Một trong những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài nhằm từng bước xã hội hóa công tác bảo vệ rừng là việc chú trọng phối hợp cùng chính quyền địa phương trong công tác phát triển kinh tế vùng đệm, nhằm góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cộng đồng, giảm sức ép vào vườn, trên nguyên tắc gắn quyền lợi và nghĩa vụ để khuyến khích, động viên, cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học.
Trong những năm qua, nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức như UNDP, SNV Tropenbos, Đại sứ quán Đức, Đại sứ quán Anh, WWF, DED, EnBW. đã triển khai nhiều dự án nhỏ đầu tư trực tiếp cho cộng động vùng đệm hưởng lợi như: hỗ trợ cho nông dân vay vốn luân phiên phát triển sản xuất, xây dựng bếp đun tiết kiệm nhiên liệu, hỗ trợ và chuyển giao công nghệ kỹ thuật trong trồng trọt lúa nước, xây dựng thủy lợi nhỏ, xây dựng nguồn nước tự chảy, phát triển mô hình du lịch cộng đồng, nuôi cá nước ngọt, cung cấp con giống gia súc, gia cầm chăn nuôi (dê, lợn.), xây dựng vườn thuốc nam gia đình, nâng cao nhận thức bảo tồn.
9 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 5042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu kinh nghiệm bảo tồn và phát triển vườn quốc gia Bạch Mã, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh nghiệm bảo tồn và phát triển Vườn quốc gia Bạch Mã
Voọc ngũ sắc, vườn quốc gia Bạch Mã - Ảnh: ST
1. Khái quát về Vườn quốc gia Bạch Mã
Theo Quyết định số 01/QĐ -TTg ngày 02/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ, Vườn quốc gia Bạch Mã (VQGBM) có tổng diện tích 37.487 ha, trong đó được quy hoạch thành: phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (12.064,8 ha); phân khu phục hồi sinh thái (20.234 ha); phân khu dịch vụ hành chính (5.188,2) ha. VQGBM theo quy hoạch mới được nằm trên địa bàn hành chính của hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam.
Bạch Mã có một vị trí địa lý đặc biệt là phần cuối cùng của dãy Trường Sơn Bắc, là trung tâm của dải rừng xanh tự nhiên còn lại duy nhất ở Việt Nam nối từ biển đến biên giới Việt - Lào, nơi có hệ sinh thái rất phong phú và đa dạng về hệ động thực vật mang tính đặc trưng là có sự giao thoa giữa hai luồng khí hậu miền Bắc và miền Nam; núi rừng tự nhiên của Bạch Mã còn là trung tâm nối các quần thể di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam đã được UNESCO công nhận. Bạch Mã còn là khu nghỉ mát nổi tiếng từ thời Pháp thuộc, khí hậu mát mẻ về mùa hè, lại gần các bãi biển nổi tiếng như Cảnh Dương, Lăng Cô, nên Bạch Mã được ví như Đà Lạt của miền Trung.
Tính đa dạng sinh học của VQGBM
VQGBM có 2.147 loài thực vật (trong đó có 185 loài là đặc hữu của Việt Nam, 54 loài quí hiếm được đưa vào sách Đỏ Việt Nam); trong đó 3 ngành nấm 332 loài; 1 ngành rêu với 87 loài; 4 ngành khuyết thực vật gồm 180 loài; và 2 ngành thực vật có hạt gồm 1.548 loài (hạt trần có 21 loài). Về động vật có 1.534 loài, trong đó lớp côn trùng có 894 loài; lớp cá xương có 57 loài; lưỡng cư bò sát có 93 loài thuộc; lớp chim có 358 loài; lớp thú có 132 loài.
Tuy nhiên, hệ sinh thái rừng nhiều nơi đã bị suy thoái, do bom đạn và chất độc màu da cam trong chiến tranh, tình hình khai thác lâm sản trái phép và săn bắt động vật rừng diễn khá ra phổ biến ở nhiều địa phương, tập quán của đồng bào dân tộc phát rừng làm nương rẫy, tình trạng mở rộng trồng cây nông nghiệp, công nghiệp, dân số ngày càng tăng cao, nhận thức bảo tồn còn hạn chế, năng suất cây trồng thấp, thiên tai lũ lụt hạn hán thường xuyên đe doạ hàng năm... Mặt khác, do nhu cầu công nghiệp hoá và xu thế đô thị hoá trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, những nguy cơ và thách thức càng trở nên nghiêm trọng hơn đối với VQGBM.
