức của hệ thống ngân hàng và thị trường tự do đang dần hội tụ. Biểu đồ 2.6: Biến động tỷ giá năm 2006 - 2008 Þ Khoảng cách giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ü Điểm hạn chế thứ hai là: Chính phủ đặt ra chính sách phát triển kinh tế nóng năm 2008. ¤ Tháng 11/2007 tuy đã có tiếng nói cảnh báo nhưng Chính phủ vẫn đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP từ 8,5- 9%, tạo việc làm cho 1,7 triệu lao động, xuất khẩu vẫn tăng… ¤ Việc đặt chỉ tiêu như vậy đã tạo ra hoàn cảnh khó khăn hơn cho nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2008. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2008 giảm sút so với cùng kỳ năm 2007 Nguồn: Cục thống kê TP. Hà Nội-tháng 6/2008 Biểu đồ 2.7: Tăng trưởng kinh tế các năm ¤ Tổng thu nhập quốc dân giảm 24,7 % so với năm 2007. Ngược lại hoàn toàn với chỉ tiêu ban đầu của chính phủ. Tình trạng thất nghiệp tăng cao. Bội chi ngân sách lớn. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 5.4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 3,5 - 3,9%; công nghiệp và xây dựng tăng 7,3 - 7,5%, dịch vụ tăng 7,2 - 7,8%; GDP bình quân đầu người đạt trên 1.000 USD. Bảng 2.2: Các chỉ tiêu kinh tế xã hội ¤ Bên cạnh đó, việc gia tăng hàng nhập khẩu hạn chế hàng xuất khẩu, đã làm cho tình trạng thâm hụt thương mại càng trầm trọng hơn. Nhập siêu tháng 4: 3,2 tỷ USD; tháng 5: 1,9 tỷ USD; tháng 6: 728 triệu USD; tháng 7: 753 triệu USD; tháng 8: 258 triệu USD; tháng 9: 500 triệu USD. Biểu đồ 2.8: Việt Nam xuất khẩu và cán cân thương mại hàng tháng (US $triệu) Giảm sút xuất khẩu làm tăng quan ngại về tăng trưởng Nguồn: Tổng cục thống kê Ü Điểm hạn chế thứ ba: Chính sách vĩ mô không dự báo được xu hướng cũng như bối cảnh kinh tế  khu vực và thế giới: “Cùng bị tác động mặt bằng giá kinh tế thế giới thì nền kinh tế nước ta khó khăn hơn”. ¤ Chính phủ đã  không đánh giá kịp thời tác động của khủng khoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam khi  nhận định: “Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới không ảnh hưởng đến Việt Nam”. ¤ Trong khi, độ mở của nền kinh tế nước ta lớn, doanh số xuất khẩu và nhập khẩu gấp 1,6 lần GDP. Kinh nghiệm của cuộc khủng khoảng tài chính khu vực năm 1997 đã chỉ ra nền kinh tế Việt Nam luôn có độ trễ so với khu vực và quốc tế do chúng ta đang chuyển đổi. Đánh giá này góp phần làm lệch biện pháp điều hành dẫn đến khó khăn hơn cho nền kinh tế. ¤ Xét về góc độ lập chính sách cũng phản ánh việc chúng ta chưa có kinh nghiệm trong việc phát triển các loại thị trường trong kinh tế thị trường. Ví dụ như đối với thị trường bất động sản. Vì muốn mở rộng thị trường bất động sản nên trong Luật Nhà ở quy định là chỉ cần 20% vốn của dự án là được khởi công và huy động các nguồn vốn khác (nói cụ thể là có quyền bán nhà dự án khi vừa khởi công). Song điều đó chỉ phù  hợp trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường. Còn trong nền kinh tế khó khăn, vì sức ép đáp ứng 80% vốn còn lại còn lại cho doanh nghiệp đã đẩy nhanh tổng phương tiện thanh toán ra quá nhiều và quá nhanh, dẫn đến đẩy lạm phát lên. Đến nay, khi cầu giảm thì doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc bán hàng, ngân hàng gặp khó khăn trong thu hồi nợ làm nợ xấu của ngân hàng tăng cao hơn. 2.1.1.4./ Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Nguồn hình thành dự trữ ngoại hối chủ đạo là