Đề tài Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế Việt Nam

Mục lục

Phần I. Hàn Quốc

I.Giới thiệu về Hàn Quốc

1.1. Đất nước - con người

1.2.Chính trị

1.3.Kinh tế

II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc

2.1.Khái niệm

2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol

2.3. Đặc điểm Chaebol

III. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc

3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quyết định

3.2.Vị trí độc quyền trong nước

3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của Chaebol

IV. Đánh giá hoạt động của mô hình Chaebol từ sau khủng hoảng năm 1997

4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ

4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh

4.1.2.Về cơ cấu vốn

4.1.3.Về quản lý công ty

4.2.Những tồn tại chủ yếu

4.2.1.Trên phương diện vĩ mô

4.2.2.Trên phương diện vi mô

4.3.Tình hình hiện nay

4.3.1.Nguy cơ tan rã

4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi

4.3.3.Chaebol thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác

 

 

Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam

1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol

1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của cải tổ

1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách

1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội đối với công cuộc cải tổ

1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách

1.1.5.Tiếp tục tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho khu vực tổng công ty

1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công

ty Việt Nam

1.2.1.Tổng quan về các tổng công ty Việt Nam hiện nay

1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam

II.Sự phù hợp của mô hình Chaebol vào Việt Nam

 