Chức năng, nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học tại VQGBM
VQGBM có các chức năng, nhiệm vụ chính sau:
- Một là, bảo vệ nguồn tài nguyên, bảo vệ các hệ sinh thái rừng phong phú và đa dạng sinh học trong phạm vi ranh giới quy hoạch của VQGBM.
- Hai là, bảo tồn các giá trị khoa học đối với hệ động vật, thực vật điển hình của vùng giao thoa giữa hai luồng khí hậu miền Bắc và miền Nam và phân bố theo đai cao từ thấp đến 1.700 m so với mặt biển; bảo tồn các loài động vật đặc hữu và quý hiếm như: Gà lôi lam mào trắng, Trĩ sao, Voọc ngũ sắc, Sao la, Mang lớn.. và các loài thực vật quý hiếm như Trầm hương, Trắc, Gụ, Cẩm lai...
- Ba là, duy trì chức năng phòng hộ đầu nguồn của các lưu vực sông Truồi, sông Tả Trạch (thượng nguồn sông Hương), sông Cu Đê, sông Côn... góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trong khu vực.
- Bốn là, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất của Vườn quốc gia, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu bảo tồn về động vật, thực vật hệ sinh thái điển hình của vườn. Đồng thời tạo thuận lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, phục vụ việc đào tạo, tham quan học tập theo quy định của quy chế quản lý rừng.
- Năm là, khai thác thế mạnh cảnh quan thiên nhiên để phát triển du lịch sinh thái, hướng dẫn giúp đỡ người dân trong vùng tạo việc làm, không ngừng cải thiện đời sống cho cộng đồng dân cư, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo vệ môi trường sinh thái.
2. Các giải pháp chủ yếu bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học
2.1. Giáo dục môi trường, nâng cao nhận thức bảo tồn cho cộng đồng và du khách
Một trong các giải pháp có tầm chiến lược lâu dài để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học là công tác giáo dục môi trường, nâng cao nhận thức bảo tồn cho cộng đồng dân cư trong vùng đệm và du khách đến thăm, chương trình này ưu tiên triển khai lồng ghép với nhiều hoạt động khác như thực thi pháp luật, phát triển cộng đồng, du lịch sinh thái,... xuyên suốt trong quá trình quản lý bảo vệ và xây dựng phát triển vườn.
VQGBM đã thường xuyên tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân bằng nhiều hình thức để nâng cao nhận thức bảo tồn đa dạng sinh học, nhằm ngăn chặn việc phá rừng, săn bắt động rừng trái phép, phòng cháy chữa cháy rừng,... như tổ chức 58 đợt truyền thanh lưu động, 116 cuộc họp ký cam kết cho hơn 2.097 hộ sống ven rừng, phát hàng vạn tờ rơi, làm áp phích, xây dựng quy chế bảo tồn, hương ước bảo vệ rừng cho thôn bản, đối thoại với phường hội thợ săn, các hội đoàn ở các địa phương, chuyển biến tích cực từ phương thức “chống” sang phương thức ”phòng” là chính.
