LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
TỔNG QUAN VỀ TRANG TRẠI 3
VÀ KINH TẾ TRANG TRẠI 3
I- TRANG TRẠI VÀ KINH TẾ TRANG TRẠI. 3
1. Trang trại là gì? 3
2. Một số khái niệm về kinh tế trang trại. 4
II- NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA KINH TẾ TRANG TRẠI VÀ TIÊU CHÍ NHẬN DẠNG TRANG TRẠI . 6
1. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại. 6
2. Tiêu chí nhận dạng trang trại. 7
III- CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI. 9
1. Những điều kiện về môi trường pháp lý. 9
2. Các điều kiện về phía trang trại. 9
CHƯƠNG II 10
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN 10
KINH TẾ TRANG TRẠI 10
I- KINH TẾ TRANG TRẠI - TÍNH ĐẶC THÙ TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP. 10
1. Sản xuất nông nghiệp với quy mô sản xuất hợp lý. 10
2. Tính ưu việt của hình thức sản xuất trang trại trong nông nghiệp. 10
II- SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KTTT LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG. 11
1. Những hạn chế của kinh tế nông hộ trong sản xuất hàng hoá. 11
2. Kinh tế trang trại là kết quả tất yếu của kinh tế hộ gắn với sản xuất hàng hoá là bước tiến bộ mới về tổ chức sản xuất, nông nghiệp của nhân loại. 12
3. Quy luật hình thành kinh tế trang trại. 13
III. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA KTTT TRONG THỜI KỲ CNH-HĐH. 13
1. KTTT góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. 14
2. Kinh tế trang trại thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. 15
3. Tính tất yếu của sự phát triển KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH. 15
CHƯƠNG III 17
QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG THỜI KỲ 17
CNH-HĐH NƯỚC TA. 17
I- NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KTTT Ở NƯỚC TA. 17
1. Kinh tế trang trài (KTTT) sẽ là loại hình sản xuất cơ sở chủ yếu trong nền nông nghiệp hàng hoá, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. 17
2. Phát triển KTTT vừa phải đạt hiệu quả kinh tế cao vừa đảm bảo không chệch hướng XHCN. 18
3. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta những năm tới, chủ yếu là phát triển trang trại gia đình. 19
4. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta 20
5. Đa dạng hoá về loại hình KTTT. 21
6. Phát triển KTTT phải có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. 21
II- PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KTTT Ở NƯỚC TA. 22
1. Phương hướng chung. 22
2. Phương hướng phát triển các loại hình trang trại theo khía cạnh sở hữu, hợp tác, đặc điểm của chủ trang trại. 22
3. Phương hướng phát triển KTTT từng vùng cụ thể. 22
CHƯƠNG II 26
QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC 26
VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI Ở NƯỚC TA 26
I- VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÍ KINH TẾ TRANG TRẠI. 26
1. Quản lý Nhà nước về KTTT. 26
2. Xúc tiến nghiên cứu khoa học về KTTT và xây dựng, hoàn thiện luật, văn bản luật về trang trại. 26
II- NHỮNG CHÍNH SÁCH CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN KTTT Ở NƯỚC TA. 27
1. Chính sách về đất đai với phát triển KTTT. 27
2. Chính sách về vấn đề phát triển KTTT. 28
3. Chính sách về phát triển nguồn nhân lực của KTTT. 29
4. Chính sách về khoa học - công nghệ và môi trường với KTTT. 30
5. Chính sách về thị trường chế biến và tiêu thụ sản phẩm với KTTT. 31
6. Chính sách về cơ sở hạ tầng nông thôn để phát triển KTTT. 32
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu phát triển và quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xí nghiệp nông nghiệp tư bản có qui mô lớn với hy vọng sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ. Nhưng ngược lại hiệu quả sản xuất (năng suất) của các xí nghiệp có quy mô lớn lại thấp hơn các mô hình sản xuất có quy mô nhỏ hơn. ở nước ta chính bởi tập trung sản xuất quy mô lớn như nông, lâm trường và hợp tác xã trong thời kỳ bao cấp trước đây đã dẫn tới năng suất lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế.
