Trong khi những sinh viên giỏi có thể tự học ngoại ngữ rất tốt thì những sinh viên yếu kém chủ yếu phụ thuộc vào giáo viên và hầu như không thể tự xoay sở được.
Theo Oxford (1990), chiến lược học là những hành động cụ thể mà người học thực hiện để việc học của họ dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, đầy hứng thú hơn, hiệu quả hơn và có thể dễ dàng thích ứng với tình huống mới hơn.
Theo O’Mally và Chamot (1990), chiến lược học có hiệu quả bao gồm việc lên kế hoạch học tập, giám sát việc học và đánh giá công việc đã làm. Chiến lược học còn bao gồm việc nhận thức được các cách xử lý việc học như là viết ghi chú, sử dụng từ điển và các nguồn khác. Đó còn là sự tương tác với bạn cùng nhóm, cùng cặp hay cùng lớp trong các hoạt động giao tiếp tại lớp.
Một sinh viên muốn đạt kết quả cao trong học tập không chỉ có động cơ học tập đúng đắn và thái độ học tập tích cực mà còn phải có chiến lược học đúng. Đây chính là lý do vì sao nhiều sinh viên yêu thích tiếng Anh, đầu tư nhiều thời gian cho việc học tiếng Anh nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn.
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15172 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng phát âm tiếng anh cho sinh viên trường cao đẳng dược Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngẫu nhiên. Phiếu điều tra nhằm tìm ra các lỗi về nhận dạng âm và trọng âm của sinh viên, phản ánh của sinh viên về phương pháp dạy phát âm của các giáo viên, phản ánh về phương pháp học của sinh viên, và các khó khăn mà các em gặp phải trong quá trình luyện phát âm.
Ghi âm phát âm của 10 sinh viên bất kỳ chọn từ các lớp đã phát phiếu điều tra. Việc ghi âm nhằm thu thập kết quả thực tế về các lỗi các em hay mắc. Bài đọc mẫu cho các em thu âm sẽ được lấy trực tiếp từ giáo trình “English pronunciation in use – Elementary” đang được sử dụng cho tiếng Anh A2. Bài đọc đã có giọng thu của người bản ngữ, sẽ tiện cho nhóm nghiên cứu so sánh và đối chiếu với phần ghi âm của sinh viên.
7. Phạm vi nghiên cứu
Vì điều kiện khách quan và chủ quan con nhiều hạn chế, tôi giới thiệu vấn đề nghiên cứu trong phạm vi sau:
Tiến hành nghiên cứu tại các lớp CD2A15-16 trong học kỳ II năm thứ nhất của hệ Cao đẳng trường Cao đẳng Dược Phú Thọ.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Xuất phát từ quan niệm cho rằng, người học chỉ có thể tham gia vào hoạt động học khi họ có những kỹ năng học tập cần thiết, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu các KNHT và dạy các KNHT đó cho sinh viên như Paul Trewer, Craig Rusbult, Chris Jarvie,..........
Paul Trewer khi nghiên cứu về các KNHT có liên quan đến việc học ở đại học, đã giới thiệu và phân tích các kỹ năng có liên quan đến việc học ở đại học như: Quản lý thời gian, xác định mục tiêu, tập trung tư tưởng, nghe, ghi chép, đọc sách, siêu nhận thức, nhớ, kiểm tra, giúp đỡ, kỹ năng học hợp tác, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tra cứu, kỹ năng quyết định, lầp sơ đồ khái niệm, tư duy phê phán [ 49]
Tác giả Craig Rusbult đã đưa ra danh mục các KNHT mà sinh viên cần luyện tập và cách thực hiện từng kỹ năng cụ thể, đó là nhớ, tập trung tư tưởng, đọc và nghe tích cực, chuẩn bị thi, sử dụng thời gian một cách có hiệu quả [131].