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5659 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn Quốc. Các công ty được tự do vay ngắn hạn từ nước ngoài và từ các tổ chức tài chính khác. Đến cuối tháng 11 năm 1997, tổng nợ nước ngoài của Hàn Quốc lên tới 156,9 tỷ USD. Khoảng hơn 70% tổng số nợ nước ngoài là của các tổ chức tài chính. Vào thời điểm trước khủng hoảng một số Chaebol lớn đã có tổng số nợ vượt quá 1000% vốn tự có của chúng. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản trung bình của 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc vào thời điểm cuối năm 1997 là 518,9%. Tỷ lệ mức nợ này không chỉ lớn về quy mô mà còn trong quan hệ so sánh với tổng giá trị tài sản của mỗi tập đoàn và trong quan hệ so sánh với tổng GDP của nền kinh tế. Biểu đồ 1: Tỷ lệ nợ của các tập đoàn Hàn Quốc trong mối quan hệ so sánh với GDP Đơn vị tính: 1000 tỷ won Nguồn: Hahm (1998) Chú thích: Màu xanh biểu thị số Màu đỏ là GDP Biểu đồ trên cho thấy tỉ lệ nợ của các Chaebol của Hàn Quốc so với GDP đạt mức thấp nhất thời kỳ 1987-1988 và có xu hướng tăng dần. Dươí đây là Biểu đồ 2 thể hiện tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của 10 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản của 10 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc năm 1997 (%) Nguồn Kim Joon Kyung, 1998 Để giảm sự phụ thuộc về vốn vào chính phủ, các Chaebol lớn đã thực hiện đa dạng hoá vào các ngành như tài chính phi ngân hàng, thương mại là những ngành không phải là lĩnh vực công nghiệp trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá. Ở thời điểm đầu năm 1980, mỗi Chaebol trong số 10 Chaebol lớn nhất đều sở hữu ít nhất một công ty trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đầu năm 1994, mỗi Chaebol đã có trung bình 4 công ty hoạt động trong lĩnh vực này với số vốn ngày càng tăng. Chaebol LG đầu những năm 70 chỉ có một công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhưng đến năm 1994 con số này là 13 trong đó có 5 công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng. Sam Sung cũng là một Chaebol đã đầu tư lớn vào lĩnh vực này. Nếu năm 1980, Sam Sung đã đầu tư 22% tổng số tài sản của mình nhưng đến năm 1988 con số này là 44,9%. Đến năm 2002, 30 Chaebol hàng đầu đã sở hữu 18 trong số 30 công ty bảo hiểm và 13 trong số 38 ngân hàng thương mại. Nhiều Chaebol đã đạt được mức độ tăng trưởng cao nhờ đầu tư vào lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, nhờ đó sức mạnh kinh tế của chúng ngày càng lớn. Do vậy, các Chaebol có thể gây áp lực đối với chính phủ cả trên phương diện kinh tế lẫn chính trị. 3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của các Chaebol Khuynh hướng đa dạng hoá của các Chaebol xuất hiện khi chính sách công nghiệp hoá chú trọng vào công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất của tổng thống Park Chung Hee được thực hiện. Để khuyến khích các Chaebol tham gia đầu tư vào hai ngành này, chính phủ đã đưa ra những ưu đãi đặc biệt về thuế và tài chính: các công ty được vay vốn thông qua ngân hàng nhà nước với lãi suất thấp, nếu công ty không có khả năng thanh toán thì chính phủ sẽ can thiệp để công ty tiếp tục hoạt động. Chính những điều kiện thuận lợi này khiến các Chaebol chạy theo việc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, tham gia vào những ngành trọng điểm được chính phủ bảo trợ. Samsung là ví dụ tiêu biểu, nổi tiếng trong ngành công nghiệp nhẹ với tổng số vốn đầu tư vào ngành này chiếm 66% tổng giá trị tài sản nhưng đầu những năm 70 Samsung đã đầu tư vào ngành công nghiệp nặng. Đến năm 1984, giá trị đầu tư vào ngành này chiếm 33% tổng tài sản trong khi đầu tư vào ngành công nghiệp nhẹ chỉ còn 17% ( Koo