các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp tăng mạnh trong vài ba năm trở lại đây. Đóng góp từ nguồn kiều hối vào dự trữ ngoại tệ quốc gia cũng đang tăng lên với trung bình 4 tỉ USD/năm. Ø Vốn FDI tiếp tục gia tăng: Vượt qua hai thử thách cam go của tình trạng phát triển nóng trong nửa đầu năm và khủng hoảng tài chính toàn cầu nửa cuối năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam năm 2008 tiếp tục tăng cao cả số vốn thực hiện và vốn đăng ký cấp mới. Biểu đồ 2.9: Dự án FDI căn cứ theo lĩnh vực “Hiện Việt Nam xếp thứ 6 trên thế giới về thu hút FDI, chiếm 14% GDP của cả nước, tạo thêm 2 triệu việc làm và đem lại 1 tỷ USD thuế mỗi năm, riêng năm 2007 vốn FDI đăng ký tại Việt Nam là 20 tỷ USD, tăng 30% so với năm trước. „ Ü Trong những năm gần đây, vốn FDI ròng của Việt Nam dao động quanh mức 2 tỉ USD. Năm 2007 ghi nhận mức tăng đột biến lượng vốn đầu tư trực tiếp, có lẽ đây là một phản ứng tích cực của việc gia nhập WTO vào đầu năm. Và chỉ trong 7 tháng đầu năm 2008, tổng vốn FDI vào Việt Nam đã đạt 45,28 tỉ USD, vượt xa con số 21,3 tỉ USD của cả năm 2007. Biểu đồ 2.10: Biến động vốn FDI và số dự án đầu tư qua các năm Ü Mặc dù tháng 10 khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát nhưng vốn FDI đăng ký tính đến ngày 22/10 là 2 tỷ USD. Tính từ đầu năm 2008, đã có 953 dự án đăng ký mới, với tổng số vốn 58.3 tỷ USD, gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007. Nếu tính thêm 1 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của 247 lượt dự án được cấp phép các năm trước thì 10 tháng cả nước đã thu hút được 59.3 tỷ USD vốn đăng ký. Tổng vốn FDI của nước ngoài thực hiện 10 tháng năm 2008 ước tính đạt 9.1 tỷ USD (trong đó: phía nước ngoài ước đạt 700 triệu USD) tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam về trung hạn và dài hạn. Ü FDI cam kết của cả năm 2008 đã đạt con số kỷ lục 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007. Lượng giải ngân của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam lên con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. ¤ Công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lượng vốn đăng ký, với 572 dự án chiếm 54% về vốn đầu tư đăng ký. Trong đó, các dự án thăm dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng vốn FDI. ¤Năm 2008 cũng chứng kiến một loạt dự án thép quy mô lớn vào Việt Nam, và đến nay vẫn còn một vài nhà đầu tư nước ngoài xếp hàng chờ được cấp phép. Lĩnh vực dịch vụ cũng chiếm lượng vốn lớn, 45%. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-ngư. Nguồn: Tổng cục thống kê Biểu đồ 2.11: Cơ cấu vốn FDI Ü FDI thực hiện là nguồn tài trợ chính cho các khoản thâm hụt thương mại đang diễn ra. Như vậy, về lâu dài thì nâng cao chất lượng tăng trưởng, tiết kiệm trong nước và cải thiện cán cân thương mại mới là những nhân tố giúp nền kinh tế phát triển bền vững. Ø Dòng vốn ODA tiếp tục xu hướng tích cực: Ü Đến ngày 23/9/2008 nguồn vốn này đã được hợp thức hoá thông qua các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ đạt 1.826 tỷ USD, gồm có viện trợ không hoàn lại 184 triệu USD, vốn vay 1.642 tỷ USD. Số vốn ODA giải ngân 9 tháng đạt 1.415 tỷ USD. Ü Tháng 10/2008, tổng số vốn ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA đã ký kết. Trong cơ cấu ODA, ngành giao thông vận tải, bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng cao nhất. Biểu đồ 2.12: Cơ cấu sử dụng vốn ODA Ø Dòng vốn