Nhưng nếu sản xuất với qui mô nhỏ quá thì sao? Đó là hình thức sản xuất sẽ không đáp ứng được về yêu cầu về các yếu tố sản xuất "đủ lớn" vốn, đất, lao động, trình độ chuyên môn hoá ... dẫn đến năng suất thấp (như đã nêu ở chương trước) mà đại biểu là kinh tế hộ với hạn chế của nó (sẽ trình bày cụ thể ở phần II)
Như vậy: Hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi một quy mô hợp lý trong điều kiện tự nhiên về địa lý, không gian, thời gian cụ thể
2. Tính ưu việt của hình thức sản xuất trang trại trong nông nghiệp.
KTTT mà chủ yếu là KTTT gia đình xuất phát từ kinh tế hộ do đó tính tự chủ trong sản xuất rất cao. Người chủ trang trại vừa là người quản lý vừa là người lao động trực tiếp vào các yếu tố sản xuất, tính linh hoạt trong lao động bởi đặc điểm tác động vào vật sống (cây trồng vật nuôi) được đáp ứng. Mặt khác lao động trong trang trại gồm cả lao động làm thuê và lao động chính (lao động của người trong gia đình) ở các trang trại gia đình làm cho "hiệu quả quản lý" trong sản xuất hơn hẳn các hình thức sản xuất khác dẫn tới năng suất lao động cao hơn.
KTTT với quy mô sản xuất hợp lý có khả năng thích ứng linh hoạt được với yêu cầu thị trường và hạn chế được nhược điểm của các hình thức sản xuất khác; kinh tế hộ và xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà nguyên nhân cơ bản là do đặc điểm trong sản xuất nông nghiệp không phù hợp hay không còn phù hợp nữa.
Lúc đầu chính Marx cũng cho việc tập trung nông nghiệp thành các xí nghiệp sản xuất quy mô lớn là điều tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá nền nông nghiệp TBCN - nhưng đến tác phẩm cuối cùng, Marx đã viết "ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là xí nghiệp có quy mô lớn mà là các trang trại không dùng lao động làm thuê".
Do đó, KTTT phát huy được đặc thù riêng trong sản xuất nông nghiệp với quy mô hợp lý và linh hoạt làm cho năng suất lao động cao là cơ sở để tồn tại và phát triển KTTT.
II- Sự hình thành và phát triển KTTT là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường.
1. Những hạn chế của kinh tế nông hộ trong sản xuất hàng hoá.
Kinh tế nông hộ có thể được xem xét ở hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Kinh tế nông hộ mang tính tự cung tự cấp. ở giai đoạn này sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để thoả mãn nhu cầu của hộ gia đình, nếu có trao đổi thì mục đích vẫn là để thỏa mãn nhu cầu đó.Do vậy ở giai đoạn này chưa thể hiện tính chuyên môn hoà trong sản xuất trình độ quản lý và khoa học công nghệ được ứng dụng còn thấp nghãi là giai đoạn này còn nằm trong phương thức sản xuất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên.
+ Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn kinh tế nông hộ quá trộ lên sản xuất hàng hoá. ở giai đoạn này do năng suất lao động được nanag lên nhờ nâng cao được trình độ quản lý và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nền sản phẩm sản xuất ra có phần dư thừa so với nhu cầu của hộ gia đình. Phần dư thừa này trở thành hàng hoá trên thị trường. Dần dần các gia đình sản xuất hướng về đòi hỏi của thị trường, tính chuyên môn hoá trong trong sản xuất nhờ nhân công lao động xã hội ngày một tăng. Song do đặc điểm của kinh tế nông hộ là sản xuất nhỏ, quy mô về vốn, đất đai, lao động không đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hàng hoá ngày một phát triển. Từ đó xuất hiện mâu thuẫn - hạn chế của kinh tế nông hộ - hình thức kinh tế mới ra đời kinh tế trang trại.
2. Kinh tế trang trại là kết quả tất yếu của kinh tế hộ gắn với sản xuất hàng hoá là bước tiến bộ mới về tổ chức sản xuất, nông nghiệp của nhân loại.