và Kim, 1992). Đa dạng hoá một mặt tạo nên công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. Đến năm 2006, số lượng nhân viên của Samsung lên đến 138.000 người. Việc mở rộng quy mô các công ty có thể làm giảm chi phí giao dịch vì giao dịch giữa các công ty trong cùng Chaebol thấp hơn là giao dịch trên thị trường. Chi phí giao dịch thấp sẽ tiết kiệm được chi phí kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó việc đa dạng hoá nhằm theo đuổi mục đích mở rộng quy mô đã khiến các Chaebol chỉ chú trọng mở rộng quy mô và mở rộng thị trường mới chứ không chú trọng đầu tư nâng cao năng suất. Để xâm nhập thị trường hàng tiêu dùng quốc tế mà vốn không có lợi thế về kỹ thuật và công nghệ cao, các Chaebol đa dạng hoá vào những ngành có thể khai thác những lợi thế về nguồn lao động và mức thuế thấp để cạnh tranh bằng mức giá thấp chứ không đầu tư lớn vào nghiên cứu kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm. Ở Đông Nam Á và Ấn Độ, công ty LG hiện đang có mặt trong ngành công nghiệp hoá dầu, lọc dầu và phát triển địa ốc cùng lúc với các ngành nghề truyền thống của họ về điện tử và các loại máy thu hình, sản phẩm nghe nhin, điện gia dụng, máy tính và thiết bị văn phòng tự động. Gần đây, LG đã bỏ ra 351 triệu USD để mua lại 58% cổ phần của công ty sản xuất máy tính truyền hình Zenith Electronics. Trên thị trường được bảo hộ ở quê hương, LG vẫn thương hiệu số một về máy truyền hình, tủ lạnh và máy giặt nhưng trên thị trường quốc tế các giòng sản phẩm mở rộng của họ đang nằm trong tình trạng bất lợi nặng nề. IV.Đánh giá hoạt động của mô hình Cheabol từ sau khủng hoảng 1997 Trong số những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế Hàn Quốc năm 1997, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng là do tỷ lệ nợ trên tổng tài sản quá cao và các kết quả hoạt động kinh doanh không lành mạnh của nhiều công ty lớn. Điều này đòi hỏi phải thực hiện tái cơ cấu Chaebol. Dưới sự giám sát chặt chẽ của IMF, chương trình cải tổ nền kinh tế bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. 4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ Công cuộc cải tổ một số Chaebol đã đạt được những thành tựu nhất định, thể hiện ở những khía cạnh sau: 4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh Vài năm đầu tiên sau khi công cuộc cải tổ được bắt đầu, số lượng các chi nhánh bình quân của các Chaebol đã giảm 22,9%. Năm 2000 Daewoo chỉ còn lại hai chi nhánh so với năm 1999 có 34 chi nhánh, còn Hyundai đã giảm chi nhánh của mình từ 62 xuống còn 35. 4.1.2.Về cơ cấu vốn Nhờ thay đổi đáng kể của môi trường kinh tế vĩ mô từ sau khủng hoảng, tác động hỗ trợ của Chính Phủ cũng như những cố gắng của các tập đoàn. Chương trình tái cơ cấu nợ đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Đến cuối năm 2000 tỷ lệ nợ của 30 Chaebol hàng đầu Hàn Quốc giảm xuống còn 171%. Tuy nhiên theo kết quả khảo sát của Uỷ ban Tư vấn tài chính (FSS) thực hiện tháng 6 năm 2001 thì tỷ lệ nợ trên tổng tài sản trung bình của bốn Chaebol lớn nhất năm 2001 vẫn còn rất cao là 327%. Mức chi tài chính của các công ty không giảm và mức doanh thu thì tăng không đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng doanh thu là do chính sách giảm lãi suất vay vốn của chính phủ và sự cho phép sa thải lao động dư thừa ở các doanh nghiệp khiến chi phí sản xuất giảm. Và để giảm tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, các Chaebol đã tăng cường phát hành phiếu nợ và tăng cường đầu tư chéo giữa các công ty thành viên của Chaebol hơn là giảm tổng nợ. 4.1.3.Về quản lý công ty Trong khu vực quản lý công ty nói chung và đối với các Chaebol nói riêng, quan điểm " quy mô lớn để không bị phá sản" đã được chấm dứt. Chiến lược