Đề tài Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long

Trước khi tiến hành đánh giá trình độ thể chất, chúng tôi tiến hành phỏng vấn nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long. Tổng số người được phỏng vấn là 216 người, bao gồm 58 người năm thứ 1; 48 người năm thứ 2; 56 người năm thứ 3 và 54 người năm thứ 4. Các nữ sinh viên nói trên được trực tiếp kiểm tra phát triển thể chất, kết quả thể hiện ở bảng 3.1.

Câu hỏi thứ nhất: Sinh viên tự đánh giá tình hình sức khỏe của bản thân. Có 5 mức đánh giá: rất tốt, tốt, trung bình, kém và rất kém. Kết qủa như sau: Rất tốt có 16 người, chiếm tỷ lệ 7,40%. Tốt có 34 người trả lời, chiếm tỷ lệ 15,74%. Trung bình có 85 người trả lời, chiếm tỷ lệ 40,7%. Kém có 70 người trả lời, chiếm tỷ lệ 32,40%. Rất kém có 8 người trả lời, chiếm tỷ lệ 3,7%. Như vậy, số tự đánh giá sức khỏe tốt trở lên có 23,16%. Mức trung bình trở xuống có 78,64%. Trong đó, mức kém và rất kém chiếm 36,10%.

 

docx83 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4984 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệnh lý ảnh hưởng đến sức khoẻ, gây sự rối loạn của người phụ nữ nên đòi hỏi sự vận dụng các bài tập phải có chọn lọc phù hợp với đặc điểm cấu trúc giải phẫu, giúp thuận lợi cho sự điều chỉnh cơ thể và phát triển chức năng vận động của chị em phụ nữ. Với phụ nữ tập luyện TDTT là sức khoẻ là vẻ đẹp của hạnh phúc gia đình, vì vậy nhu cầu được tập luyện TDTT của chị em phụ nữ ngày một cao. Ngày nay, nhiều phụ nữ đã tham gia hầu hết các môn thể thao kể cả những môn thể thao mà trước đây chỉ có nam giới hoạt động. Mục đích luyện tập của chị em phụ nữ trong các hoạt động thể thao mang nhiều mục đích khác nhau, song nguyện vọng chân chính và duy nhất của họ là có được sức khoẻ và vẻ đẹp thân thể. Do đó, lựa chọn môn thể thao là mối quan tâm của phụ nữ, nhất là nữ sinh viên.[55] Nhiều số liệu của các công trình nghiên cứu cho thấy: Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy yếu của sức khoẻ là thiếu sự vận động của con người, làm hạn chế các hoạt động thể lực trong con người hiện đại. Hoạt động TDTT giúp cho sự phát triển sức bền bỉ, dẻo dai, khả năng nhanh nhẹn và làm tăng cường sự mềm mại của cơ thể phụ nữ; giúp cho sự cân bằng của hệ thống cơ bắp và giảm đi lượng mỡ dư thừa, cải tạo hình dáng, mang lại sự sảng khoái và nghị lực cùng với khả năng học tập và lao động tốt. Sự tích cực hoạt động thể lực, giúp cho cải thiện tuần hoàn máu, kích thích hoạt động của các cơ quan nội tạng, cải thiện quá trình chuyển hoá, nghĩa là làm bình thường hoá sự hoạt động của các tế bào trong cơ thể con người. Con người, với lối sống tích cực, thường xuyên hoạt động TDTT đều đặn, sẽ duy trỳ được khả năng làm việc tốt đến cuối đời.[43,53,57] Sức khoẻ của con người theo lứa tuổi và giới tính phụ thuộc vào khối lượng vận động. Về nguyên tắc cơ thể của nữ cũng tương tự như ở nam giới, không có khác biệt gì đáng kể. Tuy nhiên, về mặt hình thái chức năng của cơ thể phụ nữ lại có những đặc điểm riêng đó là chức năng làm mẹ. Tập luyện TDTT ảnh hưởng tốt đến toàn bộ trạng thái chức năng cơ thể người phụ nữ, giúp cho họ thuận lợi trong việc mang thai và sinh con. Sự thích nghi đòi hỏi rất cao đối với người phụ nữ trong quá trình tập luyện TDTT. Do vậy, việc tập luyện phải được tiến hành và tổ chức phải phù hợp với đặc điểm riêng của họ. Đặc Biệt, phải thường xuyên theo dõi về mặt y học một cách chi tiết, nhằm đảm bảo cho quá trình phát triển hình thái chức năng của phụ nữ. Nhiều nhà bác học đã chứng minh rằng: Tốc độ quá trình chuyển hoá trong cơ thể, nằm trong mối liên hệ trực tiếp với các cơ thể trẻ, ở tuổi thanh niên.