FII và kiều hối: Ü Vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vào các thị trường cổ phần và nợ rất dễ thay đổi. Ngay từ nửa cuối 2006, nguồn FPI đã được khuyến khích chuyển vào TTCK Việt Nam khi chỉ số thị trường tăng lên gấp đôi. Trong năm 2007, có tới 10 tỉ USD FPI vào Việt Nam, tương đương 15% GDP. Ü So với năm 2007, (lượng kiều hối năm 2007 là 6,7 tỷ USD) thì năm 2008 lượng kiều hối tăng cao, đạt mức 8 tỷ USD. Lượng kiều bào về nước đầu tư, hợp tác làm ăn hiện nay khoảng 3.000 doanh nghiệp đứng tên hoặc có vốn của kiều bào. Tổng mức đầu tư đăng ký gần 2 tỷ USD, trong đó sơ bộ đánh giá có 60% số dự án hoạt động có hiệu quả. 2.1.1.5./ Thu nhập quốc dân tăng cao: Ø Trong ba năm trở lại đây, Việt Nam đã hưởng thụ một thời kỳ hưng thịnh với mức tăng trưởng GDP vừa cao lại ổn định, thậm chí vượt trên cả tiềm lực tăng trưởng của nền kinh tế. Biểu đồ 2.13: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009 Ø GDP bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2008 đạt vào khoảng 17.328.227 VND, qui đổi ra USD là 1032 USD, tăng 197 USD so với năm 2007, vượt khoảng 80 USD so với kế hoạch năm 2008 và đạt 98% so với mục tiêu kế hoạch 2006-2010 về GDP bình quân đầu người được Quốc hội phê duyệt. Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.14: Từ năm 2005, kinh tế Việt Nam có dấu hiệu ngày càng "nóng" lên Có được bước nhảy vọt này là nhờ vào sự mở rộng của công nghiệp, và đặc biệt là ngành dịch vụ. Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.15: GDP qua các năm Công lớn thuộc về sức phát triển vượt trội của ngành dịch vụ Chú thích: So sánh lượng GDP theo các khu vực của nền kinh tế : Khu vực thứ nhất : Khu vực thứ hai : Khu vực dịch vụ  Ø Điều này có nghĩa là sản lượng hàng hóa sản xuất dần dần không đáp ứng được nhu cầu ngày càng nhiều của người tiêu dùng. Cầu càng lớn hơn cung thì khoảng cách càng nới rộng. Về lâu dài, khi nền kinh tế không còn khả năng "chịu nhiệt" nữa, sức ép sẽ dồn lên nền kinh tế. Ü Giới tiêu dùng trẻ tại Việt Nam đã nhiệt tình quảng bá phương châm sống "tiêu trước, trả sau", chạy theo những sản phẩm mới nhất của xe máy Piaggio, điện thoại di động Nokia hay quần áo hàng hiệu. Tư tưởng sống "không cần đến ngày mai" này phần nào đóng góp vào tình trạng bất ổn định của nền kinh tế ngày hôm nay.  Ü Hơn nữa, những báo cáo về hiện trạng nút cổ chai cơ sở hạ tầng và một thị trường lao động gắt gao cũng là cảnh báo về những sức ép đang ngày càng tích lũy. Đường xá, cầu cảng thường xuyên tắc nghẽn đã kìm hãm năng suất của ngành vận tải. Ü Cùng lúc đó, việc thiếu điện đã trở thành “cơm bữa” không chỉ tại các thành phố lớn mà còn trong những khu công nghiệp – xương sống của nền kinh tế. Trong thị trường lao động, dù lợi thế dân số đem lại nguồn nhân lực dồi dào, lượng lao động lành nghề vẫn là quá ít để đáp ứng nhu cầu đang gia tăng nhanh của các hãng đầu tư.  2.1.1.6./ VND đang bị định giá cao: Ø Vài số liệu về tình hình tỷ giá các năm qua: Ü Biến động giá và tỷ giá của Việt Nam và Mỹ giai đoạn 2001 – 2007: ¤ Nếu quan sát trên tỷ giá danh nghĩa, so sánh biến động giữa các năm thì Việt Nam đồng vẫn mất giá tương đối so với đô la Mỹ một cách đều đặn. Chẳng hạn, nếu năm 2001 tỷ giá là 14.725 đồng và tỷ giá trung bình của năm 2006 là 15.994 đồng thì Việt Nam đồng vẫn mất giá so với năm gốc là 8,6%. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ giá USD/VND 14.725 15.280 15.510 15.740 15.859 15.994 16.241 Nguồn: Tính toán trên số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam và Thống kê Tài chính quốc tế của IMF. Số liệu 2007 là số liệu của tháng 8 Biểu đồ 2.16: Biến động tỷ giá ¤ Bảng bên trên cho thấy, từ năm 2001, giá cả ở Mỹ tăng 16,2% trong khi giá ở Việt Nam tăng đến 39,3%. Do đó, dù tỷ giá danh nghĩa của Việt Nam có đánh giá thấp một cách tương đối so với đô la Mỹ (10%) thì tỷ giá thực vẫn cho thấy tiền đồng của Việt Nam đang định giá cao 8% kể từ năm 2001. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ đang bất lợi từ tỷ giá và ngược lại, các doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng đồng đô la đang hưởng lợi. Ü Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008: ¤ Sau một thời gian ổn định, tỷ giá trở lại xu thế tăng với giao dịch chạm biên giới hạn. Nguồn: SBV, Bloomberg. Biểu đồ 2.17: Tỷ giá USD/VND năm 2008 ¤ Trong năm 2008, VND lên giá khoảng 20% so với USD. So với 3 năm trước, VND đã lên giá khoảng 30 - 40% so với USD (xét trong bối cảnh USD tăng giá mạnh so với rổ tiền tệ nhưng VND hầu như vẫn được neo với USD). VND đã lên giá nhiều so các đồng tiền khác. Do đó, việc duy trì một tỷ giá VND/USD khá ổn định trong thời gian qua trong khi đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác, đã dẫn tới VND lên giá so các đồng tiền này làm tăng khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam.: VND tăng so với đồng euro khoảng 10%, với đồng tiền của một số nước khác trong khu vực từ 5 – 7%. Nguồn: VietstockFinance Biểu đồ 2.18: Tỷ giá VND so với các nước ¤ Có rất nhiều điều kiện căn bản cho một cuộc khủng hoảng tiền tệ đã xuất hiện. Đó là tỷ giá đang vượt quá giá trị thực, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng và dự trữ ngoại hối thấp ( tháng 6/2008: 20,7 tỷ). Tỷ giá hiệu lực thực của VND được giữ ở mức quá cao, nhưng vẫn chưa phải ở mức cao nhất, chỉ cao hơn 1.3 lần độ lệch chuẩn so với mức trung bình dài hạn của nó. Theo tính toán của nhóm nghiên cứu Hardvard, tỷ giá hiệu dụng thực của VND đã giảm trong giai đoạn 2000 - 2003, nhưng sau đó đã tăng gần như liên tục (trừ một giai đoạn giảm giá ngắn trong nửa đầu 2006) khi lạm phát bắt đầu tăng nhanh. . Biểu đồ 2.19: Tỷ giá thực hiệu dụng REER ¤ Tỷ giá thực của VND vào thời điểm tháng 9/2008 đã cao hơn mức của tháng 1/2000 là 20% và cao hơn mức của tháng 1/2004 tới 33%. Và xu hướng tăng tỷ giá thực của VND vẫn được duy trì trong 3 tháng cuối năm 2008 do đồng USD mạnh lên so với đồng EURO, cũng như với hầu hết các đồng tiền của châu Á. Ø Tác động của việc VND định giá cao đến: Ü Nhìn chung: ¤ Việc VND tăng giá tương đối so với USD sẽ làm giảm giá nguyên vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, giảm sức ép lên lạm phát từ những mặt hàng này. ¤ VND tăng giá sẽ tăng cung hàng nội địa, góp phần giảm khan hiếm hàng hóa trong nước hiện nay. Khi lượng cung hàng tăng, lạm phát cũng sẽ giảm. ¤ Để thị trường có tiếng nói quan trọng hơn nữa trong quyết định tỷ giá. Điều này sẽ góp phần cởi trói cho Chính sách tiền tệ trong nước, giúp NHNN thoát khỏi đối mặt với “Bộ ba bất khả thi”. Việc linh hoạt chính sách tỉ giá sẽ giúp NHNN hạn chế được lượng cung tiền vào thị trường vì không phải gắn chặt với nghĩa vụ mua lại nguồn vốn ngoại tệ, giúp kiềm chế lạm phát và có thể sử dụng tự do hơn chính sách tiền tệ khác như lãi suất và thị trường mở đối phó với những