kinh doanh của các Chaebol tập trung hơn vào các mục tiêu khả năng sinh lợi hơn là thị phần. Các cổ đông là tổ chức kinh doanh bao gồm ngân hàng và các thể chế tài chính đã bắt đầu thực hiện quyền bầu cử của mình. Do số lượng các tổ chức đầu tư ngày càng tăng nên vai trò của họ trong quản lý cũng được tăng lên đáng kể. Các nguyên tắc kế toán và tính minh bạch ở các Chaebol cũng được cải tiển một bước. 4.2. Những tồn tại chủ yếu Tuy đạt được những thành công rực rỡ nhưng mô hình cheabol cũng không tránh khỏi những khuyết điểm và yếu kém trong cơ chế quản lý.Chính những khuyết điểm và yếu kém này đã khiến cho các cheabol-được coi là những đại gia thống trị nền kinh tế phải lao đao và có nguy cơ bị tiêu diệt khi mà cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 diễn ra và có tác động đến phần lớn các nước trong khu vực. 4.2.1.Trên phương diện vĩ mô -Sự bảo trợ của Chính phủ đối với các tập đoàn trong những hoàn cảnh nhất định là cần thiết nhưng sự bảo trợ quá mức sẽ làm yếu đi sức cạnh tranh của các tập đoàn. Thêm vào đó việc quy định giới hạn trần đầu tư vào các kinh doanh mới và tỷ lệ nợ trên tổng tài sản như nhau (200%) đối với các Chaebol bất kể chúng hoạt động ở lĩnh vực nào và khả năng tài chính của công ty như thế nào là không cần thiết. Mỗi công ty có đặc điểm riêng về hoạt động kinh doanh và năng lực quản lý của mình nên không thể có một cơ cấu vốn tối ưu duy nhất cho tất cả các công ty. Yêu cầu này có thể làm hạn chế khả năng đầu tư của các Chaebol nhằm khai thác cơ hội kinh doanh ở những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn. -Sự phân biệt chính sách đối với các Chaebol theo quy mô của chúng tạo nên sự không công bằng. Những yêu cầu đầu tư đối với các Chaebol có quy mô lớn có thể làm các Chaebol khác đứng ở thứ hạng thấp hơn không muốn trở thành một trong số 50 Chaebol hàng đầu vì để giảm thiểu những điều khoản ngăn cấm mà chính phủ áp dụng đối với 50 Chaebol hàng đầu. -Cải tổ khu vực công ty chậm chạp trong đó bao gồm cả các công ty thuộc Chaebol. Mặc dù Hàn Quốc thực hiện cải tổ công ty với tiến triển nhanh hơn so với một số quốc gia khác do một số nguyên nhân như quyết tâm cải tổ cao, nhưng nhìn chung, công cuộc cải tổ khu vực công ty nói chung và các Chaebol nói riêng tiến triển một cách chậm chạp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như yếu kém về nghiệp vụ ngân hàng trong việc đánh giá các khoản nợ, những phản ứng của giới Chaebol, hệ thống giám sát việc thực thi Luật phá sản... -Mối quan hệ giữa chính phủ - ngân hàng - Chaebol về cơ bản vẫn chưa thay đổi. Trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, khi mới ra đời và quy mô còn nhỏ, Chaebol phụ thuộc vào chính phủ và buộc phải tuân thủ những yêu cầu của chính phủ. Khi đã lớn mạnh, các Chaebol buộc chính phủ ban hành các chính sách có lợi cho họ. Khi công cuộc cải tổ được bắt đầu thực hiện, các Chaebol đã tỏ thái độ chống đối các chính sách của Chính phủ. Họ chỉ thực hiện những chính sách có lợi cho họ như sa thải lao động, còn những chính sách khác họ thường không thực hiện. Khi các Chaebol phản ứng về những quy định đầu tư, chính phủ đã đáp ứng lại yêu cầu của họ, thực hiện hạ thấp giới hạn trần đầu tư. Thông qua các ngân hàng của mình, chính phủ bơm tiền từ ngân sách nhà nước cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính yếu kém nhằm làm sạch bảng cân đối tài sản của các ngân hàng này như đã làm trước đây. Nếu chính phủ không chấm dứt những hỗ trợ này thì các Chaebol sẽ vẫn tiếp tục vay nợ nhiều hơn nữa, và người gánh chịu hậu quả không ai khác lại là người dân. Cuối năm 2003, khi hầu hết các công ty kinh doanh thẻ tín dụng có nguy cơ bị phá sản thì chính phủ đã khuyến khích các ngân hàng