Theo Chris Jarvie để việc học thực sự là của người học thì phải thực hiện các nguyên tắc sau: chịu trách nhiệm về việc học; nghĩ, làm, xem xét lại, phát hiện lại, trải nghiệm; thu liên hệ ngược từ bạn; xây dựng tiêu chuẩn và mục tiêu cho sự phân tích có cơ sở; luyện tập kỹ năng cần thiết; đảm bảo cho sự đánh giá có tác dụng hỗ trợ cho việc học; nắm được các tiêu chí người khác dùng để đánh giá thành tích học tập; gắn hoạt động học tập với kết quả mình mong muốn; nhận biết sự cố gắng, tự tin, nhu cầu thời gian. Đồng thời tác giả cũng đưa ra các KNHT cần việc học có hiệu quả như ghi chép, nghiên cứu, học nhóm, sử dụng tư liệu học qua bài giảng, viết báo cáo, xemina đọc nhanh, nghiên cứu trường hợp, trình bày, phỏng vấn [130].
Tác giả Denise Chalmer và Richard Fuller [129] đã đưa ra một hệ thống các chiến lược được các tác giả đề xuất gồm có: các chiến lược thu thập thông tin, các chiến lược xử lý thông tin, các chiến lược xác nhận kết quả học tập và chiến lược quản lý cá nhân. Các tác giả cho rằng, chính giáo viên là người chịu trách nhiệm về chiến lược sinh viên sử dụng học tập và đồng thời chỉ ra phương hướng vận dụng cách dạy các chiến lược đó để giáo viên có thể sử dụng phù hợp với nội dung môn học của mình.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về hoạt động học tập của sinh viên, tác giả Lê Khánh Bằng [10], [11] cho rằng, để phát huy tính tích cực trong quá trình học tập, người học phải đảm nhận một phần trách nhiệm về quá trình học tập của mình bằng cách đề xuất thương lượng với thầy, đồng thời người học phải rèn luyện các kỹ năng cơ bản như kỹ năng định hướng, kỹ năng thiết kế, kỹ năng thực hiện kế hoạch, kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá quá trình học tập của bản thân. Biện pháp để hình thành kỹ năng học tập cho sinh viên là giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ phương pháp dạy học hướng vào hoạt động của giáo viên sang phưuơng pháp dạy học hướng vào hoạt động của sinh viên.
Khi nghiên cứu về hệ thống kỹ năng học tập hiện đại cần hình thành cho sinh viên, tác giả Đặng Thành Hưng, đã dựa trên cơ sở phân tích các chức năng của hoạt động học tập để phân chia thành ba nhóm kĩ năng học tập cần hình thành cho sinh viên. Đó là: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ năng giao tiếp và quan hệ học tập, nhóm kĩ năng quản lý học tập [49].
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Kỹ năng học tập Ngoại ngữ
Hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng.
Trong tâm lí học, kĩ năng được xem xét theo hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: xem xét kĩ năng về mặt kĩ thuật của hành động.
Đại diện cho nhóm này là V.A. Cudin, Trần Trọng Thủy, V.A Krutetxki... Chẳng hạn theo V.A Krutetxki, kĩ năng là phương thức thực hiện hành động đã được con người nắm vững, chỉ cần nắm vững phương thức hành động là con người có kĩ năng [19, tr 78].
Khuynh hướng thứ hai: xem xét kĩ năng về mặt năng lực của con người.
Đại diện cho nhóm này là N.D. Levitop, K.K Platonop, G.G Coluvep, A.V Petropxki.
Theo K.K Platonop và G.G Coluvep, kĩ năng là năng lực của con người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều kiện và trong khoảng thời gian tương ứng. Bất kỳ một kĩ năng nào cũng bao hàm trong nó cả biểu tượng về khái niệm, vốn tri thức, kĩ xảo... cơ sở tâm lý của kĩ năng là sự hiểu biết về mối quan hệ qua lại giữa mục đích hoạt động, các điều kiện và phương thức thực hiện [81, tr 77].
Như vậy, kĩ năng được xem xét theo khuynh hướng thứ hai vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, vừa có tính mục đích và được biểu hiện ở ba dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất: kĩ năng là mặt kĩ thuật của thao tác hành động.
Thứ hai: kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động hay một nhóm hành động dựa trên cơ sở của tri thức, của các điều kiện và phương tiện phù hợp với mục đích đã xác định.
Thứ ba: sự hình thành và mức độ phát triển của các kĩ năng được xác định trên cơ sở của tính chính xác, tính thành thạo, tính linh hoạt và sự phối hợp nhịp nhàng của các động tác trong hành động.
