MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG CHÍNH CỦA ĐỀ TÀI
I: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1: Bản chất của kinh tế thị trường.
2: Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường.
3: Các đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường.
II: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
1: Bản chất của kinh tế thị trườngđịnh hướng xã hội chủ nghĩa .
2: Các đặc trưng ở kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III: VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1: Vai trò kinh tế của của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
2: Vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3: Chức năng của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4: các Giải pháp để đổi mới và hoàn thiện vai trò điều tiết và quản lý của Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1741 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. So với kinh tế tư bản chủ nghĩa kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng chủ yếu sau:
* Mục tiêu chiến lược của đường lối phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
* Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần trong kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo.
* Trong điều kiện hiện tại , cả kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, song điều khác nhau là ở bản chất của hai nhà nước. Kinh tế thị truờng tư bản chủ nghĩa, Nhà nước là Nhà nước của giai cấp tư sản, tự do dân chủ cũng là tự do dân chủ tư sản, và vậy Nhà nước can thiệp kinh tế là để bảo vệ lợi ích cảu giai cấp tư sản. Còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, và vậy Nhà nước can thiệp kinh tế là bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.
* Trong nền kinh tế thị trường tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức phân phối Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo vốn, theo trình độ bóc lột, theo sức lao động, chủ yếu phục vụ mục đích thu lợi nhuận tối đa của chủ tư bản. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yêú, bên cạnh đó có kết hợp với các hình thức phân phối khác nữa để vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản.
III: vai trò kinh tế của Nhà nước.
1.Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử:
Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của những cuộc đấu tranh chính trị. Mọi Đảng trong cương lĩnh hoạt động của mình bao giờ cũng hướng mục tiêu vào việc giành lấy chính quyền Nhà nước. Trong lịch sử phát triển có nhiều cách giải quyết khác nhau về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Theo một số quan điểm thì tôn giáo là quyền lực của Thượng Đế ở trần gian cho đến khi giai cấp tư sản làm cách mạng đã lên án quan điểm này, họ cho rằng Nhà nước xuất phát từ xã hội, để điều khiển và quản lý xã hội. Theo họ thì Nhà nước là do nhân dân bầu ra và quyền lực thuộc về nhân dân. Theo quan điểm của Mác, ông thừa nhận Nhà nước sinh ra từ xã hội nhưng không phải là khế ước của xã hội mà nó xuất phát từ những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa. Mâu thuẫn này dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để đi đến một nhu cầu của xã hội là phải có một tổ chứ quyền lực đủ mạnh để duy trì xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, tổ chức ấy chính là Nhà nước. Như vậy Nhà nước là công cụ bạo lực để thống trị giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp đó sẽ thống trị về mặt chính trị (hay Nhà nước ). Nhà nước chính là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử phát triển của mình, các Nhà nước đã có phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Nhà nước chủ nô - kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người chỉ bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp chủ nô là giai cấp chiếm đoạt khối lượng của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ, những người bị đàn áp, thống trị bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm đầu của chủ nghĩa tư bản, chúng ta đã thấy sự phát triển của chủ nghĩa trọng thương với đặc điểm của nó là đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà nước. Không phải là không có căn cứ với sự đề cao này mà thực tế như chúng ta đã biết chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB), chủ nghĩa trọng thương tương ứng với thời kỳ tích lũy nguyên thuỷ của CNTB. Giai cấp tư sản rất cần có chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước thông qua chỗ dựa này, việc tích lũy tư bản sẽ tiến hành nhanh chóng hơn và hiệu quả cao hơn. Đối với trường phái này muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của Nhà nước, ủng hộ chính quyền Nhà nước. Vì vậy ở trong thời kỳ này vai trò kinh tế của Nhà nước được xác lập và nâng cao.