lớn tham gia cứu giúp các hãng phân phối thẻ tín dụng nhằm không gây phản ứng dây chuyền cho nền kinh tế đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Cho đến nay vẫn chưa có những thay đổi cần thiết trong mối quan hệ giữa chính phủ, ngân hàng và các Chaebol. Chính phủ vẫn tiếp tục ép buộc các ngân hàng bằng các mệnh lệnh của mình. Mối quan hệ của các ngân hàng và Chaebol vẫn chịu sự kiểm soát của chính phủ. Biểu đồ 3: Lượng tiền chính phủ bơm vào các ngân hàng và các tổ chức tài chính thời kỳ 1998- 2002 Đơn vị tính: Nghìn tỷ Won Nguồn: Báo The Korea Time. 4.2.2.Trên phương diện vi mô Trên phương diện vi mô, chương trình cải tổ mặc dù có những kết quả khởi đầu khả quan nhưng cũng đã tỏ ra không có hiệu quả. Ngoài nhiệm vụ giảm tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, các nhiệm vụ khác như cải tiến quản lý tập đoàn cũng chưa thực hiện được mục tiêu đề ra. -Cung cách quản lý của các Chaebol không có mấy thay đổi. Các giám đốc điều hành là những người được thuê từ bên ngoài thường nắm rất ít cổ phần nên mục tiêu của họ rất khác so với mục tiêu của các cổ đông. Họ thường chỉ chú trọng đến những lợi ích không phải bằng tiền như sự tín nhiệm, chức vụ. Họ có khuynh hướng ưu tiên cho những thành công của công ty trong ngắn hạn để chứng tỏ khả năng của mình, trong khi đó quyền lợi của các cổ đông lại phụ thuộc những thành công trong dài hạn. Các giám đốc từ bên ngoài còn có hạn chế là do không hiểu biết về công ty nên họ mất thời gian tìm hiểu thông tin về công ty. Các giám đốc người ngoại quốc không am hiểu văn hoá trong nước, khó thích nghi với điều kiện mới. Về cơ bản, họ không muốn đổi mới và chỉ thực hiện điều này khi có những kích thích bất thường. -Việc thực hiện nguyên tắc rõ ràng minh bạch trong quản lý còn nhiều hạn chế. Theo số liệu của The Korea Time năm 2002 có 174 công ty kinh doanh trên lĩnh vực thị trường chứng khoán đã vi phạm nguyên tắc này. Hàn Quốc là một trong bốn nước không rõ ràng nhất trong công tác kế toán, xếp thứ 33 trong 34 nước được nghiên cứu. Tính không minh bạch và nạn tham nhũng là yếu tố cản trở việc thu hút đầu tư nước ngoài. -Các Chaebol vẫn thực hiện đa dạng hoá ở mức độ cao. Như phần trên ta đã phân tích, đa dạng hoá gây ra nhiều thiệt hại cho xã hội. Số lượng các công ty thành viên của 30 Chaebol hàng đầu trong 2 năm 2000 và 2001 đều vẫn ở mức 616 công ty. -Quy mô tài sản của 30 Chaebol hàng đầu và đặc biệt là nhóm 5 Chaebol hàng đầu không những không giảm mà còn tăng nhanh. Việc cải tổ còn tạo thêm điều kiện cho Chaebol bành trướng quy mô. Bảng 3: Tổng tài sản của 30 Chaebol hàng đầu Đơn vị tính: Nghìn tỷ Won 5 chaebol hàng đầu 6-30 chaebol hàng đầu Tổng 30 chaebol Tỷ lệ của 5 chaebol trong tổng số 30 chaebol 1996(B) 1997 1998 1999(A) 2000 161.713 202.006 273.090 310.870 264.563 125.373 146.358 162.228 161.887 158.234 287.086 348.364 435.318 472.757 422.797 56,3% 58,0% 62,7% 65,8% 62,6% A/B(tỷ lệ tăng trưởng) 92,2% 29,1% 64,6% Nguồn: Uỷ ban Thương mại tự do Bảng 4: Tổng tài sản của 5 chaebol hàng đầu Đơn vị tính: Nghìn tỷ Won Hyundai Samsung Daewoo(Hanjin) LG SK 1996(B) 1997 1998 1999(A) 2000 43.743 53.597 73.520 88.806 88.649 40.761 51.651 64.536 61.606 67.384 31.313 35.455 52.994 78.168 (20.771) 31.395 38.376 52.773 49.524 47.612 14.501 22.927 29.267 32.766 40.147 A/B(tỷ lệ tăng trưởng) 102,7% 65,3% 120,5% 51,6% 176,8% Nguồn: Uỷ ban Thương mại tự do -Vấn đề tham nhũng trong các cheabol. Sau khủng hoảng,một số cheabol may mắn vượt qua được thì lại nảy sinh một vấn đề mới.Đó là nạn tham nhũng và trốn thuế của một số công ty và tập đoàn lớn.