Trong giáo dục học, kĩ năng được một số tác giả quan niệm như là khả năng của con người thực hiện có kết quả hành động tương ứng với mục đích và điều kiện trong đó hành động xẩy ra [88], [98]. Một số tác giả khác lại quan niệm kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hay một loạt thao tác phức hợp của hành động bằng cách lựa chọn và vận dụng tri thức, cách thức và qui trình đúng đắn [2], [10].
Như vậy, kĩ năng được xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi thấy kĩ năng không có sự mâu thuẫn nhau, mà chỉ khác nhau ở thành phần của các kĩ năng mà thôi.
Theo các nhà tâm lí học [55][35], học tập dù ở hình thức nào thì cũng mang những dấu hiệu đặc trưng bản chất sau:
Đối tượng của hoạt động học là các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, sau khi những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó được lĩnh hội sẽ trở thành phương tiện học tập của người học trong việc lĩnh hội tri thức kỹ năng, kỹ xảo mới ở mức độ khái quát cao hơn. Đối tượng của hoạt động học không chỉ là các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và cả tri thức về hoạt động học. Có nghĩa là trong hoạt động học, người học không chỉ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn phải nắm được cả phương pháp học, cách thức học.
Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức nhằm vào việc lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Hoạt động học tập là hoạt động mang tính tổ chức kép, vừa là sự tổ chức của cá nhân với đối tượng học tập, vừa là sự tổ chức giữa các cá thể học tập trong một nhóm hoạt động với môi trường chung.
Hoạt động học tập là hoạt động có tính giao tiếp và giao lưu, ngay cả trong hoạt động học tập của cá nhân, tính chất giao tiếp vẫn được thể hiện, bởi lẽ đối tượng học là kinh nghiệm xã hội của loài người được giáo viên biên soạn lại theo những mục tiêu, chương trình học cụ thể.
Như vậy, hoạt động học tập của sinh viên là một loại hoạt động được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động dạy và được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, những phương thức hành vi nhằm làm thay đổi chính bản thân chủ thể của hoạt động học theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
1.2.3. Các khái niệm cơ bản về phát âm tiếng Anh
1.2.3.1. Phát âm là gì?
“Phát âm là cách nói 1 ngôn ngữ hay 1 từ hoặc 1 âm nhất định. Nó còn để cách 1 người nhất định nói các từ trong 1 ngôn ngữ” (Theo Oxford Advanced Learners’ Dictionary, 7th Edition).
Phát âm bao gồm các yếu tố sau:
Khả năng sử dụng các bộ phận cấu âm như răng, lưỡi, môi, v.v. để phát âm.
Trọng âm (trong cả từ và câu)
Ngữ điệu
Giọng điệu
Âm nối
1.2.3.2. Bảng ngữ âm
Bảng ngữ âm là hệ thống các ký hiệu tương ứng với các âm, mỗi ký hiệu chỉ có thể tượng trưng cho 1 âm duy nhất.
Theo bảng ngữ âm quốc tế, có 44 âm trong tiếng Anh:
(Theo )
1.2.3.3. Âm vị trong tiếng Anh
Âm vị là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạo và phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ. (Theo )
Có 44 âm vị trong tiếng Anh, tương ứng với 44 ký hiệu âm trong bảng ngữ âm ở phần trên.
Âm vị có thể được phân loại dựa trên phương cách phát âm như sau:
Hệ thống phụ âm:
Phương thức phát âm
Vị trí phát âm
Môi-môi
Răng trên-môi dưới
Răng trên-chóp lưỡi
Lợi răng trên-chóp lưỡi
Ngạc cứng-lưỡi
Ngạc mềm-cuống lưỡi
Thanh hầu
Tắc
Vô thanhHữu thanh
/p/ /b/
.
.
/t//d/
.
/k//g/
.
Tắc xát
Vô thanhHữu thanh
.
.
.
.
/t∫// ʒ/
.
.
Xát
Vô thanhHữu thanh
.
/f//v/
/θ//ð/
/s//z/
/∫// dʒ/
/h/
Mũi
/m/
.
.
/n/
.
/ŋ/
.