Ngược lại với chủ nghỉa trọng thương, các nhà kinh tế học cổ điển mà nổi bật là Adam Smith (1723 - 1790) lại cho rằng Nhà nước chỉ nên thực hiện các chức năng nguyên thuỷ của mình. Lập pháp bảo vệ an ninh quốc gia xét xử những tranh chấp, chứ không nên can thiệp vào các quá trình kinh tế. Theo Adam Smith việc tổ chức nền kinh tế hàng hóa cần theo nguyên tắc tự do. Ông ủng hộ tự do cạnh tranh và chính ông cũng đưa ra thuyết “ bàn tay vô hình “ và nguyên lý Nhà nước không can thiệp vào mọi hoạt động của nền kinh tế. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phá t của giá cả hàng hóa trên thị trường quyết định. Có nghĩa là “ bàn tay vô hình” tự điều chỉnh nền kinh tế một cách năng động, linh hoạt theo những quy luật khách quan của thị trường còn Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế thị trường và hoạt động của các doanh nghiệp. Việc đề cao “ bàn tay vô hình” và xem nhẹ “ bàn tay Nhà nước” đã thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong giai đoạn tự do cạnh tranh đã đem lại sự tăng trưởng nhất định trong kinh tế. Tuy nhiên với một thị trường tự do cạnh tranh hoạt động không có sự can thiệp của Nhà nước ngày càng bộ lộ nhiều khiếm khuyết như tình trạng độc quyền, ô nhiễm môi trường, hoạt động kinh tế chồng chéo, triệt tiêu nhau và đặc biệt là các chu ky kinh tế thể hiện thông qua khủng hoảng kinh tế liên tục mà rõ nhất là thời kỳ đại suy thoái nền kinh tế TBCN (1929 - 1933). Hơn nữa trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần có sự can thiệp của Nhà nước vào các quá trình hoạt động kinh tế, điều tiết nền kinh tế, nhà kinh tế học người Anh Meynard Keynes (1884 - 1946) người được coi là đã cứu sống CNTB thì lập luận rằng:
“ nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp gia tăng đó là Nhà nước không can thiệp vào kinh tế hoặc can thiệp những chính sách kinh tế lạc hậu bảo thủ”. Do vậy theo ông để hạn chế, ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thì phải can thiệp vào kinh tế bằng những chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp: đó là các chính sách về tài chính tiền tệ lãi suất điều tiết ở tầng vĩ mô. Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ công cộng. Quan điểm này xuất phát ở chỗ cho rằng sự tăng lên của thu nhập sẽ làm tăng lên tiêu dùng so với tiêu dùng giới hạn nhưng sự tăng của tiêu dùng chậm hơn sự tăng của thu nhập dẫn tới cầu giảm, điều này dẫn tới hàng hóa ế thừa từ đó sẽ dẫn tới tỉ suất lợi nhuận giảm. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi xuất thì chủ doanh nghiệp sẽ không có lãi khi vay vốn đầu tư như vậy họ sẽ “ tháo lui đầu tư”. Điều này đưa nền kinh tế vào tình trạng trì trệ khủng hoảng. Vì vậy theo Keynes Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường. Song khi đánh giá cao vai trò của Nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của thị trường tự do, bỏ qua vai trò của
“ bàn tay vô hình” và “ cân bằng tổng quát”. Hơn nữa, thêm vào đó là tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát xảy ra ngày càng trầm trọng. Điều này đã làm làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và xuất hiện tư tưởng phối hợp “ bàn tay vô hình” với Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Nổi bật là quan điểm “ kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson - một nhà kinh tế học người Mỹ. Ông lại cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường, cũng như định vỗ tay bằng một tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế chỉ tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu. Theo xu hướng “ hỗn hợp” ngày nay các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước. Khác hẳn với các thành phần kinh tế khác, chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên cơ sở sự sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất vì vậy Nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất. Nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá trình kế hoạch hóa tập trung thông nhất quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và mức độ tiêu dùng (tổng cung và tổng cầu). Như vậy sẽ tránh được khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện được tốt các chính sách xã hội. Tuy nhiên với một bộ máy Nhà nước quá cồng kềnh kế hoạch hóa quá sát sao đã dẫn đến tình trạng dựa dẫm ỷ lại, thiếu sáng tạo đối với cấp dưới, không khai thác và phát huy được hiệu quả cao nhất các nguồn lực như vậy nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng thấp. Do đó các nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung như Liên Xô (cũ) và các nước XHCN đã phải chuyển sang cơ chế thị trường và phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước.