Hoạt động giáo dục môi trường đã mang lại những kết quả hết sức khả quan, được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Trong điều kiện nguồn ngân sách còn hạn chế, nhờ sự tài trợ kinh phí của các tổ chức như UNDP, WWF, SNV, DED... VQGBM đã tổ chức một mạng lưới cộng tác viên tình nguyện tiến hành một số chương trình giáo dục nâng cao nhận thức bảo tồn như: duy trì chương trình giáo dục môi trường với ấn phẩm “Cây là bạn của chúng ta”, thành lập được 46 câu lạc bộ Xanh cho 17 trường trung học, thành lập Đội Tình nguyện Xanh Bạch Mã, đánh dấu một bước ngoặc mới trong nhận thức của thanh niên địa phương đối với công tác bảo vệ thiên nhiên và môi trường. VQHBM cũng đã tổ chức sinh hoạt hè với các hình thức sinh hoạt câu lạc bộ "Chú ếch con", thử nghiệm "Trại khám phá thiên nhiên Bạch Mã"..., cung cấp hơn 80.000 ấn phẩm "Rừng xanh", 3.200 cuốn vở và 50.000 nhãn vở với các thông điệp về bảo tồn đa dạng sinh học cho học sinh ở vùng đệm của vườn; và nhiều hoạt động khác như tổ chức biểu diễn văn nghệ, múa rối, chiếu phim, thi vẽ tranh về chủ đề bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học ...
Chính nhờ làm tốt công tác giáo dục môi trường nên đã nâng cao được nhận thức, làm thay đổi hành vi và cảm hóa nhiều đối tượng trong xã hội, họ đã có thái độ ứng xử tốt hơn trong việc gìn giữ môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, nhiều người đã chuyển đổi ngành nghề, khai thác tài nguyên đa dạng sinh học một cách lâu dài và bền vững hơn, tham gia phát triển rừng và nhận khoán bảo vệ rừng tự nhiên...
2.2. Phát triển du lịch sinh thái bền vững, khuyến khích cộng đồng tham gia các hoạt động dịch vụ du lịch
Du lịch sinh thái (DLST) là một dạng du lịch tự nhiên có trách nhiệm hỗ trợ cho các mục tiêu bảo vệ đa dạng sinh học và góp phần vào việc phát triển nông thôn, nên du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia không có hoạch định hợp lí sẽ nảy sinh mâu thuẫn với bảo tồn.
Những năm gần đây, lễ hội văn hoá, thể thao, du lịch “ấn tượng Bạch Mã” được tổ chức định kỳ hàng năm vào tuần lễ vàng (30/4 - 1/5), đây là một trong những sự kiện lớn nổi bật và quan trọng, mở ra một giai đoạn phát triển mới của vườn theo xu hướng của thế giới “Bảo tồn gắn với phát triển bền vững” nhằm khai thác tiềm năng du lịch ở các vườn quốc gia một cách bền vững.
Việc chọn lựa phương án xây dựng tuyến điện cáp ngầm là một chủ trương sáng suốt nhằm bảo vệ được đa dạng sinh học và cảnh quan môi trường, tránh đựơc thiệt hại hơn 50 ha rừng nguyên sinh vì phải chặt trắng để thi công và bảo dưỡng (nếu chọn phương án tuyến kéo dây điện có hệ thống cột trần từ chân núi lên đỉnh núi). Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng vừa phục vụ quản lý bảo tồn đa dạng sinh học vừa kết hợp để phục vụ dịch vụ tham quan, nghiên cứu học tập và từng bước cải thiện tình hình nông nghiệp nông thôn và phục vụ du khách ngày càng tốt hơn thông qua các chương trình du lịch.
Vườn cũng đã tạo điều kiện giúp đỡ, tư vấn kỹ thuật cho các cộng đồng địa phương tham gia tổ chức các mô hình DLST trên địa bàn vùng đệm như ở Thác Mơ (Nam Đông), Nhị Hồ, Khe Su (Phú Lộc). Đây là những mô hình DLST do cộng đồng quản lý, tạo nên thu nhập chính đáng và giải quyết công ăn việc làm cho lao động tại địa phương.
Kết hợp các loại hình du lịch sinh thái, du lịch tâm linh, du lịch nghiên cứu... ngày càng được bổ sung xây dựng các tuor mới như: gọi chim trời, quan sát động vật hoang dã, thăm nhà sưu tập phong lan, cây thuốc nam, trung tâm du khách, Bạch Vân Tự, tượng đài Mây hoá Quan Âm, Thiền Viện Trúc Lâm và khám phá các đường mòn thiên nhiên Đỗ Quyên, Trĩ Sao, Vọng Hải Đài... tất cả các sản phẩm này đã thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, học tập ngày càng đông (bình quân 15.000 - 20.000 khách /năm, chưa kể 30.000 du khách đến thăm các điểm mô hình DLST đã chuyển giao cho cộng đồng trực tiếp quản lý), góp phần tích cực tăng ngân sách cho địa phương, mang lại lợi ích trực tiếp đáng kể đối với cộng đồng địa phương và trang trải một phần ngân sách cho công tác bảo tồn của vườn.