[50] Hoạt động TDTT bằng sự vận động của cơ bắp và các động tác thể dục đặc biệt cần cho người vận động trí óc cũng như những người ít vận động. Trong toàn bộ cơ thể, thì cơ vân chiếm 30 - 32% tổng trọng lượng cơ thể. Do vậy, cần vận động thường xuyên để giúp chống lại được bệnh tật và sự lão hoá của cơ thể. Nhà sinh lý học người Nga Xê-Xê-Nốp đã khám phá ra tính chất đặc sắc của hoạt động cơ bắp là: “Sự nạp năng lượng cho trung tâm thần kinh”. Tuổi 16 - 17 là tuổi bước vào dậy thì, là thời kỳ tích luỹ sức lực tiềm tàng nhất, tiếp đó là giai đoạn của tuổi ổn định cho đến tuổi 20 về cơ bản là thời kỳ cơ thể phát triển và hoàn thiện tối đa về mặt thể lực và tâm lý cơ thể các em trong lứa tuổi này. Lúc này, cơ bắp được tăng cường và cứng rắn hơn vì chứa nhiều chất Prôtít, mỡ và những chất vô cơ khác. Việc tập luyện TDTT có hệ thống và với những hình thức phù hợp và tích cực giúp cho cơ thể các em ở lứa tuổi này phát triển một cách cân bằng cả về trạng thái thể hình và phát triển thể lực tốt, giúp cho việc hoạt động trí óc đạt hiệu quả hơn. Khoa học đã chứng minh: Con người được sinh ra với nguồn dự trữ lớn lao về tính bền vững, sự sống lâu của mỗi người phụ thuộc vào điều kiện và môi trường sống của người đó. Cuộc sống vật chất, điều kiện lao động, nghỉ ngơi, sinh hoạt. Tất cả những yếu tố xã hội này đều là những cơ sở khoa học cho sự phát triển tồn tại của mỗi con người, để đạt được thành công trong đấu tranh đẩy lùi tuổi già, giành lấy cuộc sống hữu ích, sống lâu khoẻ mạnh, thì con người phải biết tự rèn luyện thân thể, có chế độ lao động nghỉ ngơi hợp lý và sinh hoạt lành mạnh. TDTT đối với tất cả mọi người, là cơ sở để bảo vệ và tăng cường sức khoẻ ngăn ngừa bệnh tật. Một bác sĩ người Pháp ở thế kỷ XVI, đã khẳng định chân lý của quá trình vận động: “vận động là một thứ thuốc, bằng tác dụng riêng của nó có thể thay thế bất cứ thứ thuốc nào, nhưng mọi thứ thuốc trên đời không thể thay thế được vận động”.[31] TDTT với quá trình vận động thường xuyên liên tục theo hệ thống, rất có tác dụng trong việc nâng cao sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ con người. Ngày nay, sức khoẻ không chỉ là tài sản riêng của mỗi người mà còn là tài sản riêng của mỗi dân tộc mỗi quốc gia. Do đó, việc chăm lo sức khoẻ là trách nhiệm to lớn của cả một cộng đồng trong xã hội, được Bác Hồ đã khẳng định: “Dân cường nước thịnh”, đó là quan điểm TDTT cách mạng của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chủ Tịch đối với TDTT là hoạt động mang tính cách mạng.[59] Tóm lại: TDTT là sự vận động có mục đích quan trọng trong việc củng cố nâng cao sức khoẻ cho mọi người và cao hơn nữa TDTT mang lại những lợi ích thiết thực trong sự phát triển lâu dài của một quá trình vận động có tính thường xuyên, trong sự hoàn thiện thể lực nâng cao vẻ đẹp hình thể đối với phụ nữ ở các lứa tuổi. Vận động TDTT là vận động có tính khoa học, tác động rất lớn đến cơ thể con người, muốn đạt được hiệu quả cao trong tập luyện, các nhà sư phạm thể dục phải bổ trợ nội dung, phương pháp tập