Như đã trình bày ở trên kinh tế hộ với những hạn chế của nó không đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường. Vậy sự thay thế hình thức sản xuất mới kinh tế trang trại - cơ khí khoa học về tiến bộ trong tổ chức sản xuất như thế nào?
+ Về các yếu tố sản xuất: Đòi hỏi một quá trình tích tụ về vốn, đất, lao động đủ lớn để tiền hành sản xuất ở trình độ chuyên môn hoá để sản xuất hàng hoá.
- Vốn của trang trại phải đảm bảo để tiến hành sản xuất kinh doanh đầy đủ chu kỳ kỳ sản xuất hàng hoá: từ quá trình nghiên cứu thị trường, mua nguyên vật liệu, công cụ lao động, thuê nhân công đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo về cơ cấu vốn cố định và vốn lưu động.
- Đất đai của trang trại đủ lớn về diện tích để tiến hành sản xuất tuỳ theo ngành nghề kinh doanh.
- Lao động có trình đọ văn hoá và chuyên môn có thể tiếp thu được và áp dụng khoa học công nghệ và trong thâm canh, sản xuất nông nghiệp.
+ Có áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sản xuất.
+ Có hạch toán kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh doanh với mục tiêu xác định lỗ lãi, lợi nhuận.
+ Quản lý trang trại vừa mang tính sản xuất sản phẩm nông nghiệp vừa mang tính kinh doanh. Quản lý trong đó là một khoa học vừa là một nghệ thuật.
+ Sản xuất - kinh doanh của trang trại linh hoạt theo cơ chế thị trường thông qua cạnh tranh. Một động lực để phát triển sản xuất - phát triển kinh tế.
3. Quy luật hình thành kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại được hình thành theo hai con đường khác nhau:
Cách thứ nhất, đó là quá trình diễn ra chậm chạp một cách tự phát, lâu dài gắn liền với quá trình tích tụ ruộng đất, chuyển dịch lao động và đô thị hoá nông thôn. Những chủ hộ nông dân làm ăn giỏi dần vươn lên giàu có sẽ mua lại ruộng đất của những nông dân nghèo không biết làm ăn hoặc đã chuyển dịch sang nghề khác để trở thành chủ trang trại- kinh tế trong trang trại ra đời.
Cách thứ hai:Là quá trình hình thành mọt cách nhanh chóng các trang trại dưới tác động của Nhà nước gắn liền với việc thực thi các chính sách tích cực cũng như tiêu cực đối với nông dân. Trên thế giới quá trình hình thành trang trại ở Anh, Đức, Pháp đã diễn ra từ đầu thế kỷ 17 gắn liền vưói việc tước đoạt ruộng đất và bần cùng hoá nông dan gắn với sự ra đời của cả công nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các trang trại ở Mỹ được hình thành chủ yếu nhờ chính sách khai hoang và nhập cư.
ở nước ta hơn 80% dân số vẫn sống ở nông thôn cộng với tỷ lệ tăng dân số cao ở nông thôn đã làm cho bình quân ruộng đất canh tác đã giảm dưới 1000m2/ nhân khẩu. Đây là mức bình quân vào loại thấp nhất thế giới. Mặt khác, đối với 80% dân số ở nông thôn hiện nay thì ruộng đất vẫn là tài sản quan trọng nhất. Chính vì vậy quá trình tích tụ ruộng đất tự phát để hình thành trang trại ở nước ta sẽ diễn ra theo 2 sắc thái khác nhau là nhanh chóng ở các vùng có điều kiện về đất đai thông qua các chính sách khuyến khích tích cực của nhà nước và ngược lại là quá trình tự phát chậm chạp diễn ra tại những vùng đồng bằng đông dân phụ thuộc vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đô thị hoá . Từ thực tế cho thấy, việc phát triển các trang trại cần tập trung ở các vùng trung du, miền núi và các vùng đất còn hoang hoá và chỉ nên khuyến khích các trang trại vừa và nhỏ phù hợp với trình độ quản lý và điều kiện đất đai của nước ta.