2.3. Phát triển kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng dân cư vùng đệm
Một trong những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài nhằm từng bước xã hội hóa công tác bảo vệ rừng là việc chú trọng phối hợp cùng chính quyền địa phương trong công tác phát triển kinh tế vùng đệm, nhằm góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cộng đồng, giảm sức ép vào vườn, trên nguyên tắc gắn quyền lợi và nghĩa vụ để khuyến khích, động viên, cộng đồng tham gia bảo tồn đa dạng sinh học.
Trong những năm qua, nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức như UNDP, SNV Tropenbos, Đại sứ quán Đức, Đại sứ quán Anh, WWF, DED, EnBW... đã triển khai nhiều dự án nhỏ đầu tư trực tiếp cho cộng động vùng đệm hưởng lợi như: hỗ trợ cho nông dân vay vốn luân phiên phát triển sản xuất, xây dựng bếp đun tiết kiệm nhiên liệu, hỗ trợ và chuyển giao công nghệ kỹ thuật trong trồng trọt lúa nước, xây dựng thủy lợi nhỏ, xây dựng nguồn nước tự chảy, phát triển mô hình du lịch cộng đồng, nuôi cá nước ngọt, cung cấp con giống gia súc, gia cầm chăn nuôi (dê, lợn...), xây dựng vườn thuốc nam gia đình, nâng cao nhận thức bảo tồn...
Vườn đã tổ chức bàn giao 1.442 ha rừng trồng phòng hộ thuộc chương trình 327, 661 tại vùng đệm cho hàng trăm hộ gia đình của cộng đồng địa phương thuộc hai huyện Phú Lộc và Nam Đông theo chính sách 178.
Ngoài ra, đơn vị còn hỗ trợ về kỹ thuật xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trồng xen cây ăn quả và cây bản địa để cải tạo vườn tạp cho 450 hộ dân của các xã vùng đệm thông qua các lớp tập huấn về chuyển giao công nghệ kỹ thuật. Kết quả đã có 150 hộ xây dựng mô hình này với tổng diện tích là 82 ha đã được đầu tư 11.100 cây bản địa, 2.220 cây ăn quả, 9.000 cây tre điền trúc. Hàng năm, Vườn đã hợp đồng với hàng trăm lao động trồng từ 50 -100 ha rừng đặc dụng, khoán bảo vệ rừng 8.000 ha và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh 500 ha rừng tự nhiên theo chương trình 661 để thực hiện mục tiêu phục hồi hệ sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học của Vườn. Nhờ đó mà không ngừng xây dựng, hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả của lực lượng khoán bảo vệ rừng hoạt động tập trung gồm các nhóm hộ gia đình kết hợp với lực lượng kiểm lâm tạo thành sức mạnh tổng hợp hoạt động có hiệu quả hơn. Đây được xem như một mô hình xã hội hóa công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng trên cơ sở gắn liền giữa quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng dân cư địa phương theo các chương trình dự án. Chính sự đầu tư lồng ghép từ những chương trình này đã góp phần không nhỏ để cải tạo đời sống kinh tế của đại đa số cộng đồng dân cư các xã vùng đệm, giảm thiểu tình trạng phá rừng trong khu vực.
2.4. Điều tra đánh giá, nghiên cứu khoa học
Để có thể xác định được các mục tiêu bảo tồn và phát triển bền vững, chương trình đánh giá nghiên cứu khoa học được đặt ra một cách thường xuyên. Khi mới thành lập vườn năm 1991, VQGBM chỉ thống kê được 501 loài thực vật để bảo vệ, nhưng đến năm 2007 số lượng cá thể đã thống kê được 2.147 loài cần phải được cập nhật để bảo vệ, hoặc trước đây mục tiêu bảo vệ các loài quí hiếm như Sao la (Pseudoryx nghetinhensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis) đều không có trong danh mục bảo vệ, nay qua quá trình đánh giá, điều tra nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều loài mới cần phải bổ sung vào mục tiêu bảo tồn,...