Rung
.
.
.
/l/
/r/
.
.
Bán nguyên âm
/w/
.
.
.
/j/
.
.
(Từ
Hệ thống nguyên âm:
Nguyên âm đơn
Nguyên âm đôi
Trước
Giữa
Sau
/aɪ/
Cao
/i/
/ɪ/
/u/
/ʊ/
/aʊ/
/ɔɪ/
Giữa
/e/
/ε/
/Λ/
/o/
/ɔ/
Thấp
/æ/
/ə/
/a/
(Từ
1.2.4. Một số nguyên tắc phát âm trong tiếng Anh
1.2.4.1. Cách đọc âm cuối
1.2.4.1.1. Từ có tận cùng là s/es
Cách đọc tận cùng là s/es áp dụng cho:
- Danh từ số ít đổi sang số nhiều. Ex: book – books, class – classes
- Danh từ số ít tận cùng bằng -s. Ex: physics, series, etc.
- Động từ ngôi thứ 3 số ít thì hiện tại. Ex: sleeps, watches, etc.
- Dạng viết tắt. Ex: what’s, he’s. etc.
- Dạng thức sở hữu. Ex: George’s mother, one man’s meal, etc.
Âm cuối của từ nguyên thể
Ví dụ
Cách đọc –s/es
Vô thanh
/p/
Ropes
/s/
/f/
Cliffs
/t/
Starts
/θ/
Booths
/k/
Books
Hữu thanh
/b/
/g/
Cabs, tags
/z/
/l/
/v/
Girls, gloves
/m/
/r/
Combs, soars
/n/
/ð/
Cans, lathers
/d/
/ŋ/
Adds, stings
/∫/
Wishes
/iz/
/iz/
/t∫/
Churches
/З/
Roughes
/s/
Buses
/z/
Houses
/dЗ/
Languages
1.2.4.1.2. Từ có tận cùng là -ed
Cách đọc tận cùng là -ed áp dụng cho:
Động từ theo quy tắc của thì quá khứ đơn (past simple) và quá khứ phân từ (past participle). Ex: Want – wanted, hope - hoped, etc.
Tính từ có tận cùng là -ed. Ex: hot-blooded, naked, etc.
Âm cuối của từ nguyên thể
Ví dụ
pronouncethe -ed:
Vô thanh
/t/
Want - wanted
/ Id/
Hữu thanh
/d/
End - ended
Vô thanh
/p/
Hope - hoped
/ t/
/f/
Laugh - laughed
/s/
Fax - faxed
/S/
Wash - washed
/tS/
Watch - watched
/k/
Like - liked
Hữu thanh
All other sounds,
Play - played
/ d/
1.2.4.1.4. Trọng âm của từ (Stress syllable)
Trọng âm của 1 từ là 1 vần (syllable) hay 1 âm tiết của từ đó được đọc mạnh hơn, dài hơn, và cao hơn những những vần còn lại.
Một số quy tắc xác định trọng âm của từ
Từ có 2 âm tiết
Nhóm từ
Kiểu trọng âm
Ví dụ
Danh từ
Danh từ thường
90% ở âm tiết thứ 1
Answer
Chaos
Salmon
Danh từ ghép
Âm tiết thứ 1
Takeover
Greenhouse
Mailman
Danh từ có nguồn gốc từ tiếng Pháp
Âm tiết cuối
Ballet, buffet, gourmet,
Champagne, brochure,
Antique, technique,
Massage, garage, etc.
Động từ
Động từ thường
Trọng âm ở gốc
Travel, harden, straighten, offer, etc.
Attend, collect, elect, prevent, survive, etc.
Động từ kép (phrasal verb)
Trọng âm ở giới từ
Take over, left out,
Get up, print out, etc.
Tính từ
Trọng âm ở gốc
Cautious, happy, solid
Pleasant, proper, etc.
Complete, extreme, alive, distinct, etc.
Trạng từ và giới từ
Trọng âm ở gốc
Always, later, often,
Shortly, sooner, under,
Over, etc.
Perhaps, indeed, unless,
Besides, until, above,
Bellow, etc.