III. Vị trí và vai trò của KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH.
1. KTTT góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Kinh tế trang trại với phương thức quản lý và sản xuất tiến bộ khắc phục được tình trạng sản xuất manh muốn, lẻ tẻ bằng cách tạo nên các vùng chuyên môn hoá và thâm canh cao. Năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp tăng lên cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Trong nông nghiệp, KTTT làm phân công lao động, chuyên môn hóa các ngành nghề dẫn đến các sản phẩm đa dạng, hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm ngày một cao. Cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp tự chuyển dịch bởi bàn tay vô hình của thị trường theo hướng hiện đại hóa. Mặt khác trong quá trình phát triển hình thức sản xuất của mình,KTTT làm thay đổi cơ cấu kinh tế thể hiện:
+ Thúc đẩy sự phát triển công nghiệp chế biến và xuất hiện nhiều ngành nghề mới; cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong cơ chế thị trường, nhu cầu thị trường ngày một cao từ đó đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp được sản xuất từ trang trại phải được chế biến nhằm đáp ứng thị trường trong và ngoài nước,cũng vì nhu cầu thị trường mà từ đó xuất hiện một số ngành nghề chế biến mới để thoả mãn nhu cầu ngày một phong phú hơn.
+ Xuất hiện và phát triển các ngành dịch vụ ở nông thôn. Trước hết là những ngành dịch vụ phục vụ cho yếu tố đầu vào và đầu ra của trang trại để đảm bảo yếu tố sản xuất của trang trại và tiêu thụ sản phẩm. Về thực chất đây cũng chính là một hình thức chuyên môn hoá.
Trong nền kinh tế quốc dân KTTT góp phần làm tăng trưởng kinh tế trong nông nghiệp dẫn tới tỷ trọng về cơ cấu ngành nông nghiệp giảm dần trong GDP để đáp ứng đòi hỏi của quá trình CNH-HĐH. Cơ cấu lao động trong nông nghiệp cũng giảm dần so với các ngành sản xuất vật chất và dịch vụ khác.
Về môi trường sinh thái do sản xuất tự chủ và vì lợi ích thiết thực lâu dài, các trang trại luôn khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong không gian sinh thái trại. Phần lớn các trang trại ở trung du, miền núi đã góp phần quan trọng trong việc trồng rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, những việc làm này đã góp phần tích cực cải tạo và bảo bệ môi trường sinh thái trên các vùng đất nước.
2. Kinh tế trang trại thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Như chúng ta đã biết CNH-HĐH thực chất là quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn dựa trên trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng.
KTTT với hình thức sản xuất có hiệu quả kinh tế cao làm cho lực lượng sản xuất ngày một phát triển dưới tác động của các yếu tố sản xuất, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật v.v... Một mặt trong quá trình CNH-HĐH nông thôn với trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng phát triển của mình là một động lực quan trọng để tiến hành CNH-HĐH đất nước Mặt khác CNH-HĐH lại sản sinh ra tiến bộ khoa học kỹ thuật và tác động trở lại để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động hữu cơ trên có thể hiểu là "bàn tay vô hình" có tính dây chuyền đưa CNH-HĐH đến thành công.
3. Tính tất yếu của sự phát triển KTTT trong thời kỳ CNH-HĐH.
a. Kinh tế trang trại là sự phát triển tất yếu của nền nông nghiệp trong quá trình CNH-HĐH.
+ Chính CNH đã đặt yêu cầu khách quan cho phát triển sản xuất nông sản hàng hoá nhằm đáp ứng yếu cầu CNH-HĐH và tạo ra những điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát triển. KTTT là một tiến bộ mới về tổ chức sản xuất nông nghiệp chung của xã hội loài người.
b. Kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp gắn liền với quá trình CNH từ thấp đến cao.
- Trong giai đoạn đầu của CNH, KTTT phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp, sau đso từng bước đi vào sản xuất tập trung chuyên canh lớn.