luyện thích hợp, thiết thực đáp ứng nhu cầu nâng cao thể lực của con người. TDTT có thể đạt được mục đích hoàn thiện về chức năng cơ thể, cũng như phát triển tố chất thể lực, nếu hệ thống bài tập của môn này được chọn lọc và áp dụng thích hợp đối với từng loại đối tượng. Cơ thể phụ nữ có những đặc điểm về giải phẫu sinh lý riêng, có quan hệ đến các chức năng sinh vật và điều kiện sinh hoạt xã hội. Quá trình lên lớp môn GDTC đối với phụ nữ thường mang đặc điểm sau đây: Cần sử dụng các bài tập có nhiều biến hoá về tính chất, biên độ và nhịp điệu động tác đối với các bộ phận cơ thể. Cần chú ý đến sự chính xác của các tư thế cơ bản, luân phiên tập theo các hướng với tính chất chuyển động nhịp nhàng kết hợp với thả lỏng sau khi đã lặp lại động tác một số lần nhất định. Các bài tập phát triển độ dẻo và sức mạnh cần tiến hành song song với nhau. Trong các vận động gập thân nhiều về sau, như uốn cầu, lộn dẻo, cần lưu ý đến quá trình chuẩn bị các nhóm cơ lưng, thắt lưng. Trước khi tập các bài tập chính, cần sử dụng các động tác gập thân về trước đề phòng tử cung ngả về sau. Trong khi lựa chọn các bài tập phát triển sức mạnh và đàn tính của cơ, không nên coi nhẹ các nhóm cơ của chi dưới (chân). Thông thường, ở ngay phần khởi động và phần kết thúc của buổi tập người ta sử dụng các động tác ngồi, khuỵu gối, các động tác nhảy và múa. Do đặc điểm tâm lý người phụ nữ, nên những bài tập thường mang tính chất nhịp điệu uyển chuyển mềm mại như các động tác múa, các bước di chuyển theo nhịp, động tác làn sóng của tay và thân, động tác quay, động tác dẻo của tay.[31] Cần thay đổi các tư thế chuẩn bị, cũng như tính chất và nhịp điệu động tác: không nên để cho các bài tập thực hiện một cách rời rạc, mà cần liên kết nhiều cử động thành nhóm động tác có tính liên hoàn, việc phối hợp nhạc đệm cho các bài tập là cần thiết để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và tính nghệ thuật của bài tập. Trong tập luyện, cũng nên sử dụng nhiều loại bài tập để gây hào hứng, những động tác có tính điều chỉnh, các cử đông nhịp nhàng, các bài tập múa, việc để lại ấn tượng tốt sau một buổi lên lớp, đã trở thành nhu cầu. Do đó, các bài tập phải được coi trọng cả nội dung lẫn phương pháp. Sau một giai đoạn tập luyện nhất định, cần tiến hành kiểm tra sức khỏe, kiểm tra bài tập, thông qua đó cải tiến chương trình và phương pháp huấn luyện, đồng thời động viên khuyến khích các thành quả mà chị em đã đạt được. Việc tăng cường sức khỏe, cải tạo thể hình, tăng cường các chức năng hoạt động của cơ thể, xây dựng phong thái… đều là những mặt có thể đạt được tập luyện hệ thống, liên tục và phương pháp tập luyện hợp lý. Do đó, sự hoàn thiện phương pháp giảng dạy đối với phụ nữ, phải được quan tâm và gắn với các khâu khác như chương trình, kế hoạch, tổ chức tập luyện, theo dõi sức khỏe… Ở các trường đại học hiện nay, nữ sinh viên đã được tập luyện TDTT theo chương trình nội khóa của nhà trường, tuy nhiên thời gian quá eo hẹp, sinh viên không thể giải quyết hoàn thành môn học. Do đó, Bộ giáo dục và đào tạo cần quy định bắt buộc, tăng cường thời gian ngoại khóa để các em ôn luyện, nâng cao trình độ vận động và sức khỏe. So với yêu cầu tăng cường thể lực, nội dung, phương pháp tập luyện ngoại khóa cần được sắp xếp một chương trình hợp lý, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển thể