Trên thực tế qua các giai đoạn phân tích đánh giá các quan điểm của các trường phái, chúng ta rút ra được tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nừu như chỉ thuần tuý sử dụng “ bàn tay vô hình” hay“ bàn tay Nhà nước” thì đều không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lâu dài, muốn đạt được điều đó thì phải biết sử dụng chúng hòa hợp, cần thiết phả có cả “ hai” cùng tham gia vào hoạt động kinh tế, đó là thị trường và Nhà nước. Vì vậy Nhà nước giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tự nhiên, sự can thiệp của Nhà nước ở đây chỉ là tầm vĩ mô.
2.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam :
Những năm trước giải phóng do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước được sao chép gần như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của các nước XHCN với điển hình là Liên Xô cũ. Cơ chế quản lý kinh tế của nước ta trong giai đoạn này đề cao công cụ kế hoạch hóa, kế hoạch hóa mang tính pháp lệnh bắt buộc mọi ngành, mọi cấp cơ quan, đơn vị và cá nhân phải tuân theo thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp mang những đặc điểm cơ bản:
- Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều này được thể hiện ở sự chi tiết hóa các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm.
- Các doang nghiệp, xí nghiệp cố gắng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù, điều này mang tính chất không kinh tế.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế cấp trên can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sử nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình.
- Bỏ qua quan hệ hàng hóa tiền tệ, hiệu quả kinh tế quản lý và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất với người được cấp phát vốn.
Đi từ những đặc điểm trên dẫn tới bộ máy quản lý rất cồng kềnh có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó phát sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý không thông tạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì quan liêu, cửa quyền.
Bên cạnh những ưu điểm đó là phù hợp với đất nước có chiến tranh. Trong thời kỳ chiến tranh cơ chế này đã động viên tích cực lực lượng tình nguyện lên đường chiến đấu, họ yên tâm hơn bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo mức lương thực, họ vững tin vào sản xuất chiến đấu phục vụ sản xuất. Sau ngày chiến tranh kết thúc, áp dụng cơ chế này không còn phù hợp ở Việt Nam, điều này chúng ta chưa nhận ra nên trong suốt một thời gian dài cơ chế cũ đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta gây nhiều tác hại xấu cho cộng đồng.
Do có sự bình quân về phân phối nên đã không khuyến khích được người sản xuất phát huy khả năng sáng tạo, sự năng động hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì có sự bao cấp của Nhà nước, bao tiêu sản phẩm nên sản phẩm sản xuất ra với chất lượng kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu sự linh hoạt nhạy bén với thị trường dẫn đến tình trạng sản xuất không phù hợp với tiêu dùng. Công nghệ kỹ thuật lại chậm cải tiến, chi phí rất cao mà chất lượng lại rất thấp. Cung cách hạch toán mang hình thức phô trương tình trạng “ lãi giả, lỗ thật”.
Tóm lại , cơ chế cũ đã tích cực đóng góp những xu hướng tiêu cực làm nảy sinh sự trì trệ thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.Vấn đề được đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới của nước ta được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hội Đảng VII khẳng định: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thực tế, nhiều chỉ thị, quyết định dần được ban hành: chế độ khoán sản phẩm đến tay người sản xuất được thực hiện, Nhà nước điều chỉnh biểu thuế, giá thu mua nông sản của nông dân - Nhà nước trao quyền tự do về tài chính, sản xuất kinh doanh tự hạch toán cho các cơ sở, các xí nghiệp.