- ở hầu hết các nước, trang trại là hình thức tổ chức sản xuất giữ vị trí xung kích trong quá trình CNH nông nghiệp, nông thôn và trở thành lực lượng chủ lực khi nền kinh tế phát triển đến giai đoạn cao.
c. Kinh nghiệm của các nước cho thấy những điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển KTTT đối với mỗi quốc gia là có nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, hình thành nền kinh tế thị trường. Trong đó các yếu tố sản xuất nông nghiệp đầu vào, đầu ra đều là hàng hoá và có sự tác động của Nhà nước, công nhận và khuyến khích kinh tế trang trại phát triển.
Phát triển KTTT ở các nước đang phát triển trên đường đi lên CNH, trong đó có Việt Nam là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là điều cần thiết.
Chương III
Quan điểm và phương hướng phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ
CNH-HĐH nước ta.
I- Những quan điểm cơ bản về phát triển KTTT ở nước ta.
Quan điểm phát triển KTTT xuất phát từ "cơ sở khoa học về phát triển kinh tế trang trại". Coi sự phát triển của KTTT là tất yếu là quy luật kinh tế khách quan và đặc biệt là phát triển KTTT đáp ứng yêu cầu của CNH-HĐH đất nước. Trên cơ sở đó phát triển KTTT cần dựa trên những quan điểm sau đây.
1. Kinh tế trang trài (KTTT) sẽ là loại hình sản xuất cơ sở chủ yếu trong nền nông nghiệp hàng hoá, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá.
Quan điểm này có vị trí rất quan trọng. Qua đó cho biết vai trò của KTTT đối với sự phát triển của nền nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phát triển như thế nào và hướng nào? Cơ sở khoa học của quan điểm này đã được trình bày ở chương trước có thể tóm tắt lại như sau:
+ KTTT là hình thức sản xuất kinh doanh phù hợp với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Tác động vào vật sống (cây trồng, vật nuôi).
- Cho phép người nông dân sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý và hiệu quả nhấ nguồn tài nguyên nông nghiệp để sản xuất.
- Với nước ta, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cung, tự cấp thì trang trại là hình thức thích hợp nhất để chuyển nền nông nghiệp này sang sản xuất hàng hoá.
- Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau (như vừa và lớn).
+ Sự hình thành và phát triển KTTT là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế thị trường.
- Có khả năng dung nạp các trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau về xã hội hoá, chuyên môn hoá, thương phẩm hoá.
- Có khả năng dung nạp và năng lực các cấp độ công nghệ khác nhau từ thô sơ đến hiện đại.
- Có khả năng liên kết các loại hình khác nhau.
- Khắc phục được hạn chế về yếu tố sản xuất trình độ quảnl ý, khoa học, công nghệ, khả năng thích ứng với thị trường so với các hình thức sản xuất nông nghiệp khác.
+ Kinh tế trang trại có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH.
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Làm thay đổi cơ cấu kinh tế, đời sống xã hội và đảm bảo môi trường sinh thái.
Từ cơ sơ khoa học như đã trình bày ở trên có thể đưa ra kết luận KTTT sẽ là một trong những loại hình sản xuất cơ sở chủ yếu trong nông nghiệp nước ta những năm tới.
2. Phát triển KTTT vừa phải đạt hiệu quả kinh tế cao vừa đảm bảo không chệch hướng XHCN.
Hiệu quả KTTT phải được đánh giá trên ba mặt: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Việc nâng cao hiệu quả kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của KTTT. Nhưng hiệu quả kinh tế không chỉ xét một chiều mà cần gắn liền với hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Hiệu quả của KTTT thể hiện ở tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng các hộ giàu, khá trong vùng là bộ phân tiên tiến có trình độ phát triển cao hơn so với các bộ phận khác trong nông thôn, KTTT làm gương mẫu cho các hộ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ, dẫn dắt các hộ nông dân ngày càng tốt hơn.