Để xảy ra tình trạng trên là do cơ chế quản lý tài chính lỏng lẻo đã dẫn tới những thất thoát lớn về tài chính.Năm 2003,6 tập đoàn công nghiệp lớn của Hàn Quốc bị uỷ ban thuơng mại nước này (FTC) phạt tổng số tiền 31.5 tỷ won~27.2 tỷ USD do những giao dịch bất hợp pháp để trục lợi. Đáng chú ý là khoản phạt 29 triệu won đối với tập đoàn viễn thông SK. FTC cũng ra phán quyết phạt các tập đoàn nổi tiếng gồm: Samsung, Huyndai,LG và 2 công ty con của gia đình Huyndai là HuyndaiMotors và xưởng đóng tàu Huyndai.FTC tiến hành hàng loạt các điều tra về sai phạm tài chính đối với các Chaebol và theo các nhà phân tích sai phạm của các doanh nghiệp này là khó tránh khỏi khi tất cả đều có cơ cấu quản lý phức tạp đa quốc gia,dễ nảy sinh tình trạng trốn thuế,lậu thuế.Ngay sau đó các cheabol đã sửa chữa sai phạm một cách tích cực do yêu cầu của FTC. Mặt khác các Chaebol có tổ chức khép kín nên vấn đề minh bạch thông tin không cao, hiện tượng các công ty con mua bán cổ phiếu bất hợp pháp diễn ra rất khó kiểm soát. Tình trạng lập sổ đen trong các công ty gia tộc để hối lộ các quan chức chính phủ cũng phổ biến không kém..Như trường hợp của chủ tịch tập đoàn Huyndai.Ông Chung Mong-Koo bị nghi ngờ chỉ đạo thành lập quỹ đen trị giá khoảng 137,2 triệu USD để điều chuyển cổ phần bất hợp pháp giữa những người trong gia đình, tìm cách chuyển quyền kiểm soát tập đoàn cho cho con trai là Chung Eui-Sun, hối lộ một số quan chức chính phủ nhằm nhận được nhiều ưu đãi trong kinh doanh, đầu tư xây dựng, vay nợ ngân hàng. Ông Chung Eui-Sun cũng sẽ phải đối mặt với tội danh hối lộ. 4.3.Tình hình hiện nay 4.3.1.Nguy cơ tan rã Hiện nay,các Chaebol Hàn Quốc đang chuẩn bị bàn giao cho thế hệ thứ 3 và giới chuyên môn lo ngại giới lãnh đạo mới này có nguy cơ đưa cơ đồ của họ tộc xuống vực. Trong nội bộ, các tập đoàn bị xé nhỏ vì tranh chấp quyền thừa kế, quan điểm hiện thực mới của người thừa kế. Bên ngoài, thị trường trong nước đang trên đà mở rộng, thị trường tài chính toàn cầu ngày càng tăng, và ở nhiều quốc gia, luật pháp cho phép cổ đông thiểu số có tiếng nói lớn hơn trong công ty cũng làm khó các công ty gia đình. ở Hàn Quốc, với sự tham gia của nhiều tổ chức nước ngoài vào nền kinh tế nội địa, thuế đánh vào tài sản thừa kế cao cùng với sự bất đồng của những người thừa kế đã làm cho nhiều tập đoạn lớn như Samsung, Hyundai, LG và SK đứng trước nguy cơ bị chia sẻ. Một hệ quả khác của các cheabol hiện nay là đang phải chấp nhận cùng lúc hai mô hình quản lý.Thứ nhất là mô hình truyền thống do người cha sáng lập từ những ngày đầu hình thành tập đoàn.trải qua thời gian dài lãnh đạo công ty ông đã tự rút ra được những bài học kinh nghiệm và muốn áp dụng những kinh nghiệm ấy vào phương thức quản lý,không quan tâm đến những xu hướng của thị trường.hơn thế nữa ông cũng muốn truyền đạt lại nó cho những người con của mình để có thể thay ông lãnh đạo tập đoàn.nhưng môi trường mà người con đang sống có quá nhiều khác biệt so với thời kì trước đây và phương thức quản lý truyền thống của gia đình không còn phù hợp nữa.họ cần tìm ra mô hình mới để điều hành tập đoàn thích nghi với điều kiện đã thay đổi.Vì vậy thế hệ kế thừa phải lựa chọn giữa 2 con đường :giữ nguyên mô hình kinh doanh truyền thống do gia đình làm chủ hay liều lĩnh đưa công ty lên tầm thế giới. 4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi Hàn Quốc là điển hình cho thấy công ty sẽ nhanh chóng thay đổi cơ cấu sở hữu khi người sáng lập ra đi. Trong vòng mười năm qua, các tập đoàn lớn dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của gia đình. Ở Samsung, hiện nay cổ đông nước ngoài sở hữu phần lớn công ty 64% cổ phần. Tập đoàn Hyundai bị chia nhỏ ra cho ba người con của Chung Ju-yung sau khi ông này mất. Có sự thay đổi như vậy là do vừa qua chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một dự luật nhằm