Kết quả nghiên cứu và đánh giá các nhóm loài thực vật có nguy cơ bị đe doạ
Trong chương trình hành động đa dạng sinh học ở Việt Nam, Bạch Mã là 1 trong 6 khu vực để bảo tồn đa dạng thực vật, hoặc Bạch Mã là một trong 7 khu vực tập trung các loài quí hiếm đang có nguy cơ bị đe dọa (Mackinnon 1991,1994).
- Thực vật của VQGBM có 125 loài nguy cấp chiếm 7,58% tổng số loài, bao gồm 91 chi (chiếm 12,08% số chi), 49 họ (chiếm 25,52% số họ) và 4 ngành, trong đó ưu thế thuộc ngành Hạt kín chiếm 90,4%. Các loài nguy cấp tập trung ở các họ Phong lan (Orchidaceae) 23 loài, họ Dầu (Dipterocarpaceae) 10 loài, họ Mua (Melastomataceae) 9 loài và họ Tiết dê (Menispermaceae) 7 loài và ở các chi Dipterocarpus - 3 loài, Dalbergia - 3 loài, Medinilla - 3 loài, Stephania - 4 loài, Bulbophyllum - 3 loài, Cymbidium - 3 loài, Dendrobium - 5 loài.
- Toàn VQGBM có 64 loài nguy cấp ở phạm vi Việt Nam, chiếm 3,88% số loài của Vườn được đưa vào trong Sách Đỏ - Phần thực vật (1996) bao gồm 3 loài đang nguy cấp (E), 17 loài sẽ nguy cấp (V), 22 loài hiếm (R), 11 loài bị đe dọa (T) và 11 loài biết không chính xác (K). Trong đó ngành Hạt kín có 52 loài chiếm 81,25% của tổng số. Chiếm đa số là các loài thuộc lớp Hai lá mầm: 38 loài chiếm 59,4% số loài bị đe doạ. Có 3 họ có số loài có nguy cơ suy thoái cao là: họ Phong lan (Orchidaceae) với 7 loài; họ Dầu (Dipterocarpaceae) có 4 loài; họ Kim giao (Podocarpaceae) cũng có 4 loài.
- Lần đầu tiên, VQGBM đã bổ sung 23 loài nguy cấp ở phạm vi toàn cầu, chiếm 1,4% tổng số loài của Vườn có tên trong Danh lục thực vật bị đe dọa của IUCN (2000), bao gồm 6 loài cực kỳ nguy cấp (CR), 8 loài nguy cấp (EN), 5 loài sắp nguy cấp (VU), 1 loài ít nguy cấp nhưng sắp bị đe dọa (LC/nt), 3 loài thiếu dữ liệu (DD).
- Có 23 loài được bảo vệ theo pháp luật của Việt Nam, chiếm 1,39% số loài của Vườn, bao gồm 6 loài thuộc nhóm IA, 17 loài thuộc nhóm IIA. Đặc biệt có 26 loài nguy cấp ở phạm vi buôn bán toàn cầu chiếm 1,67% số loài của Vườn được ghi nhận trong các Phụ lục của Công ước CITES (2001).