Sự tồn tại và phát triển KTTT là một tất yếu khách quan cần được khuyến khích phát triển. Phát triển KTTT có chệch hướng XHCN hay không phải xem xét hoạt động của trang trại có đi ngược với mục tiêu XHCN hay không. Theo quan điểm Mac-xít xuất phát từ hình thức chi phối có thể phân KTTT gồm: Trại trại gia đình (TTGĐ lao động, gia đình là chính) và trang trại tư bản (TTTBTN- lao động làm thuê là chính). KTTT trong quá trình phát triển có thể xem xét xu hướng phát triển đi lên CNXH ở hai loại hình trên như sau:
- TTGĐ trong sự phát triển tự phát sẽ bị nhân hoá và đi theo con đường TBCN: một số hộ giàu lên, tích tụ và tập trung ruộng đất trở thành TTTBTN, còn số đang bị phá sản đi làm thuê. Chỉ có sự hỗ trợ của kinh tế Nhà nước (KTNN) thì kinh tế TTGĐ mới không bị phân hoá và cuối cùng đi vào các hình thức khác nhau của kinh tế hợp tác (KTHT- chủ trang trại thành xã viên) hoặc hợp nhất thành nông, lâm trường quốc doanh thì mới không bị phân hoá và mới phát triển theo còn được XHCN, nông dân lao động mới thực sự được giải phóng và vẫn giữ được quyền sở hữu của mình không bị phá sản để trở thành người đin làm thuê.
- Kinh tế TTTBTN rõ ràng là tư sản, trong điều kiện vai trò chủ đạo của KTNN kém hiệu lực là kinh tế TTTBCN cũng tẹ phát và cả tự giác phát triển qua con đường TBCN. Nếu kinh tế nông nghiệp phát huy vai trò chủ đạo thì kinh tế TTTBCN tất yếu sẽ đi theo con đường của CNXH, thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân (và tư bản Nhà nước) trong nền kinh tế nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội (mà Đại hội VIII của Đảng đã xác định).
Như vậy trong KTTT cả TTGĐ và TTTBTN luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN. Rất cần có sự định hướng XHCN cho KTTT bằng những chính sách kinh tế và pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
3. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta những năm tới, chủ yếu là phát triển trang trại gia đình.
Quan điểm phát triển KTTT theo hướng này được dựa trên cơ sở sau:
Một là, phát huy được ưu thế của hình thức KTTT, với loại hình này dễ thay đổi quy mô hợp lý với yêu cầu của thị trường, tính tự chủ trong sản xuất và quản lý cao.
Hai là, xuất phát từ thực tế nước ta, hơn 80% dân số sống ở nông thôn với đơn vị sản xuất cơ sở trong nông nghiệp: kinh tế hộ đang quá độ từ nền nông nghiệp tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá.
Ba là, phát triển kinh tế trang trại gia đình đáp ứng được quá trình đô thị hoá nông thôn, dần dần nâng cao đời sống của người dân.
Bốn là, phát triển trang trại gia đình xuất phát từ quan điểm của Đảng ta trong quá trình CNH-HĐH đưa nước ta đi lên CNXH với nền kinh tế nhiều thành phần cùng phát triển có vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước theo định hướng XHCN.
4. Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta
những năm trước mắt nên tập trung mạnh ở các vùng trung du, miền núi và những vùng có diện tích đất nông nghiệp bình quân trên một nhân khẩu cao.
Trong một vài năm tới, với nỗ lực cao của người nông dân, chắc chắn sản xuất nông nghiệp ở nước ta sẽ có bước phát triển đáng kể so với hiện nay. Mặc dù vậy lúc đó nền nông nghiệp của nước ta cũng chưa thể trở thành nền nông nghiệp hiện đại được. Sản xuất nông nghiệp năng suất còn thấp, thu nhập do khu vực này mang lại chưa cao, son nó vẫn là nơi giải quyết việc làm và thu nhập cho đại bộ phận lao động nông thôn. Điều này có nghĩa là, trong một vài năm tới các vùng đất chật người đông, khả năng tập trung ruộng đất vào một bộ phận nông dân có điều kiện và kinh nghiệm sản xuất để hình thành trang trại diễn ra rất khó khăn và chậm chạp. Chính vì lẽ đó, phát triển KTTT trước mắt còn tập trung ở vùng trung du miền núi và những vùng có diện tích đất nông nghiệp bình quân trên một nhân khẩu tương đối cao. Việc này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho đất nước.
