Lời mở đầu 3
Phần một: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và marketing hiện nay của công ty TNHH Việt Thành 5
I. Tổng quan về công ty TNHH Việt Thành 5
1. Quá trình phát triển của công ty TNHH Việt Thành 5
2. Cơ cấu tổ chức của công ty TNHH Việt Thành 8
II. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 9 TNHH Việt Thành 9
1. Năng lực sản xuất chung của công ty 9
1.1. khả năng tài chính 9
1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật lực lượng lao động 10
1.3. Lực lượng lao động 11
2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2002-2005 12
III. Thực trạng hoạt động marketing của công ty TNHH Việt Thành 14
1. Tổ chức bộ máy marketing của công ty 14
2. Tình hình xây dựng và thực hiện chiến lược marketing của công ty 16
3. Những hoạt động marketing của công ty 16
4. Những đánh giá chung về môi trường kinh doanh công ty đang phải đối mặt 21
Phần hai: Chương trình nghiên cứu nhằm đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng đối vơi các sản phẩm thạch rau câu Poke 23
I. Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu 23
1. Xác định vấn đề nghiên cứu 23
2. Xác định mục tiêu nghiên cứu 24
3. Phạm vi nghiên cứu 25
II. Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức 26
1. Các phương pháp thu thập thông tin 26
1.1. Phương pháp quan sát 27
1.2. Phương pháp điều tra 29
2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra 31
3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu 33
III. Quá trình thu thập và xử lý thông tin 33
IV. Báo cáo kết quả thu được 33
Phần ba: một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường 37
I. Nhóm giải pháp về phía công ty 37
1. Xây dựng một nề nếp làm việc mới 37
2. Xây dựng hệ thống thông tin nội bộ trong công ty 39
II. Nhóm giải pháp marketing hỗn hợp 41
1. Xây dựng thương hiệu Poke trên thị trường 41
2. Thoả mãn sự hài lòng của người tiêu dùng thông qua 4P 43
2.1. Sản phẩm 43
2.2. Giá cả 44
2.3. Phân phối 47
2.4. Xúc tiến hỗn hợp 49
Kết luận 51
Tài liệu tham khảo 52
Phụ lục 1 53
Phụ lục 2 . .55
70 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1887 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu Poke, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àm rõ ngay sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu. Thực ra, việc trình bày mục tiêu nghiên cứu chính là sự diễn giải các nội dung chi tiết có liên quan đến vấn đề hay đề tài nghiên cứu đã được lựa chọn. Do đó, khi xác định vấn đề nghiên cứu của công ty là người tiêu dùng thì công ty cũng đã xác định ra một số mục tiêu có thể có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của công ty đó là do sản phẩm của công ty không đáp ứng được những yêu cầu về chất lượng, bao bì mẫu mã cho khách hàng, do hệ thống kênh phân phối hoạt động chưa được tốt, giá cả sản phẩm của công ty không phù hợp với khách hàng mục tiêu, sự nhận biết của khách hàng đối với sản phẩm của công ty là chưa đầy đủ
Từ việc xác định được các mục tiêu trên, công ty xây dựng nên một mô hình cây mục tiêu với những mục tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phương pháp tiếp cận này cho phép công ty xây dựng được các mục tiêu nghiên cứu một cách có hệ thống, nhờ thế mà đối tượng nghiên cứu được nhìn nhận, xem xét một cách toàn diện.
Ngoài ra công ty cũng sử dụng cách thức xây dựng mục tiêu nghiên cứu dựa trên những thông tin có được. Với cách thức này, công ty dựa vào những thông tin chưa có hoặc chưa đầy đủ để làm cái đích để hướng vào. Theo cách thức này thì với những mục tiêu nào đã biết được nguyên nhân, bản chất của tình hình và cách thức giải quyết thì sẽ loại bỏ chúng ra. Chính vì vậy, sau khi đã xem xét và sàng lọc các vấn đề nghiên cứu đang đứng trước công ty thì công ty đã lựa chọn mục tiêu nghiên cứu về sự nhận biết của người tiêu dùng, một khía cạnh mà hiện này công ty dường như không có một ít thông tin gì về nó.