cú sốc nội địa như thiên tai, khủng hoảng thanh khoản... ¤VND mạnh lên sẽ giúp giảm lãi suất của đồng nội tệ. NHNN sẽ tránh được việc phải can thiệp hành chính vào chính sách lãi suất tiền gửi của các NHTM. ¤ VND mạnh lên sẽ giúp duy trì và cải thiện giá trị đồng nội tệ, giảm thiểu hiện tượng Đô la hóa: Theo như số liệu của IMF năm 2001 thì chỉ số Đô la hóa tại Việt Nam đã ở mức cao (2) ngay cả khi chưa tính đến lượng ngoại tệ tiền mặt lưu hành trong dân chúng ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Thời gian gần đây, VND yếu tương đối, lạm phát tăng cao khiến lãi suất tiền gửi âm do vậy nhiều người dân sẽ tìm cách chuyển đổi tài sản của mình sang các ngoại tệ mạnh khác và vàng khiến chỉ số Đô la hóa tại Việt Nam đã và đang tăng. Lưu ý Đô la hóa ở đây nên được hiểu theo nghĩa rộng là sử dụng ngoại tệ mạnh thay thế như Yên Nhật, đồng Euro, và vàng…không nhất thiết phải là đồng USD. ¤ Giúp chọn lọc vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam: VND lên giá sẽ có thể giảm lượng ngoại tệ chảy vào Việt Nam nhưng nó lại có tác dụng chọn lọc những nguồn đầu tư lâu dài thực sự có hiệu quả cao, hạn chế được những nguồn ngắn hạn mang tính đầu cơ rủi ro lớn. Tất nhiên về dài hạn, Việt Nam chỉ có thể thu hút vốn nước ngoài khi kinh tế vĩ mô ổn định mà điều kiện cần là lạm phát trong tầm kiểm soát. Ü Cụ thể tác động đến: ¤ Cán cân thương mại: Là một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và ngày càng mở cửa đối với nhập khẩu, Việt Nam không thể giữ tỷ giá thực của VND quá cao trong một thời gian quá dài, đặc biệt trong bối cảnh suy giảm toàn cầu năm 2009. Việc VND trở nên quá mạnh so với các đồng tiền của các đối tác thương mại chủ yếu làm cho thâm hụt thương mại gia tăng. Khi VND tăng giá so với USD, đồng USD lại tăng giá so với nhiều đồng tiền khác thì VND càng mạnh hơn, làm cho làm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị giảm sức cạnh tranh, tác động tiêu cực đến cán cân thương mại. Điều này trở nên nghiêm trọng khi nhu cầu thế giới giảm ª Tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán luôn là một trong những vấn đề hàng đầu của nền kinh tế Việt Nam. Từ nhiều năm qua, khi nền kinh tế phát triển thuận lợi, cán cân thanh toán tương đối ổn định, nhờ vào sự bù đắp của các nguồn thu ngoại tệ (cán cân vốn), bao gồm FDI, kiều hối, ODA, đầu tư gián tiếp (FII – chứng khoán), và du lịch. Tuy nhiên, sự mất cân đối đã trở nên nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây, nhất là từ khi xảy ra những biến động kinh tế trong và ngoài nước hồi đầu năm 2008. Nguồn: IMF; lãi suất cho vay bình quân 2008 là ước tính của Harvard Biểu đồ 2.20: Các chỉ báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam ª Nhìn vào ta thấy giá trị nhập siêu tăng rất nhanh trong 5 tháng đầu năm và tăng chậm lại ở các tháng cuối năm. Cụ thể là nhập siêu tháng 1 là 1 tỷ USD và tháng 2 giá trị nhập siêu tăng thêm gần 3.2 tỷ USD, cao nhất là tháng 4 tăng gần 3.7 tỷ USD, nhưng sang tháng 6 tăng chỉ là 356 triệu USD và tháng 9 nhập siêu giảm 137 triệu USD, các tháng còn lại của quý III và quý IV tăng chậm dưới 1 tỷ USD. Biểu đồ 2.21: Giá trị tăng thêm của nhập siêu qua mỗi tháng trong năm 2008 Þ Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng nhanh trong các tháng đầu năm là nhu cầu nguyên vật liệu tăng cao đối với các doanh nghiệp trong nước, và trong các tháng đầu năm, hợp đồng nhập khẩu được thực hiện nhiều hơn. Còn trong các tháng cuối năm, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho giá trên thị trường giảm, làm giá trị nhập khẩu giảm. giá trị xuất khẩu cũng giảm tương ứng. ª Thâm hụt thương mại đang mở rộng ngày càng lớn. Trong hai năm qua, thâm hụt trong thương mại hàng hóa mỗi quý tăng từ trung bình 1.2 tỉ đô vào 2006 tới 3.1 tỉ vào 2007, và cuối cùng phồng lên tới 8.3 tỉ trong quý 1 năm 2008, tương đương tới 11.2% của GDP vào 2007 .   