Từ có 3 âm tiết trở lên
Dạng
Trọng âm
Ví dụ
Từ ghép
Danh từ (Danh từ + Danh từ) (Tính từ + Danh từ) (Danh từ + Giới từ)
Ở phần đầu
Bookbinder, fountain-pen..
Takeover, ...
Tính từ (Tính từ + quá khứ phân từ)
Ở phần động từ
Ill-treated, well-equipped, old-fashion...
Động từ (Giới từ + Động từ)
Understand, oversleep,
Từ thêm hậu tố
-ee, -eer
Ở hậu tố
Volunteer, refugee, (exception: committee)
-ic
Ở âm tiết trước hậu tố
Romantic, economic...
-tion, -cian, -sion
Communication,
-phy, -gy, -try, -cy, -fy, -al
Ở âm tiết thứ 3 tính từ dưới lên
photography biology geometry
-meter
parameter thermometer barometer
1.2.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng phát âm
Sự thành bại của sinh viên trong học tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó ba yếu tố quan trọng nhất là động cơ học tập, thái độ học tập và chiến lược học.
1.2.2.1. Xác định động cơ học tập môn tiếng Anh
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm động cơ, theo Harmer (1991), động cơ là sự nỗ lực nội tại khuyến khích một người theo đuổi một tiến trình hành động. Nếu chúng ta nhận thấy được một mục tiêu nào đó và nếu mục tiêu đó đủ sức hấp dẫn, chúng ta sẽ có động cơ thúc đẩy để đạt được mục tiêu đó.
Xét về động cơ học tập của người học, Cole và Chan (1994) đề cập đến hai động cơ chính: động cơ bên ngoài (extrinsic motivation) và động cơ bên trong (intrinsic motivation). Động cơ bên ngoài liên quan đến những yếu tố bên ngoài lớp học. Những yếu tố bên ngoài lớp học chính là sức lôi cuốn, hấp dẫn của nền văn hoá của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Người học mong muốn tìm hiểu nền văn hoá đó và hội nhập vào nền văn hoá đó. Những yếu tố bên ngoài lớp học còn là nhu cầu sử dụng ngoại ngữ như ngôn ngữ thứ hai để đạt được một mục tiêu nào đó như xin việc làm, tăng lương, thăng tiến, …
Đối với sinh viên Cao đẳng Dược Phú Thọ, động cơ bên ngoài này chính là cố gắng học thật tốt môn tiếng Anh để có cơ hội thăng tiến, tìm được công việc phù hợp với khả năng của mình, nghiên cứu các lĩnh vực chuyên ngành và đi du học ở nước ngoài. Trong thực tế giảng dạy tại trường cao đẳng Dược Phú Thọ, người viết nhận thấy một khi đã có động cơ học tập tốt như vậy, số sinh viên này học trội hơn hẳn so với các bạn cùng lớp. Với họ, những kiến thức tích luỹ được ở trường dường như là chưa đủ, họ luôn muốn đặt mình vào những môi trường đầy thử thách hơn nữa. Đây cũng chính là lý do khiến một số sinh viên đã tham gia vào các khoá học tiếng Anh tại Trung tâm Ngoại ngữ - Tin học và một số ít sinh viên đã tham gia luyện thi TOEIC, IELTS hay TOEFL và họ đã tự khẳng định được mình.
Một bộ phận không nhỏ sinh viên (54%) cũng đã từng xác định được mục tiêu học tập của mình là để có thể tìm được một chỗ làm tốt trong tương lai nhưng do một số yếu tố chủ quan cũng như khách quan họ đã không đạt được mục tiêu đề ra.
Ngược lại với động cơ bên ngoài, động cơ bên trong liên quan đến những yếu tố bên trong lớp học. Theo Cole và Chan (1994), động cơ này đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định thái độ học tập của sinh viên. Một sinh viên không có động cơ bên ngoài vẫn có thể có một thái độ học tập tích cực và đạt kết quả tốt trong học tập. Động cơ bên trong bị ảnh hưởng bởi bốn yếu tố chính: một là điều kiện vật chất của lớp học, trang thiết bị dạy và học, môi trường xung quanh và quy mô lớp học; hai là phương pháp giảng dạy, một yếu tố quyết định đối với sự yêu thích môn học của sinh viên; ba là tính cách, kiến thức và sự nhiệt tình của giáo viên, những yếu tố tạo nên sự lôi cuốn đối với sinh viên; bốn là sự thành bại của bản thân sinh viên trong học tập.