lực nhằm đảm bảo cho sinh viên có sức khỏe tiếp thu tốt các kiến thức khoa học. Mặt khác, để sinh viên từ tập luyện bắt buộc đến tự giác tập luyện, đồng thời triệt để sử dụng các phương tiện tập luyện đơn giản, dễ tập như: dải lụa, tạ tay, kéo dây cao su.. đúng với phương châm: “Tận dụng mọi điều kiện thuận lợi cho tập luyện”. Thực hiện tốt điều này, sẽ cho lợi ích của tập luyện TDTT được tăng lên gấp nhiều lần, ngay cả đối tượng tập luyện là nữ sinh viên. 1.5. Lựa chọn phương pháp phát triển các tố chất thể lực cho nữ sinh viên. Các tố chất thể lực (hay còn gọi là tố chất vận động) là những đặc điểm, những mặt, những phần tương đối riêng biệt trong thể lực của con người và thường được chia ra làm 3 loại cơ bản: sức nhanh, sức mạnh, sức bền. a. Sức mạnh: sức mạnh của con người là khả năng khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại nó bằng sự nỗ lực của cơ bắp. Cơ bắp sản sinh ra lực trong các trường hợp sau đây: Không thay đổi độ dài của cơ (cơ chế tĩnh). Giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục) Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ). Trong đó chế độ nhượng bộ và chế độ khắc phục hợp thành chế độ hoạt động lực. Sức mạnh được chia thành các loại sau đây: Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong các động tác chậm hoặc tĩnh). Sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong các động tác nhanh). Nhóm sức mạnh tốc độ lại chia thành sức mạnh động lực và sức mạnh hoãn xung. Trong thực tiễn, chúng ta còn gặp các loại sức mạnh sau: sức mạnh bột phát là khả năng của con người phát huy một lực lớn trong khoảng thời gian sớm nhất (sức bật, dậm nhảy…). Sức mạnh tuyệt đối có thể được đo bằng trọng lượng tối đa mà con người khắc phục được. Để so sánh sức mạnh của những người có trọng lượng khác nhau, người ta còn sử dụng sức mạnh tương đối. Sức mạnh tương đối bằng sức mạnh tuyệt đối trên trong lượng cơ thể. b. Sức nhanh: Sức nhanh là khả năng của con người thực hiện động tác trong thời gian ngắn. Có 3 hình thức biểu hiện sức nhanh: - Thời gian phản ứng vận động . - Tốc độ động tác đơn. - Tần số động tác. Trong những động tác phối hợp phức tạp, thì tốc độ không những phụ thuộc vào sức nhanh ma con phụ thuộc vào sức mạnh, kỹ chiến thuật, hiểu biết. c. Sức bền: Sức bền là năng lực của cơ thể chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó. Sức bền chia làm hai loại: sức bền chung và sức bền chuyên môn. Sức bền chung là sức bền trong các hoạt dộng kéo dài với cường độ thấp, có phần lớn hệ cơ tham gia. Sức bền chung có ý nghĩa quan trọng trong đời sống hàng ngàyvà có khả năng chuyển rộng lớn. Các bài tập phát triển sức bền chung, được coi là bài tập cơ sở để phát triển các tố chất khác nhau và nâng cao vận động chung. Sức bền của một chuyên môn nào đó gọi là sức bền chuyên môn, là khả năng duy trì hoạt động cao trong những bài tập nhất định. Sức bền phụ thuộc chủ yếu vào thời gian hoạt động, căn cứ vào thời gian vận động có thể chia sức bền thành: -Sức bền trong thời gian trên 11 phút: thành tích phụ thuộc vào khả năng hoạt động ưa khí. -Sức bền trong thời gian khoảng 2 phút đến 11 phút: thành tích phụ thuộc vào cả khả năng hoạt động ưa khí và thiếu khí. -Sức bền trong thời gian ngắn từ 45 giây đến 2 phút: thành tích phụ thuộc vào khả năng yếm khí và sức mạnh-bền, cũng như sức nhanh bền-bền. Ngoài