Một là; chúng ta có thể khai khấu thêm đất đai, mặt nước để đưa vào sản xuất nông -lâm-thủy sản, làm cho quỹ đất nông nghiệp tăng lên.
Hai là; sẽ thu hút và giải quyết việc làm, đảm bảo thu nhập cho một bộ phận không nhỏ lực lượng lao động đang dư thừa trong nông thôn.
Ba là; góp phần tăng khối lượng các loại nông sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước và xuất khẩu.
Bốn là; việc phát triển kinh tế ở các vùng hoang hoá, vùng đồi núi sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường nền an ninh trong quốc phòng đất nước.
5. Đa dạng hoá về loại hình KTTT.
Đa dạng hoá các loại hình KTTT về sỡ hữu về quy mô, cơ cấu kinh doanh và phương thức quản lý là hướng phát triển tất yếu của KTTT ở nước ta.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là để xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với nước ta theo định hướng XHCN, tạo ra sức mạnh tổng hợp từ nhiều loại hình sở hữu, hình thức kinh doanh trên cơ sở từng bước thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước dựa trên nền tảng của kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác.
ở nước ta có thể chia thành 3 vùng lớn: Miền núi và trung du, đồng bằng, ven biển. Mỗi vùng có những sắc thái riêng đòi hỏi các dạng hình KTTt phải phù hợp. Vùng miền núi trung du, ven biển là nơi đất rộng, mật độ dân số thấp có điều kiện phát triển nhanh KTTT. Vùng đồng bằng đất chật, người đông nên phát triển KTTT theo hướng như: Trồng rau, cây ăn quả, cây cảnh, chăn nuôi... theo phương thức thâm cạnh.
6. Phát triển KTTT phải có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Có thể nói sự phát triển của KTTT ở nước ta trong những năm vừa qua là mang nặng tính tự phát, thiếu hẳn sự hướng dẫn và giúp đỡ của Nhà nước. Do vậy các trang trại gặp phải khong ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong việc tìm kiếm vốn đầu tư, trong việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, trong việc nâng cao trình độ quản lý trong việc chế biến, tiêu thụ sản phẩm làm ra.
Do đó, nếu trong tương lai chúng ta thừa nhận KTTT là một trong những loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu của nước ta thì chúng ta phải công nhận nó về mặt pháp lý và cơ chế quản lý và chính sách thoả đáng đối với nó, trong đó quan trọng nhất là:
- Có nghị định của Chính phủ về phát triển KTTT
- Chính sách đất đai.
- Chính sách tài chính.
- Chính sách thuế.
- Chính sách khoa học công nghệ.
- Chính sách tiêu thụ sản phẩm.
- Chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với chủ trang trại.
Có như vậy chúng ta mới hy vọng KTTT ở nước ta phát triển nhanh và đúng hướng.
II- Phương hướng phát triển KTTT ở nước ta.
1. Phương hướng chung.
- Thúc đẩy sự hình thành các trang trại, nhất là ở trung du miền núi và một số vùng ven biển có điều kiện.
- Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng hoá cơ cấu kinh doanh để thúc đẩy sự hình thành các loại KTTT.
- Đa dạng hoá các loại hình KTTT về quy mô, cơ cấu kinh doanh sở hữu và phương thức quản lý.
- Tăng cường quản lý Nhà nước về KTTT, tạo những điều kiện để hình thành KTTT thực sự, tăng cường việc kiểm soát để tránh các hiện tượng tiêu cực.
2. Phương hướng phát triển các loại hình trang trại theo khía cạnh sở hữu, hợp tác, đặc điểm của chủ trang trại.
Kinh tế hộ nông dân về cơ bản là hình thức đơn chủ thể. Từng hộ nông dân có thể tiến hành canh tác trên đất đai Nhà nước giao hoặc nhận, sang nhượng của các hộ khác.