Tuy nhiên, theo kết quả điều tra, phần lớn sinh viên (64%) chưa có động cơ học tập đúng đắn. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này liên quan đến các yếu tố hình thành nên động cơ bên trong của sinh viên:
Điều kiện vật chất của lớp học chưa được tốt lắm: nhiều phòng học phải chịu nắng nóng (nắng chiếu vào đến nửa lớp) vào mùa hè; chịu tiếng ồn (đối với những phòng học lợp mái tôn) vào mùa mưa…
Trang thiết bị dạy và học còn nghèo nàn chưa đáp ứng được với nhu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy. Tại các trường thành viên, giáo viên giảng dạy tiếng Anh chủ yếu chỉ được trang bị máy cassette loại thường, chất lượng không tốt, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học.
Quy mô lớp học: còn tồn tại những lớp học quá đông sinh viên (80 - 85 sinh viên), không phù hợp với các lớp học ngoại ngữ, khiến sinh viên ít có cơ hội rèn luyện kỹ năng.
Phương pháp giảng dạy vẫn còn mang đậm tính truyền thống: chủ yếu dựa vào giáo trình, phấn, bảng.
Kết quả học tập chưa cao khiến cho sinh viên không có động cơ học tập tốt.
1.2.2.2. Thái độ học tập
Một yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến sự thành đạt của người học đó là thái độ của chính người học. Gardner và Lambert (1972) định nghĩa thái độ là sự bền bỉ mà người học thể hiện để theo đuổi một mục tiêu. Trong khi đó theo Brown (1980), thái độ là niềm tin của người học đối với cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó và nền văn hoá của họ. Thái độ học tập có mối liên hệ mật thiết đối với động cơ học tập. Thái độ đối với việc học ngoại ngữ là một yếu tố thúc đẩy người học cố gắng hết sức mình để đạt được mục đích. Ngược lại, động cơ ảnh hưởng đến thái độ của người học. Những người học có động cơ bên ngoài hoặc bên trong sẽ có thái độ học tập tích cực hơn những người không có động cơ hay những người xem việc học là nhiệm vụ bắt buộc.
Tại trường Cao đẳng Dược Phú Thọ, nhiều sinh viên học tiếng Anh với tâm lý bị ép buộc; không thoải mái. Họ học tiếng Anh bởi vì đây là một môn học bắt buộc trong chương trình. Chính vì chưa có động cơ học tập đúng đắn nên nhiều sinh viên thường có thái độ học “đối phó”: sử dụng những đáp án có sẵn từ giáo trình hay từ vở mượn của các lớp học trước; trong giờ học thường không chú ý nghe giảng, không hợp tác với bạn cùng cặp, cùng nhóm và khi được yêu cầu thực hiện một hoạt động nào đó thì lại “cầu cứu” bạn hoặc yêu cầu sự giúp đỡ từ phía giáo viên… Đôi khi nhiều sinh viên còn tỏ thái độ “bất hợp tác”: không chuẩn bị bài trước, không tham gia vào các hoạt động giao tiếp tại lớp; hay tìm lý do để nghỉ học hoặc đi học muộn
1.2.2.3.Hứng thú học tập
1.2.2.3. Chiến lược học
Trong khi những sinh viên giỏi có thể tự học ngoại ngữ rất tốt thì những sinh viên yếu kém chủ yếu phụ thuộc vào giáo viên và hầu như không thể tự xoay sở được.
Theo Oxford (1990), chiến lược học là những hành động cụ thể mà người học thực hiện để việc học của họ dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, đầy hứng thú hơn, hiệu quả hơn và có thể dễ dàng thích ứng với tình huống mới hơn.
Theo O’Mally và Chamot (1990), chiến lược học có hiệu quả bao gồm việc lên kế hoạch học tập, giám sát việc học và đánh giá công việc đã làm. Chiến lược học còn bao gồm việc nhận thức được các cách xử lý việc học như là viết ghi chú, sử dụng từ điển và các nguồn khác. Đó còn là sự tương tác với bạn cùng nhóm, cùng cặp hay cùng lớp trong các hoạt động giao tiếp tại lớp.