Thực tiễn đã chứng minh sau mười năm đổi mới, hiệu quả của nền kinh tế ngày càng cao, tính quan liêu của cơ chế tập trung dần được khắc phục, khả năng lao động sáng tạo của người sản xuất được khuyến khích. Thông qua đại hội Đảng IX một lần nữa khẳng định cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó không những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xã hội, phát triển đất nước theo con đường XHCN vì vậy cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường chúng ta cần phải đánh giá được mặt tốt, mặt xấu của cơ chế thị trường để từ đó có bước đi đúng đắn. Như vậy chúng ta có thể hiểu được cơ chế thị trường là cơ chế từ điều tiết nền kinh tế hàng hóa do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế thị trường. Chẳng hạn theo Paul Samuelson thì cơ chế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế trong cá nhân người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, là một bộ máy kinh tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát sinh ra và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa.
Dựa vào những kinh nghiệm thực tế của nhiều nước cho thấy thị trường không phải là một liều thuốc vạn năng, bên cạnh những ưu điểm của nó thị trường cũng bộc lộ rất nhiều mặt hạn chế của nó cụ thể:
Trước hết kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm động lực hoạt động do đó để thu được lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải thương xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hóa sản xuất làm cho năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường tuy mới ra đời đến nay khoảng 5 thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất cao chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Tiếp theo đó là kinh tế thị trường mang tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc: “ Người nào đưa ra thị trường hàng hóa trước tiên người đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Mặt khác nếu nhận thức được sản phẩm của mình không có người mua hay lượng cầu đang giảm dần thì người sản xuất sẽ không sản xuất nữa”. Điều này dẫn tới sự tiết kiệm lao động xã hội. Vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sảm phẩm trước kia vẫn bán nay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách, phẩm chất ngày càng hoàn thiện hơn nữa ra đời. Một ưu điểm nữa của kinh tế thị trường đó là kinh tế thị trường có nhiều hàng hóa và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải nền kinh tế thiếu hụt do đó kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu vật chất văn hóa và sự phát triển toàn diện của con người.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó. Như cơ chế thị trường có thể gây ra những sự mất ổn định và thường xuyên phá vỡ các cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu cực của sự vận động và phát triển của nó thường đi liền với những vấn đề nan giải.
Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường trong mấy thập kỷ qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không thể nào khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Cơ chế thị trường có thể hoạt động không mang lại hiệu quả kể cả trong cạnh tranh tự do và trong cạnh tranh có sự chi phối của các tổ chức độc quyền. Bên cạnh đó cơ chế thị trường có thể gây ra sự mất cân bằng và nhiều vấn đề xã hội. Cơ chế này cho phép tổ chức cà sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao nhưng có thể gây ra hnững bất bình đẳng lớn trong hệ thống tổ chức kinh tế vì trong xã hội này không có lý do gì buộc cơ chế thị trường phải phân phối sản phẩm một cách hợp lý. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường thường tồn tại những ngành kinh tế thiếu sự cạnh tranh vì ở đó mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nhưng lại rất cần cho sự tăng trưởng kinh tế và cần cho việc giải quyết một số vấn đề xã hội.
Qua trên cho thấy nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hòa mà trong hệ thống đó chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải vì vậy để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Từ đó hình thành nên khái niệm cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Theo bản chất của mình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước không chỉ vận động theo cơ chế thị trường, cũng không vận động theo cơ chế chỉ huy mà vận động bởi sự tác động đồng thời của hai cơ chế đó. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước với tư cách là người quản lý xã hội, đồng thời cũng là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường đảm bảo các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, giao thông vận tải. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động vạch ra kế hoạch phát triển hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt làm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế tự điều chỉnh ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó Nhà nước kiềm chế sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của kinh tế thị trường.