Việc xuất hiện các chủ trang trại và nguồn vốn đa dạng là nhân tố quan trọng làm thúc đẩy nhanh việc hình thành KTTT ở nước ta, vừa qua và trong thời gian tới cần khuyến khích các chủ trang trại là các hộ nông dân vươn lên hình thành KTTT dưới hình thức cá thể, các trang trại dưới hình thức liên doanh liên kết, các trang trại dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân.
3. Phương hướng phát triển KTTT từng vùng cụ thể.
a. Vùng ven biển:
- Tiểu ven biển không có điều kiện nuôi trồng thuỷ sản: đặc điểm cơ bản của vùng này là đất chật, người đông, khó có khả năng mở mang nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản. Thu nhập chính của vùng này là đánh bắt thuỷ sản và một phần làm ruộng. Trước mắt cần triển khai, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển một phần dân cư đi xây dựng các vùg kinh tế mới. Trên cơ sở kết hợp nông lâm ngư, công nghiệp chế biến và dịch vụ, tiểu ở vùng này sẽ xuất hiện những trang trại theo hướng kinh doanh tổng hợp.
- Tiểu vùng đầm phá có khả năng nuôi trồng thuỷ sản. Về cơ bản ở đây vẫn là phát triển kinh tế hộ nông dân. ở nơi có diện tích mặt nước lớn có thể đấu thầu theo hình thức một chủ hoặc nhiều gia đình liên doanh để hình thành ngay từ đầu những trang trại nuôi trồng thuỷ sản có quy mô trung bình và lớn. Kinh doanh nuôi trồng thuỷ sản, hải sản đòi hỏi có quy mô vốn đầu tư lớn. Vì vậy tổ chức sản xuất theo hình thức liên doanh theo từng nhóm hộ gia đình cùng lập trang trại để kinh doanh sẽ được phát triển.
- Tiểu vùng biển được bồi đắp hàng năm; có rừng ngập mặn hoặccó nhu cầu trồng mới rừng ngập mặn chắn sóng. Tiểu vùng này có thể được chia thành hai dạng: vùng đất mới bồi đắp và vùng ngập mặn nhiều năm có rừng tự nhiên.
ở dạng thứ nhất, nếu thực hiện hình thức trang trại ngay từ đầu kết hợp với chương trình di dân, xây dựng các vùng kinh tế mới. Sau khi khảo sát cơ bản, Nhà nước cần đầu tư ban đầu những điều kiện cơ bản cho sản xuất và đời sống như đê biển, thuỷ lợi, đường giao thông, các công trình dân sinh, quy hoạch tổng thể từng vùng và quy hoạch chi tiết. Từ đó chuyển đến một số hộ có diện tích đất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản đủ lớn để hình thành KTTT.
ở dạng thứ hai, mạnh dạn giao rừng, mặt nước, đất nông nghiệp lâu dài cho các hộ. Nơi thưa dân có thể Nhà nước hỗ trợ ban đầu như ở dạng thứ nhất để hình thành trang trại. Lúc đầu chủ yếu KTTT nên hoạt động nông nghiệp: Trồng trọt, bảo vệ và trồng rừng ngập mặn, nuôi trồng thuỷ sản. Dần dần trên cơ sở những trang trại kinh doanh nông nghiệp xuất hiện yêu cầu tác động của nông nghiệp, dịch vụ.
b. Vùng trung du và miền núi.
Nhìn chung đây là một vùng có tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế, đất đai và thời tiết đa dạng có khả năng phát triển nhiều dạng cây trồngcó giá trị kinh tế cao, chăn nuôi đàn gia súc thuận lợi. Vùng trung du và miền núi có thể chia thành các tiểu vùng:
- Tiểu vùng cao có rừng: Hướng cơ bản là thực hiện định canh định cư, hình thành KTTT là kinh doanh lâm nghiệp trên cơ sở giao đất, giao rừng cho các thành phần kinh tế. Đây là vùng có vị trí đặc biệt: bảo vệ lảnh thổ quốc gia, an ninh quốc phòng, giữ rừng đầu nguồn. Do đó không nên định mức hạn điền hoặc nâng mức hạn điền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34996.doc