các tố chất thể lực cơ bản, còn có các tố chất thể lực không cơ bản như khả năng phối hợp vận động, độ mềm dẻo, sức mạnh - tốc độ, sức mạnh - bền,…. Tố chất thể lực không cơ bản là tố chất cần cho một hoạt động nào đó mà hoạt động khác không cần đến và nó không có cơ sở sinh lý chung với các tố chất thể lực cơ bản. Giáo dục các tố chất thể lực là một quá trình phức tạp, bao gồm tố chất thể lực chung và tố chất thể lực chuyên môn. Quá trình giáo dục thể chất cho sinh viên trong các trường đại học chuyên nghiệp chủ yếu là các trường không chuyên TDTT và đánh giá trình độ chuẩn bị thể lực (theo tiêu chuẩn quy định) là trình độ thể lực chung. Trong chương trình GDTC cho sinh viên vào giai đoạn hai có những bài tập, có những học phần nhằm hướng tới phát triển thể lực chuyên môn. Do đó, khi đánh giá trình độ chuẩn bị thể lực chung (theo quy định) và chú ý tới đặc điểm này. Để phát triển các tố chất thể lực, ngoài những yếu tố khác như điều kiện dinh dưỡng, điều kiện sống, điều kiện lao động, nghiên cứu khoa học và điều kiện học tập, thì các bài tập TDTT (còn gọi là bài tập thể chất hay bài tập thể lực) là phương tiện chủ yếu và cơ bản nhất. Tùy theo mục đích giáo dục, mà người ta gọi bài tập thể chất là bài tập thể lực, phương pháp phát triển thể chất là phương pháp phát triển tố chất thể lực, nhằm nhấn mạnh tính mục đích của nó. Cùng một bài tập như nhau, nhưng sử dụng phương pháp khác nhau, thì hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Do đó mọi họat động nói chung và hoạt động giáo dục thể chất nói riêng cần lựa chọn những phương pháp thích hợp để đạt được những hiệu quả cao nhất. CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 2.1.Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, các phương pháp được sử dụng để thu thập xử lý thông tin bao gồm.: 2.1.1.Phương pháp phân tích và đọc tài liệu tham khảo. Phương pháp này được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu, từ khi lựa chọn đề tài, xây dựng đề cương, triển khai nghiên cứu cơ bản đến sử lí thông tin, viết và trình bày luận văn khoa học, bảo vệ đề tài nghiên cứu lớp cao học khóa 11. Các loại tài liệu tham khảo gồm: - Các văn kiện nghị quyết của Đảng và nhà nước về công tác TDTT nói chung và TDTT trường học nói riêng. - Các luận án và luận văn khoa học của nghiên cứu sinh và học viên cao học TDTT. - Các sách giáo khoa, giáo trình về lý luận và phương pháp TDTT, về giải phẫu, sinh lý, tâm lý lứa tuổi. - Các sách chuyên môn có liên quan đến đề tài nghiên cứu về giáo dục các tố chất thể lực. - Các tạp chí thông tin khoa học TDTT, tạp chí nghiên cứu giáo dục, tạp chí đại học và chuyên nghiệp; các tuyển tập nghiên cứu TDTT của trường đại học TDTT TW I, của Vụ GDTC Bộ giáo dục và đào tạo . - Một số báo chuyên môn về TDTT. Tất cả trên 40 quyển sách và tài liệu tham khảo. 2.1.2.Phương pháp phỏng vấn. Phương pháp này sử dụng để thu thập thông tin nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề có liên quan đến đề tài, như nhận thức của sinh viên đối với việc phát triển thể chất; hiện trạng công tác GDTC đang tiến hành tại trường đại học Dân Lập Thăng Long Hà nội, các hiểu biết về sự phát triển các tố chất thể lực trạng thái chức năng, sự phát triển về hình thái cơ thể; các hình thức tập luyện TDTT ngoại khóa và nguyện vọng của sinh viên đối với việc tập luyện TDTT