3. Chức năng của nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
3.1. Định hướng phát triển kinh tế đất nước, phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển kinh tế nói riêng là mục tiêu cơ bản của mỗi quốc qia. Phát triển kinh tế là sự lớn mạnh ở mức độ cao của nền kinh tế thỏa mãn 3 điều kiện:
- Tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng, tỉ trọng sản xuất công nghiệp tăng nhanh cả tương đối lẫn tuyệt đối và chiếm ưu thế trong GDP, lao động nông nghiệp giảm, lao động trong công nghiệp tăng nhanh và chiếm đại bộ phận trong tổng lao động xã hội.
Mức thu nhập thực tế mà mỗi người dân được hưởng cao phản ánh mức công bằng dân chủ và chất lượng cuộc sống của dân chúng cùng với sự tham gia của chính họ vào quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Quá trình phát triển kinh tế của nước ta chính là từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn và xu hướng thời đại. Để phát triển kinh tế vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ phương hướng, đề ra các mục tiêu lớn và vạch chiến lược cho sự phát triển nhằm không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi kinh tế theo các bước phát triển từ thấp đến cao xét dưới các góc độ khác nhau.
Trong các chức năng quản lý thì chức năng định hướng phát triển kinh tế là chức năng cơ bản nhất bởi vì định hướng đúng giúp cho đất nước đối phó với sự không ổn định và thay đổi trong nội bộ đất nước cũng như các biến động bên ngoài. Nội dung của việc xác định định hướng phát triển kinh tế của đất nước gồm: Xác định các nhiệm vụ, xác định các mục tiêu và các chiến lược phát triển dài hạn kinh tế đất nước.
Thực hiện chính sách đối với các thành phần kinh tế với các nội dung:
* Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo.
* Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm, hợp tác xã.
* Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác và liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế.
- Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo.
3.2. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội. Đây là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu vực và các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Cuối cùng các kế hoạch được cụ thể hóa bằng các kế hoạch hàng năm kết hợp với hệ thống ngân sách của chính phủ và có tính đến viện trợ của nước ngoài đã được phê duyệt. Kế hoạch Nhà nước phải quán triệt đường lối chủ trương của Đảng để đưa ra một hệ thống các mục tiêu vĩ mô xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và các cân đối lớn của các chính sách, các giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo chiều hướng kế hoạch.
Kế hoạch Nhà nước phải bao quát các ngành các vùng, các lĩnh vực và các thành phần kinh tế. Chương trình là tổ hợp các mục tiêu chính sách, các thủ tục, các quy tắc, các nhiệm vụ, các bước tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước, vùng và ngành. Không có chương trình thì chính phủ dễ có khuynh hướng làm những điều mới thoạt nhìn thì có vẻ quan trọng nhưng chỉ là gạt bỏ những vấn đề lớn mà không bắt tay vào thực hiện ngay từ đầu khi khó có thể thực hiện xong.
3.3. Thiết lập khuôn khổ luật pháp về kinh tế.
Theo chức năng này để quản lý nền kinh tế quốc dân Nhà nước phải tạo ra và thực hiện một hệ thống pháp luật nói chung và một hệ thống về kinh tế nói riêng.
Bằng luật kinh tế Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế. Trên cơ sở pháp lý cho hoạt động và Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với các hoạt động đó. Bằng luật kinh tế Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh doanh, xác định hành vi nào là hành vi kinh doanh hợp pháp, hành vi kinh doanh nào là phi pháp. Nhà nước quy định cơ quan trong kinh doanh phải hoàn thành cơ chế giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh.
3.4. Xây dựng và thực hiện hệ thống các chính sách, các công cụ và đòn bẩy kinh tế.
Chính sách kinh tế là một trong những công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế trong các giai đoạn phát triển nhất định. Chính sách kinh tế bao gồm các chính sách xử lý các mục tiêu và là một trong các chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế xã hội. Để quản lý nền kinh tế quốc dân Nhà nước phải dựa vào hệ thống các chính sách kinh tế. Hệ thống này gồm nhiều chính sách cụ thể đi sâu vào từng mặt, từng khâu của quá trình sản xuất của cải xã hội, bao gồm:
*C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50616.doc