- Kết quả phỏng vấn điều tra người dân địa phương và các người có liên quan khác bước đầu đã cho phép xác định, ở khu vực nghiên cứu có 54 loài nguy cấp trong phạm vi của VQGBM chiếm 3,28% số loài của Vườn. Bao gồm 43 chi, 28 họ, 3 ngành. Trong đó ngành Hạt kín chiếm tỷ lệ lớn nhất 88,89%, tiếp đến ngành Hạt trần chiếm tỷ lệ 9,26% và cuối cùng là ngành Dương xỉ 1,85%. Các họ có nhiều loài: họ Phong lan (Orchidaceae) 9 loài, họ Dầu (Dipterocarpaceae) 5 loài, họ Trúc đào (Apocynaceae) 4 loài. Có 3 loài được đánh giá tuyệt chủng (EX) chiếm 5,56%, 17 loài đang bị nguy cấp (E) chiếm 31,48%, 16 loài sắp bị nguy cấp (V) chiếm 29,63%, có 13 loài hiếm (R) chiếm 24,07%, có 5 loài bị đe doạ (T) chiếm 9,26%. Trong đó bổ sung thêm 13 loài lần đầu tiên được xem là nguy cấp ở Bạch Mã cần có biện pháp bảo vệ.
Kết quả nghiên cứu và đánh giá các nhóm loài động vật có nguy cơ bị đe doạ
Qua kết quả nghiên cứu từ năm 1991 - 2007, thống kê được 1.543 loài động vật, riêng lớp thú vào năm 1991 mới thống kê đuợc 55 loài, nay đã thống kê được 132 loài.
Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy, hệ động vật Bạch Mã có 4 loài là đặc hữu hẹp của Bạch Mã, chiếm 0,3% tổng số loài động vật của Vườn, 22 loài là đặc hữu của Việt Nam, chiếm 1,5%, 88 loài quí hiếm được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam, chiếm 4,9%. Đặc biệt, chỉ tính riêng về lớp thú thì Bạch Mã đã có tới 46 loài quí hiếm, chiếm 3,1% tổng số loài động vật của Vườn và chiếm 35% trong tổng số loài thú ở Bạch Mã, trong đó 17 loài (12,88%) có tên trong Sách Đỏ Thế giới (2000): 4 loài mức nguy cấp (EN), 8 loài mức sẽ nguy cấp (VU), 3 loài mức ít nguy cấp (LR), 2 loài mức hiếm nhưng chưa đủ dữ liệu (DD); 36 loài (27,27%) có tên trong phụ lục của Nghị định 48/2002/NĐ-CP: 20 loài nhóm IB, 16 loài nhóm IIB; 24 loài (18,18%) có trong phụ lục của công ước CITES: 13 loài nhóm I, 9 loài nhóm II và 2 loài nhóm III.
Kết quả nghiên cứu và đánh giá chung về điều kiện tự nhiên (những đặc điểm nổi bật về tài nguyên thiên nhiên) xác định:
- Đây là vùng có nhiều loài bị đe dọa ở mức độ trong nước và thế giới.
- Đây là một vùng được công nhận là cái nôi của vùng với nhiều loài đặc hữu, cả ở trong nước và thế giới.
- Là vùng phân chia hai miền về mặt địa lý sinh học và khác nhau về độ cao (đến 1.700 m so với mặt biển), thêm vào đó lại có một số lượng lớn các loài trên một diện tích hẹp.
- Là một yếu tố quan trọng trong sự duy trì và phục hồi dải rừng xanh còn lại cuối cùng ở Việt Nam được nối liền với núi non của Lào để duy trì quần thể thú lớn ở miền Trung Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu và đánh giá khoa học công nghệ bảo tồn nguồn gen
Từ những dẫn liệu do kết quả điều tra đa dạng sinh học ở Bạch Mã, việc nghiên cứu bảo tồn nguồn gen là một hướng nghiên cứu quan trọng nhằm đánh giá tiềm năng và đề xuất các giải pháp bảo tồn tại chỗ (in-situ conservation), bảo tồn chuyển chỗ (ex-situ conservation) hoặc bảo tồn trang trại (on-farm conservation) đối với các loài đang có nguy cơ đe doạ của vườn.
Trong khuôn khổ các đề tài nghiên cứu bảo tồn nguồn gen, đơn vị đã tổ chức và phối hợp nghiên cứu thành công, bảo tồn được một số loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng như các đề tài: Nghiên cứu đặc điểm sinh lý sinh thái và phương pháp nhân giống cây Tùng Bạch Mã (Dacrydyum elatum (Roxb) Wallich ex Hooker), cây Hồi hoa nhỏ (Illicium parvifolium Merr.), cây Re ương (Cinnamomum parthenoxylum (Jack) Meissn, Cây Chóc máu (Salacia chinensis L.); nghiên cứu sự phân bố các loài thú Linh trưởng và đề ra các giải pháp bảo tồn; nghiên cứu sinh thái Hổ (Panthera tigris),...