Nguồn: CEIC, TT Nghiên cứu Kinh tế Goldman Sachs Biểu đồ 2.22:Thâm hụt thương mại ngày càng lớn khi cung nội địa dâng cao Biểu đồ 2.23: Giá trị tăng thêm của xuất khẩu và nhập khẩu mỗi tháng trong năm 2008 ª Cán cân thương mại tiếp tục bị thâm hụt vào tháng 10. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước tính đạt 5.1 tỷ USD, giảm 3.3%. Điều này được giải thích do việc giảm giá của một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam như dầu thô giảm 20%, cà phê giảm 7% và gạo giảm 20%... Tính chung cho 10 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu tháng 10 ước đạt 5.8 tỷ USD, tăng 5.2% so với tháng trước, mặc dù một số mặt hàng chiếm giá trị lớn như xăng dầu giảm 7.7%, sắt thép giảm 7.1%, phân bón giảm 17.1%. Như vậy thâm hụt thương mại vào tháng 10 lên đến 700 triệu USD, thấp hơn rất nhiều so với 5 tháng đầu năm nhưng lại cao hơn trong 2 tháng gần đây. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước. Mức thâm hụt thương mại trong 10 tháng đã lên tới 16.528 tỷ USD. Nguồn Tổng cục Thống kê Biểu đồ 2.24: Cán cân thương mại 10 tháng 2008 ª Sự thâm hụt cán cân thương mại (nhập siêu) do nhập khẩu tăng nhanh và cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu, thể hiện rõ qua biểu đồ……..Trong 5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu tăng mạnh, lên đến mức báo động, 14,4 tỷ USD, nhưng được kiềm chế ở mức thấp trong những tháng sau đó, một phần do giá hàng trên thị trường thế giới giảm mạnh, và khép lại với con số 17.5 tỷ USD cho năm 2008 (20% GDP), tăng đáng kể so với 12.45 tỷ, năm 2007. Biểu đồ 2.25: Cán cân thương mại Việt Nam qua các năm . Với xu hướng tỷ giá USD/VND năm 2008, năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam đang suy giảm, đồng thời tỷ giá này cũng đang khuyến khích nhập khẩu. Nếu trong năm 2009, NHNN không điều chỉnh tỷ giá USD/VND cho phù hợp thì tình hình nhập siêu cao sẽ vẫn tiếp tục được duy trì.==> không tốt cho nền kinh tế. Bảng 2.3: Một vài chỉ tiêu kinh tế qua các năm Các chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009E Cân bằng ngân sách chính phủ (% GDP) -0,1 1,1 -2,2 -1,6 -4,0 Cán cân thương mại (triệu USD) -4.314 -5.065 -14.121 -18.452 -17.044 Cán cân tài khoản vãng lai (triệu USD) -561 -229 -6.901 -9.135 -5.210 Nợ nước ngoài (% GDP) 32,5 31,4 33,3 29,8 30,9 Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 8.557 11.485 21.000 22.400 22.962 Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB) - Ghi chú: E là dự báo. ¤ DN XNK: Ở Việt Nam, tuy nhà nước đã điều chỉnh tỉ giá nhưng mức điều chỉnh vẫn chưa theo kịp biến động của thị trường. Trong năm 2008, nhà nước điều chỉnh khoảng 5%, đến ngày 25/12 /2008, điều chỉnh thêm 3% nữa trong khi tỉ lệ lạm phát cả năm trên 2%. Như vậy, rõ ràng vẫn chưa có sự cân đối. Với tỉ giá như hiện nay, hàng hoá của Việt Nam nếu tính bằng ngoại tệ đã trở thành quá đắt so với hàng hoá của nước khác. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ trong quý I/2008 của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá tiêu dùng đã bước đầu phát huy tác dụng nhưng cũng khiến không ít doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan do không huy động vốn để đầu tư, trong khi giá nguyên vật liệu và chi phí nhân công tăng cao. Ä So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%). Ä Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến. Ä Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Nguồn: www.agro.gov.vn Biểu đồ 2.26: Biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường liên NH Nguồn: SBV, Bloomberg Biểu đồ 2.27: Biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường liên NH Trong 7 tháng đầu năm 2008, tỷ giá VND/USD có nhiều biến động, cụ thể giảm liên tục trong 3 tháng đầu năm và tăng liên tục trong 3-4 tháng tiếp theo. Việc tỷ giá VND/USD biến động tăng trong nửa cuối những tháng đầu năm 2008 khi nhu cầu trong nước đang cao và chi phí mua nguyên liệu nhập khẩu liên tục tăng đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và nguyên liệu. Ä DN XK khi vay vốn phải vay VND, nhưng nguồn trả nợ là tiền hàng thu được từ nước ngoài lại là USD. DN khi cần NK phải mua USD với giá cao, nhưng khi ngoại tệ về tài khoản lại phải bán cho NH với giá thấp hơn... Vì vậy, nhiều DN XNK trong năm 2008 do mức chênh lệch tỷ giá giữa mua và bán ngoại tệ đã bị ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất, kinh doanh. ÄTình hình suy thoái toàn cầu hiện nay dẫn đến việc xuất nhập khẩu bị khó khăn vì các nước có đơn đặt hàng lớn đang trong tình trạng phải cắt giảm nhập khẩu. Việc giữ VND ở mức cao có thể khiến xuất khẩu có nhiều bất lợi. Ở những nước mà nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu, như Trung Quốc chẳng hạn, họ luôn giữ giá đồng tiền ở mức thấp, để tạo thêm năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Ä Đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ,... thì khó khăn hơn, vì giá nguyên vật liệu tăng bình quân 15% - 20%, riêng giá gỗ tăng trên 100%, giá xuất khẩu thì không tăng nhưng nguồn thu USD khi quy đổi sang VND thì bị giảm tới 3 – 4% nhưng cũng khó bán được. Nếu các DN hạ giá bằng các nước trong khu vực thì bị lỗ vốn, hạ ít thì khách hàng từ chối mua. Chính vì vậy mà hàng loạt các cơ sở xuất khẩu từ nông, thuỷ sản thủ công mỹ nghệ, dệt may, da giày... trong năm qua đã bị đóng cửa nhiều. Ä Tỷ giá USD/VND giảm mạnh, nhưng tỷ giá giữa Đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác thì lại tăng cao. Các doanh nghiệp có nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng USD thì bị thiệt lớn. Song các doanh nghiệp có nguồn thu bằng Euro, Bảng Anh, Yên Nhật, Đô là úc… thì được lợi. Ngược lại các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thanh toán bằng USD được lợi, còn thanh toán bằng các loại ngoại tệ khác thì bị ảnh hưởng. Ä Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT thì xuất khẩu hàng nông sản bị giảm sút một phần do tỷ giá của VN. Ba đối thủ về hàng nông sản của Việt Nam, Indonesea, Ấn Độ, Braxin thì trong mấy tháng vừa rồi họ đều phá giá mạnh, trong đó có Braxin đến 50%. Ấn Độ, Thái Lan phá giá đồng tiền đến đến 30%. Tóm lại: Việc VND được định giá quá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước Việt Nam để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard.doc
Tài liệu liên quan