hạn chế sự ảnh hưởng của các cheabol bằng cách giới hạn vốn mà các tập đoàn này có thể đầu tư vào các công ty con.Chính phủ Tổng thống Roh Moo-Hyun quả quyết rằng sự thay đổi trên là cần thiết nhằm hạn chế ảnh hưởng của các gia đình đang quản lý các Chaebol và đồng thời cũng là giải pháp để bảo vệ các công ty nhỏ và khách hàng.Dự luật sẽ cắt quyền bỏ phiếu của các tập đoàn trong các công ty con từ 30% xuống 15% trước năm 2008 và trao quyền theo dõi tài khoản của các Chaebol tại ngân hàng cho ủy ban giám sát thực hiện công bằng trong thương mại. Đây sẽ là một bất lợi khi các Chaebol sẽ không thể kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của tập đoàn của chính gia đình mình nữa.Nhưng mặt khác có thể giúp các cheabol thu hút đựơc các nguồn lực bên ngoài để phát triển mở rộng tập đoàn hùng mạnh hơn. 4.3.3.Thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác Ngày nay với sự phát triển sâu rộng của xu thế toàn cầu hóa và khu vực hoá, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các chaebol phải cơ cấu tổ chức quản lý lại cho phù hợp với điều kiện kinh tế quốc tế đã thay đổi. Do đó, hầu hết các chaebol đã tìm cách tăng mức độ nhất thể hoá theo chiều dọc, tức là quá trình các Công ty lớn thâm nhập rộng rãi vào các ngành khác, mà những ngành này có quan hệ với các ngành hiện đang kinh doanh của Công ty như những bước trung gian của sản xuất và lưu thông để duy trì sự kiểm soát và giảm rủi rõ. Đây chính là khuynh hướng đa dạng hoá trong các cheabol,khuynh hướng này đã có từ những năm đầu thành lập nhưng đến nay có thể nói mức độ đa dạng hoá trong các cheabol ngày càng cao. Sung Hee Jwa (1999) trên cơ sở nghiên cứu hơn 10000 công ty của gần 50 nước trên thế giới đã đưa ra nhận định rằng mức độ đa dạng hoá trung bình của các công ty thuộc 20 chaebol hàng đầu của Hàn Quốc lớn gấp 10 lần so với mức độ đa dạng hoá trung bình của các công ty không thuọc chaebol. điển hìnhlà các tập đoàn Huyndai, Samsung, SK…Các tập đoàn này đều có số lượng thành viên rất lớn: Samsung (80), Huyndai(57), LG(49), Sk(47) và tham gia vào rất nhiều ngành công nghiệp khác nhau.Có thể thấy phát triển theo khuynh hướng trên là đúng đắn khi các cheabol đã lựa chọn công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất làm lĩnh vực kinh doanh chính của mình.khi tham gia các ngành này để cạnh tranh và nâng cao khả năng sinh lợi các cheabol buộc phải quan tâm đến vấn đề giảm chi phí thômg qua mở rộng quy mô sản xuất.Việc sử dụngcùng 1 công nghệ,cùng 1 hệ thống máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho phép các cheabol quảnn lý chi phí đầu vào và do đó gia tăng lợi nhuận. Như vậy có thể nói hiện nay các cheabol đang gặp nhiều khó khăn và thách thức trong việc thay đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với điều kiện kinh tế mới đã thay đổi.Nhưng trong suốt quá trình hình thành và phát triển đến nay đây là một mô hình thành công và tạo dấu ấn lớn trong hệ thống các mô hình kinh tế tập đoàn lớn trên thế giới. Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Sau gần một năm gia nhập WTO, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong phát triển và cải cách kinh tế, đời sống nhân dân cải thiện, mức tăng trưởng kinh tế cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%), 21 trong tổng số 23 chỉ tiêu kinh tế- xã hội năm 2007 đạt hoặc vượt chỉ tiêu khiến bức tranh kinh tế Việt Nam "sáng sủa" nhất trong 10 năm qua. Lần đầu tiên trong nhiều năm, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP. Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng khá cao 20,5%, các chỉ số khác như giá trị ngành dịch vụ, tổng thu ngân sách cũng vượt kế hoạch đề ra. Dữ trự ngoại tệ tăng gần 12 tuần nhập khẩu cuối năm 2006 lên gần 20 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2007, đáp ứng nhu cầu về nngoại tệ và bình ổn thị trường ngoại hối. Tổng dư nợ nước ngoài của Quốc gia vẫn ở mức an toàn, bằng 30,3% GDP, trong khi giới hạn cho phép là 50%. Đặc biệt sự kiện Việt Nam trở thành thành viên không chính thức của hội đồng Bảo An liên hợp Quốc năm 2008 càng chứng tỏ sự tin cậy của cộng đồng thế giới đối với nước ta. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong con mắt bạn bè thế giới. Đạt được thành tựu ấy có phần đóng góp không nhỏ của các tổng công ty trong khối Đảng bộ các doanh nghiệp nhà nước, họ đã tạo ra tỷ trọng lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các cân đối lớn, cung cấp các sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân như: than, xi măng, giấy viết, thép...tạo nền tảng quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này chưa cao, chưa tương xứng với các nguồn lực đầu tư của nhà nước. Đến 31/12/2004 trong tổng số gần 4000 công ty nhà nước thì số lượng thua lỗ, hoà vốn khoảng 800 đơn vị, chiếm 20% trong tổng số các công ty. Từ thực trạng này cho thấy, yêu cầu cấp bách hiện nay là phải đẩy mạnh việc sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước. Bằng cách nghiên cứu vấn đề cải tổ mô hình Chaebol Hàn Quốc, chúng ta có thể rút ra nhiều kinh nghiệm và vận dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay của mình, từ đó có hướng hoàn thiện hoặc xây dựng mới các tổng công ty tiến tới phát triển chúng thành những tập đoàn mạnh nhằm đưa nền kinh tế đi lên. 1.1. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn cải tổ Chaebol Từ sau khi cải tổ lại cơ cấu quản lý, hoạt động kinh doanh của các Chaebol dưới sự giám sát chặt chẽ của IMF, Hàn Quốc đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm. 1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ- một điều kiện then chốt đảm bảo cho thành công của cải tổ. Sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào lĩnh vực kinh doanh tài chính được xem là một trong những nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng. Hơn nữa, quan hệ liên minh giữa chính phủ và giới kinh doanh là yếu tố cản trở vai trò lãnh đạo kinh tế của chính phủ. Tổng thống Kim Dae Jung, sau khi đắc cử đã đưa ra những quan điểm cấp tiến hơn hẳn những chính thể trước đây. Ông cho rằng phải giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước và tự đặt cho mình sứ mệnh phát triển song hành nền kinh tế thị trường và nền dân chủ. Để cải tổ thành công, cần thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa chính phủ- ngân hàng- Chaebol. Tổng thống mới Roh Mun Hiêng cũng đi theo quan điểm này. Quá trình cải cách kinh tế của Hàn Quốc trong những năm qua là một quá trình mang tính hai mặt, vừa là quá trình giảm điều tiết tư nhân hoá vừa là quá trình tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Thực chất đó là quá trình làm cho vai trò kinh tế của chính phủ thích ứng với bối cảnh mới, chính phủ tạo khung khổ để thiết lập một nền kinh tế thị trường. Để thực hiện cải tổ, chính phủ đã chuyển mạnh điều tiết theo kiểu chỉ huy sang điều tiết theo khuôn khổ các thể chế. Chính phủ tập trung thực hiện vai trò lãnh đạo và tập trung mọi lực lượng trong việc xây dựng các khuôn khổ thể chế cho “nền kinh tế thị trường tiên tiến”, đặc biệt là các thể chế liên quan đến các doanh nghiệp và lĩnh vực tài chính. Chính phủ đã thực sự lấy lại được sức sống của mình. Để công cuộc cải tổ đạt được những mục tiêu đặt ra, chính phủ cần chấm dứt những can thiệp của mình vào hoạt động kinh doanh của các Cheabol. Chính phủ cần tập trung vào việc ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc74624.DOC
Tài liệu liên quan