ngoại khóa trong 4 năm học nhất là ở hai năm cuối cùng (năm thứ 3 và thứ 4, khi thời gian tập luyện dành cho các môn thể thao tự chọn). Nguyện vọng của nữ sinh viên đối với tập môn thể dục nhịp điệu và số lượng buổi tập trong một tuần. - Phần hỏi và các câu hỏi được trình bày ở phần phụ lục của luận văn. - Trong nghiên cứu, chúng tôi trực tiếp hỏi 216 sinh viên, gồm năm thứ nhất là 58 người; năm thứ hai 48 người; năm thứ 3 là 56 người và năm thứ tư là 54 người. Tổng số phiếu phát ra là 216 phiếu, thu về là 216 phiếu, đạt tỷ lệ 100%. 2.1.3.Phương pháp kiểm tra sư phạm. Để đánh giá sự phát triển thể lực nữ sinh viên tham gia nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng một số thử nghiệm, nhằm kiểm tra các tố chất thể lực cơ bản của sinh viên, như tố chất sức mạnh, tố chất sức bền, tố chất sức nhanh, sự khéo léo, độ mềm dẻo, v.v… a. Đánh giá tố chất sức nhanh - Bài test chạy 30m xuất phát cao (giây): - Tư thế chuẩn bị: Người tập giữ tư thế đứng, chân trước, chân sau, thân người hơi đổ ra trước. Khi có tín hiệu chạy, nhanh chóng chạy về phía trước đến vạch đích. Dùng đồng hồ bấm giây, xác định kết quả cự ly chạy 30m, tính thời gian. Người tập chạy hai lần, lấy thành tích tốt nhất. b. Đánh giá sức bền. - Bài test chạy 500m (phút). Tư thế chuẩn bị: người tập xuất phát ở tư thế đứng, giống như khi xuất phát chạy nhanh 30m. khi chạy, phải phân phối sức, cố gắng chạy hết cự ly 500m. Thành tích được tính khi người tập về đích, theo kết quả của đồng hồ bấm giây. c. Đánh giá sức mạnh - Bài thử bật xa tại chỗ (cm), đánh giá sức mạnh của chân: Từ tư thế đứng khuỵu gối, hai tay đưa ra sau, thân người gạp về trước. Sau đó, dùng sức bật mạnh hai chân ra trước lên trên, cuối giai đoạn bay trên không, vươn hai chân ra trước, chạm đất. Thành tích được tính từ mũi bàn chân khi xuất phát đến bộ phân thân người cham đất khi rơi xuống (thường là gót chân). - Bài test nằm sấp chống đẩy, tay đặt trên bục cao 30cm (tính số lần tối đa). Từ tư thế chuẩn bị nằm sấp tay chống thẳng, thân người giữ thẳng. Sau đó, khuỷu tay hạ thân thấp gần sát mặt đất, tiếp tục đẩy thành chống nằm. Động tác thực hiện liên tục cho đến khi mỏi. Khi thực hiện, chú ý thân người lên xuống nhịp nhàng. d. Bài test đánh giá độ dẻo: (Đứng trên bục gạp với sâu về trước) Tư thế chuẩn bị: Đứng trên bục cao, khi thực hiện, người tập từ từ gập người về trước, xuống dưới, hai tay duỗi thẳng, với sâu, tỳ ngón tay trỏ vào bảng vhia độ dài bằng cm, đã vạch sẵn phía mặt trước bục. Thành tích được tính từ mặt phẳng của bàn chân đến điểm cham của ngón tay giữa. e. Đánh giá tố chất khéo léo: Bài phối hợp động tác (tính điểm 10) Phối hợp động tác của tay, thân mình và chân. Tư thế ban đầu: Đứng nghiêm. Nhịp 1: Bước chân phải ra trước, tay trái dang ngang. Nhịp 2: Bước chân trái ra trước, tay phải dang ngang. Nhịp 3: Thu chân phải, hai tay quay vòng xuống dưới. Nhịp 4: Nhẩy bật quay 180 độ, hai tay hạ xuống. Nhịp 5 - 8 cũng như trên, song bắt đầu từ chân trái, tay phải. Giáo viên làm mẫu bài thử một lần theo phương pháp phân chia, sau đó người tập tự thực hiện, làm theo nhịp đếm của giáo viên. Đánh giá: - 10 điểm nếu thực hiện tốt bài thử. - 9,5 điểm nếu phạm 1 sai sót (thí dụ không phối hợp được động tác của tay, chân hay quên một cử động). - 9 điểm nếu mắc 2 sai sót. - 8,5 điểm nếu mắc 3 sai sót. Trừ điểm được