Một sinh viên muốn đạt kết quả cao trong học tập không chỉ có động cơ học tập đúng đắn và thái độ học tập tích cực mà còn phải có chiến lược học đúng. Đây chính là lý do vì sao nhiều sinh viên yêu thích tiếng Anh, đầu tư nhiều thời gian cho việc học tiếng Anh nhưng vẫn không đạt được kết quả như mong muốn.
Thực tế quan sát việc học tiếng Anh của sinh viên cho thấy phần lớn sinh viên chưa có cách học hiệu quả:
Soạn bài: sinh viên chủ yếu soạn nghĩa từ vựng, bỏ qua phần phát âm, cấu trúc và chưa có thói quen chuẩn bị các ý tưởng cho các tình huống cũng như các chủ đề nói, do đó ở lớp sinh viên không thể đáp ứng được ngay các yêu cầu của giáo viên, hiệu quả thực hành không cao.
Học từ vựng: sinh viên thường có thói quen học từ vựng theo kiểu học từ đơn lẻ, viết đi viết lại từ đó nhiều lần mà chưa có thói quen hoặc không biết cách học từ trong ngữ cảnh hay trong cách kết hợp với các từ khác. Cách học này mất nhiều thời gian mà hiệu quả nhớ từ rất hạn chế. Mặt khác, sinh viên lại không biết cách sử dụng từ cũng như sắp xếp từ theo một trật tự logic.
Hoạt động giao tiếp tại lớp: Các hoạt động giao tiếp tại lớp thường được sinh viên tiến hành như sau:
Nhận đề tài / tình huống
Đưa ra ý tưởng bằng tiếng Việt
Dịch ý tưởng sang tiếng Anh
Viết các ý tưởng / câu thoại ra giấy
Nhìn vào bài đối thoại hay bài thảo luận đã soạn sẵn để đọc.
Với cách chuẩn bị và thực hành các hoạt động giao tiếp như vậy, sinh viên phải mất rất nhiều thời gian tại lớp, làm ảnh hưởng chung đến thời lượng quy định cho bài học. Ngoài ra, điều này sẽ làm mất đi độ nhanh nhạy cũng như phản ứng của sinh viên, làm ảnh hưởng đến khả năng tư duy bằng tiếng Anh của sinh viên.
Tóm lại, động cơ, thái độ và chiến lược học có mối quan hệ mật thiết với nhau và có tác động lớn đến quá trình học nói chung và quá trình rèn luyện kỹ năng nói của sinh viên nói riêng. Khi sinh viên có động cơ học tập đúng đắn, họ sẽ có thái độ học tập tích cực. Từ đó, họ có thể tìm cho mình một chiến lược học có hiệu quả, đem lại kết quả cao. Một khi đã đạt được kết quả như mong đợi, sinh viên sẽ cảm thấy phấn khởi hơn, yêu thích môn học hơn, thái độ học tập sẽ tốt hơn. Như vậy, sinh viên sẽ cố gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.5.Những sự khác biệt chính giữa phát âm tiếng Việt và tiếng Anh
- Ngôn ngữ Việt Nam là ngôn ngữ đơn âm tiết trong khi đó ngôn ngữ Tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm tiết. Sự khác biệt này làm cho sinh viên Việt Nam thấy khó nhớ các từ đa âm tiết, âm tiết mang trọng âm cũng như phát hiện sự nối âm và nói có ngữ điệu như người bản ngữ.
- Hệ thống âm Tiếng Anh và Tiếng Việt có nhiều điểm khác nhau. Tiếng Việt có 23 phụ âm, 13 nguyên âm, 3 nguyên âm đôi. Trong khi đó tiếng anh có 24 âm vị phụ âm, 20 nguyên âm (trong đó có 12 nguyên âm đơn và 8 nguyên âm đôi). Như vậy có một số phụ âm không tồn tại trong tiếng Việt:
/dʒ/
enjoy
/⊖/
thank
/ð/
this
p
Parrot
Chính sự khác biệt này làm cho sinh viên Việt Nam hay quên phát âm phụ âm cuối cũng như khó khăn khi phát âm các nguyên âm có phụ âm đi kèm.