Ngoài ra, Vườn còn phối hợp với các viện, trường nghiên cứu một số đề tài đã có những kết quả đáng kể như: Nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở VQGBM, trong khuôn khổ dự án "Bảo tồn cây thuốc cổ truyền" của Viện Dược liệu. Đề tài được tiến hành từ năm 1998 và đã thống kê được 810 loài cây thuốc có ở Bạch Mã và đã phát hành nhiều ấn phẩm công bố kết quả của công trình này. Hoặc đề tài Nghiên cứu bảo tồn một số loài cây quí hiếm ở VQGBM, được tiến hành từ năm 2003 - 2008, kết quả bước đầu đã xác định được vùng phân bố, đặc điểm tình hình tái sinh của các loài Kim Giao lá nhỏ, Re Hương, Lim Xanh, Chò đen và Chóc máu...
Kết quả của các đề tài nghiên cứu nói trên đã có tác dụng tốt cho lực lượng kiểm lâm, cán bộ khoa học đã nắm chắc tình hình tài nguyên đa dạng sinh học của Vườn, phục vụ đắc lực cho việc đề xuất các giải pháp để quản lý, bảo vệ và phát triển có hiệu quả nguồn tài nguyên của Vườn. Cũng thông qua công tác nghiên cứu khoa học, Vườn đã có nhiều cán bộ khoa học được đào tạo trong và ngoài nước có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành lâm nghiệp, sinh học, nông nghiệp,... tái phục vụ cho sự nghiệp bảo tồn ở Bạch Mã cũng như góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho nhiều dự án khác trong khu vực ở miền trung .
2.5. Quản lý, bảo vệ nguyên vẹn diện tích rừng và nguồn tài nguyên đa dạng sinh học bằng các giải pháp khác và thực thi pháp luật
Trong những năm qua, Vườn đã kiên trì, liên tục tổ chức truy quét các đối tượng phá rừng trái phép. Thực hiện Chỉ thị 286, 287/TTg (trước đây) và Chỉ thị 12/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, toàn đơn vị đã dấy lên một phong trào thi đua bảo vệ rừng. Nhờ vậy, đã thực sự đẩy lùi được tệ nạn phá rừng tự nhiên cũng như rừng trồng. Vườn đã tổ chức được hàng ngàn đợt tuần tra kiểm soát, truy quét tại rừng nhiều ngày, kết quả các khu vực trước đây được xem là trọng điểm bị lâm tặc tàn phá đến nay hầu như được chấm dứt. Công tác tuyên truyền bảo vệ động vật hoang dã cũng được làm thường xuyên, nhờ đó đã vận động và xây được mạng lưới quần chúng tham gia báo tin cho kiểm lâm để triệt phá, tháo dỡ nhiều loại giàn bẫy thú của lâm dân. Thời tiết diễn biến có phức tạp, nhưng toàn bộ diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ tốt, không để xảy ra cháy rừng, hoặc chỉ có một vài điểm cháy nhỏ lẻ đều được dập tắt kịp thời. Nhờ triển khai tốt phương án phòng chống, chữa cháy rừng nên các trọng điểm cháy trước đây như Hồ Truồi, Coldebay trong những năm qua đã giảm thiểu tối đa về thiệt hại do cháy rừng gây ra.
Tuy nhiên, ngoài việc tuyên truyền vận động quần chúng về ý thức bảo tồn đa dạng sinh học, Vườn cũng từng bước đã tăng cường pháp chế trong lĩnh vực quản lí bảo tồn. Việc xử phạt vi phạm hành chính rất nghiêm minh, hiệu quả giáo dục răn đe đã có kết quả rõ rệt, ý thức chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được nâng cao. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ trong 5 năm trở lại đây đã có 286 vụ vi phạm lâm luật, đặc biệt có 1 vụ vi phạm phải chuyển truy cứu trách nhiệm hình sự, còn lại xử lý hành chính 287 vụ; tịch thu gần 85m3 gỗ xẻ quý hiếm, thu được hàng ngàn dụng cụ phá rừng (cưa, rìu, rựa,...), hơn 14.000
dây bẫy các loại và nhiều loài động vật hoang dã được cứu hộ thả về nơi sinh cảnh tự nhiên của chúng.