tiếp tục theo số lỗi sai sót. 2.1.4.Phương pháp kiểm tra y học. Trong nghiên cứu, chúng tôi kiểm tra trạng thái chức năng của hệ thống tim mạch và hệ hô hấp. Để kiểm tra trạng thái chức năng của tim mạch, chúng tôi đã dùng thử nghiệm Harvard. Để kiểm tra hệ thống hô hấp, chúng tôi sử dụng phế dụng kế để đo dung tích sống. a. Thử nghiệm Harvard (bước bục Harvard) Thử nghiệm trên, được nhiều nhà nghiên cứu dùng để đánh giá trạng thái tim mạch của người tập. +Phương pháp tiến hành: Trong thử nghiệm này ta kiểm tra thực hiện một lượng vận động là bước lên độ cao 45cm, tần số bước là 30 lần trong 1 phút. Bước trong thời gian là 5 phút. Nếu người được kiểm tra không thể bước được, tình tính thời gian thực tế đã thực hiện. +Cách đánh giá như sau: Đo mạch ở tư thế ngồi ở phút hồi phục sau vận động thứ 2,3,4. Trong đó, mạch ở 30 giây đầu của mỗi phút. Kết quả được tính thành chỉ số Harvard, theo công thức sau t.100 Chỉ số Harvard = (f1 + f2 + f3). 2 Thời gian thực tế bước bục được tính bằng giây (nếu thực hiện đúng quy định 5 phút thì =300). F1 + F2 + F3: Là số mạch đập trong 30 giây đầu của phút hồi phục thứ 2,3,4. Chỉ số Harvard được đánh giá như sau: +55: kém. +55 - 64: dưới trung bình. +65 - 74: trung bình. +75 - 89: trên trung bình. +90: tốt. b. Dung tích sống: Đơn vị (lít) hoặc (ml), dụng cụ đo là phế dung kế. Cách tiến hành: cho người tập hít một hơi thật sâu, sau đó mồm ngậm vào vòi thổi của phế dung kế. Lúc đầu thổi từ từ, sau đó nhanh dần, cuối cùng dùng hết sức thổi thật mạnh. Người được đo thử nghiệm 3 lần, lấy kết quả cao nhất. 2.1.5.Phương pháp đo hình thể Để đánh giá sự phát triển của cơ thể và sức khỏe, trong nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành đo chiều cao, cân nặng, chu vi lồng ngực và chỉ số Pinhê. a. Đo chiều cao (cm) Tư thế chuẩn bị: Đứng thẳng, sao cho 4 điểm chạm cơ thể là gót chân, mông và vai cham vào mặt thẳng đứng của thước. Khi đó, gót chân, thân người giữ ngay thẳng, mắt nhìn thẳng, không được kiễng gót. b. Cân nặng (kg) Tư thế chuẩn bị: Đứng thẳng trước bàn cân, bước chân lên bàn cân, sao cho trọng lượng cơ thể phân phối đều trên bề mặt cân. Trọng lượng cơ thể được tính khi kim đồng hồ ổn định thăng bằng. c. Đo chi vi lồng ngực (cm) Người được đo giữ tư thế đứng thẳng, hai tay duỗi sát thân mình, nhịp thở bình thường, không hít sâu hoặc nín thở. Khi đo bằng thước dây, đo vòng trước ngực ra phía sau lưng sao cho toàn bộ mặt dây trên một mặt phẳng. d. Chỉ số Pi nhê Pinhê = cao (cm) - [cân nặng (kg) + vòng ngực trung bình (cm)] Chỉ số Pinhê được đánh giá như sau: 20,9 – 24,1: rất khỏe. 24,1 – 27,4: khỏe 27,5 – 33,9: trung bình 34,0 – 37,2: yếu 37,3 – 4,5: rất yếu 2.1.6.Phương pháp thực nghiệm sư phạm. Phương pháp thực nghiệm sư phạm được sử dụng để đánh giá hiệu quả của chương trình thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao trình độ thể lực chung của nữ sinh viên. Để tiến hành thực nghiệm sư phạm, chúng tôi đã dùng hình thức thực nghiệm so sánh trình tự trên một nhóm nữ sinh trường đại học dân lập Thăng Long Hà Nội. Đối tượng thực nghiệm sư phạm là nữ sinh năm thứ ba, sau khi đã học xong học kỳ 5 chương trình GDTC nội khóa, gồm 36 người. Trước khi thực nghiệm sư phạm, chúng tôi kiểm tra trình độ thể lực của nữ sinh và ghi vào biên bản. Thực nghiệm sư phạm được thực nghiệm trong thời gian 5 tháng, chia