KẾT QUẢ VÀ ĐÁNH GIÁ
Phần 1: Trả lời phiếu câu hỏi
Bảng 1: Sinh viên học phát âm như thế nào ở trường THPT
Được giáo viên dạy kỹ
15%
Phát âm dựa theo cách đánh vần
33%
Bắt chước giáo viên phát âm mà không biết đúng hay sai
64%
Biểu đồ 1: Những phương pháp học phát âm mà sinh viên áp dụng
25% sinh viên sử dụng từ điển để chữa lỗi phát âm.
5% sinh viên nghe các tài liệu khác nhau bằng tiếng Anh để bắt chước cách người bản ngữ phát âm.
2% sinh viên nói chuyện với người bản ngữ
38% sinh viên nói tiếng Anh trong lớp học tiếng
50% sinh viên làm bài tập trong sách
Biểu đồ 2: Thói quen phát âm của sinh viên theo nhận xét của bản thân
70% sinh viên phát âm theo cách mình cảm thấy dễ nhất mà không cần biết đúng sai.
80% phát âm thiếu âm cuối
20% liên hệ cách phát âm của từ với cách đánh vần của nó.
10% sinh viên chú trọng tới trọng âm của từ khi phát âm.
Biểu đồ 3: Những trở ngại cho việc nâng cao khả năng phát âm của sinh viên theo nhận xét bản thân.
30% gặp khó khăn với vấn đề tiếng địa phương
50% gặp quen với cách phát âm học được từ THPT
40% ảnh hưởng cách phát âm tiếng Việt
45% cảm thấy khó khăn khi phân biệt phát âm tiếng Anh với tiếng Việt
90% không có cơ hội giao tiếp với người bản ngữ
Bảng 2: Bảy âm khó phổ biến với sinh viên
32%
24%
24%
14%
14%
6%
14%
Bảng 3: Phần trăm học sinh trả lời đúng 100% 4 bài kiểm tra thử (câu hỏi 6, 7, 8, 9)
Bài tập nhỏ với từ kết thúc bằng đuôi –ed
45%
Bài tập nhỏ với từ kết thúc bằng đuôi –es/s
9%
Bài tập nhỏ về viết cách phát âm một số từ thường gặp
0%
Bài tập nhỏ về trọng âm từ
10%
Phần 2: Thu âm
Mục đích thu âm: Học sinh phát âm sai các âm, từ và trọng âm.
Đối tượng thu âm: 10 học sinh chọn ngẫu nhiên từ các lớp tiếng Anh A2 (sinh viên năm thứ nhất, học kì II)
Công cụ: Các bài thu âm (xem phần mục lục 1b)
Kết quả:
Số sinh viên phát âm đúng tuyệt đối: 0/10
Số học sinh phát âm sai các âm:
Singer : 2/10
Pizza : 9/10
Necessary : 8/10
Hello : 5/10
Preparation : 9/10
Totality : 7/10
Plumber : 6/10
Situation : 6/10
Canoe : 8/10
Bảng các âm bị phát âm sai:
Âm cuối
Âm cuối
Số lượng sinh viên phát âm sai trung bình
K
5
Z
7
S
8
St
5
Từ các dữ liệu thu thập được, có thể nói có rất nhiều các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến việc học phát âm của sinh viên như sau:
Ảnh hưởng từ việc học phát âm ở THPT
Ảnh hưởng của việc liên hệ phát âm với cách đánh vần từ.
Thiếu điều kiện giao tiếp với người bản ngữ.
Thiếu chú ý đến việc chữa lại lỗi phát âm
Sự khác biệt giữa phát âm tiếng Anh và tiếng Việt.
Ảnh hưởng của phát âm tiếng Việt lên phát âm tiếng Anh.
Vấn đề về giọng địa phương.
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG PHÁT ÂM TIẾNG ANH
Sinh viên nên áp dụng những thủ thuật khác nhau để cải thiện khả năng phát âm của mình. Đặc biệt là sau khi đã nêu ra được những khó k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng phát âm tiếng anh cho sinh viên cao đẳng.doc