Đạt được những kết quả trên, không thể không nói đến vai trò phong trào quần chúng tham gia bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học ở các làng, bản địa phương cùng với sự nỗ lực và lòng nhiệt tình yêu nghề bám rừng của lực lượng kiểm lâm đã không quản ngại khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ rừng.
Ngoài ra, Vườn còn lồng ghép các các giải pháp khác góp phần quan trọng thúc đẩy công tác bảo tồn và phát triển vườn như làm tốt công tác hợp tác quốc tế; từng bước có giải pháp cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ công nhân viên chức, đặc biệt ở các sâu vùng xa; có kế hoạch đào tạo nguồn lực; tổ chức xây dựng và giáo dục lực lượng có phẩm chất đạo đức, yêu rừng, yêu nghề đối với sự nghiệp bảo tồn; làm tốt công tác chính sách xã hội trên địa bàn; đặc biệt luôn luôn coi trọng công tác phối hợp cấp uỷ, chính quyền và các ngành hữu quan bảo đảm nguyên tắc lấy dân làm gốc để xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát triển Vườn theo đúng định hướng và những mục tiêu đề ra.
3. Bài học kinh nghiệm
Nhờ làm tốt các giải pháp một cách đồng bộ nên cộng đồng dân cư, du khách đã nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn. Đời sống nhân dân vùng đệm từng bước được cải thiện, đại đa số nhân dân đã chuyển đổi ngành nghề và cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng khoa học kỹ thuật nâng cao năng suất sản lượng và tham gia tích cực vào công tác khoán bảo vệ và phát triển rừng, tình trạng khai thác lâm sản và săn bắt động vật rừng trái phép đã giảm thiểu đáng kể, chính nhờ vậy mà tài nguyên đa dạng sinh học đựợc bảo vệ nguyên vẹn, không để thiệt hại do phá rừng, cháy rừng gây ra. VQGBM đã lấy phương châm “phòng là chính, bảo vệ tận gốc” bằng cách tuần tra phát hiện, ngăn chặn kịp thời nên tỉ lệ các vụ vi phạm lâm luật ngày càng giảm rõ rệt hoặc chỉ xảy ra ở mức độ quy mô nhỏ lẻ không đáng kể.
Nhiều mục tiêu bảo tồn ngày càng được xác định rõ và bổ sung vào danh lục phải bảo vệ mà trước đây chưa có như như Sao la, Mang lớn... Diện tích vườn cũng được xác định lại để bảo vệ tốt hơn hệ sinh thái chuẩn mực, đảm bảo hệ số an toàn về sinh cảnh cho các loài và liên vùng không ảnh hưởng do sự chia cắt bởi ranh giới hành chính (trước là 22.030 ha nay 37.478 ha trên phạm vi cả hai tỉnh)...
VQGBM đã tổ chức thực hiện công tác quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên đa dạng sinh học có hiệu quả, nhờ biến nguời dân từ chỗ chỉ quen với tập quán phá rừng để làm kế sinh nhai trở thành những người bảo vệ và phát triển rừng, tích cực chấp hành nghiêm pháp luật, tham gia các dịch vụ, phục vụ du lịch, phát triển cộng đồng, gián tiếp hưởng lợi qua tài nguyên đa dạng sinh học một cách bền vững, đã góp phần nâng độ che phủ rừng, làm tăng khả năng phòng hộ, chống được hạn hán, lũ lụt, giải quyết việc làm, ổn định an sinh kinh tế - xã hội của nhân dân ở vùng đệm. /.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu kinh nghiệm bảo tồn và phát triển Vườn quốc gia Bạch Mã.doc