làm hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Học bài tập thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền cơ bản. - Giai đoạn 2: Học bài tập thể dục dưỡng sinh tổng hợp cổ truyền nâng cao Các bài tập được trình bày ở phần phụ lục của luận văn khoa học. Mỗi giai đoạn nghiên cứu gồm 6 tuần. Mỗi tuần tập 3 buổi, tổng số buổi một giai đoạn là: 6 tuần x 3 buổi tập = 18 buổi tập. Số buổi tập cả hai giai đoạn là 18 buổi x 2 = 36 buổi tập. Sau mỗi giai đoạn thực nghiệm, trình độ thể lực của nữ sinh đều được đánh giá kiểm tra và ghi kết qủa vào các biên bản chuyên môn. So sánh trình độ thể lực chung sau mỗi giai đoạn nghiên cứu với nhau và với lúc trước thực nghiệm sẽ là bằng chứng về hiệu quả biến đổi trình độ thể lực chung của nữ sinh viên tham gia thực nghiệm sư phạm. 2.2.7. Phương pháp toán học thống kê. Phương pháp này được sử dụng để xử lý số liệu thu thập trong quá trình cứu. Các công thức được sử dụng trong đề tài: Trị số trung bình, phương sai, độ lệch chuẩn, so sánh hai số trung bình quan sát. * Số trung bình quan sát Trong đó: : Số trung bình quan sát. xi: Giá trị các mẫu riêng biệt. n: Kích thước tập hợp mẫu. : Ký hiệu tổng. * Phương sai: (với n ≥ 30) Trong đó: d2: Phương sai của mẫu n ≥ 30. xi: Giá trị các mẫu riêng biệt. n: Kích thước tập hợp mẫu. * Độ lệch chuẩn: d = Trong đó: d2: Phương sai của mẫu n ≥ 30. d: Độ lệch chuẩn * So sánh hai số trung bình quan sát. t = (với n ≥ 30) Trong đó: : Số trung bình của tập hợp mẫu quan sát nhóm A. : Số trung bình của tập hợp mẫu quan sát nhóm B. d2A: Phương sai của nhóm A. d2B: Phương sai của nhóm B. 2.2.Tổ chức tiến hành nghiên cứu: 2.2.1.Thời gian nghiên cứu: Luận văn khoa học được tiến hành từ tháng 10 năm 2005 đến tháng 6 năm 2008, được thực hiện trong 3 giai đoạn: a. Giai đoạn 1: Từ tháng 10/2005 đến tháng 7/2006, các công việc bao gồm: - Lựa chọn đề tài, xây dựng và bảo vệ đề cương nghiên cứu khoa học, tại Hội đồng cao học khóa 14. - Nghiên cứu về phương pháp. - Giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu thứ nhất (tiến hành phỏng vấn) đối tượng nghiên cứu và diều tra, đánh giá thể chất của nữ sinh viên. b. Giai đoạn 2: Từ tháng 8 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007, giải quyết các nhiệm vụ sau đây: - Xử lý số liệu nghiên cứu của nhiệm vụ 1. - Thu thập tài tliệu, hình thành chương tổng quan của đề tài. - Giải quyết nhiệm vụ thứ 2. c. Giai đoạn 3: Từ tháng 8 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008, các nhiệm vụ được giải quyết gồm có: - Giải quyết nhiệm vụ thứ 3 (thực nghiệm sư phạm) - Xử lý số liệu nghiên cứu. - Hình thành kết cấu luận văn và viết tong phần. - Chuẩn bị và tiến hành bảo vệ luận văn cao học. - Viết bài cho tạp chí khoa học, kỷ yếu hội nghị khoa học và bảo vệ kết quả nghiên cứu trước Hội đồng nghiệm thu. 2.2.2.Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên đối tượng nữ sinh viên trường đại học Dân Lập Thăng Long gồm 216 người, bao gồm 58 của năm thứ nhất, 48 của năm thứ hai, 56 của năm thứ ba và 54 của năm thứ tư. Đối tượng này cũng được kiểm tra sự phát triển thể lực. Trong giai đoạn 2, giai đo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNghiên cứu hiệu quả của chương trình thể dục tổng hợp cổ truyền đối với việc nâng cao sức khoẻ cho nữ sinh trường đại học Dân Lập Thăng Long.docx
Tài liệu liên quan