Sau khi đã xác định được mục tiêu nghiên cứu, một giả thiết được hình thành đối với người làm nghiên cứu của công ty đó là người tiêu dùng nhận biết chưa đầy đủ về các sản phẩm thạch rau câu mà công ty hiện đang cung cấp. Giả thiết này sẽ làm cơ sở cho công ty trong suốt quá trình nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi, cùng với đó là những hạn chế về mặt thời gian, chi phí và trình độ của người thực hiện nghiên cứu, do đó chương trình nghiên cứu này chỉ được giới hạn trong phạm vi tương đối nhỏ, đó là các khu vực thị trường trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phạm vi này tuy chỉ trong thành phố nhưng đây lại là một khu vực thị trường trung tâm của công ty với những siêu thị, đại lý và trung tâm bán hàng lớn của công ty đặt tại đây. Mặt khác, khu vực này cũng là một khu vực thị trường rất đa dạng và phong phú với rất nhiều dạng khách hàng khác nhau, có những nhu cầu và mong muốn khác nhau.
Do đó, việc nghiên cứu tại khu vực thị trường này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty có thể hiểu biết kỹ hơn về những nhóm khách hàng mà mình đang tập trung những nỗ lực nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ.
Ngoài ra, phạm vi của cuộc nghiên cứu còn được giới hạn trong việc chỉ nghiên cứu thái độ và sự nhận biết của người tiêu dùng đối với các sản phẩm thạch rau câu mang thương hiệu Poke chứ không đi vào nghiên cứu thái độ của những người bán hàng, các đại lý, các nhà phân phối của công ty trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì ở đây, qua cuộc nghiên cứu này, công ty có thể đánh giá được mức độ nhận biết của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình, để từ đó công ty có thể đưa ra được những giải pháp nhằm xây dựng được hình ảnh của mình trong tâm trí của người tiêu dùng một cách tốt hơn.
Thiết kế dự án nghiên cứu chính thức
Các phương pháp thu thập thông tin
Sau khi đã xác định được vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu thì công việc tiếp theo của người làm nghiên cứu là phải xác định được những dạng và nguồn dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu. Trong cuộc nghiên cứu này, những dữ liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu gồm hai dạng, đó là những dữ liệu thứ cấp và những dữ liệu sơ cấp.
Việc thu thập dữ liệu thứ cấp đơn giảm hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp. Nó có thể được thu thập từ những sổ sách của lực lượng bán hàng, của các phòng ban khác trong công ty. Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp còn có thể thu thập từ bên ngoài từ những ấn phẩm, những báo cáo thống kê Những dữ liệu thứ cấp thu thập một mặt tạo cho người làm nghiên cứu có những thuận lợi như dễ tìm kiếm, chi phí cho việc thu thập dữ liệu thứ cấp ít hơn rất nhiều so với việc thu thập dữ liệu sơ cấp, những thông tin mà dữ liệu thứ cấp mang lại có thể dùng ngay vào một mục tiêu cụ thể nào đó mà không cần phải tốn nhiều thời gian, và dữ liệu thứ cấp cũng phần nào làm tăng hiệu quả của những thông tin, dữ liệu sơ cấp mà người làm nghiên cứu thu thập được, nhưng mặt khác, việc thu thập dữ liệu thứ cấp cũng tạo ra những khó khăn cho người làm nghiên cứu vì có thể những đơn vị đo lường của dữ liệu là không phù hợp với cuộc nghiên cứu, hay những khái niệm phân chia, phân loại của dữ liệu là không phù hợp với người làm nghiên cứu, hoặc đó cũng có thể là những tài liệu được thu thập gián tiếp thông qua những tài liệu khác( hay đó là tài liệu được tìm thấy trong lần nghiên cứu thứ hai).
Dữ liệu sơ cấp có thể được thu thập bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng các phương pháp thông dụng nhất mà lâu nay vẫn được sử dụng đó là quan sát, thực nghiêm và điều tra, phỏng vấn. Tuy nhiên, trong cuộc nghiên cứu này, người tiến hành nghiên cứu chỉ sử dụng hai phương pháp để thu thập dữ liệu sơ cấp, đó là sử dụng phương pháp quan sát và phương pháp điều tra, phỏng vấn.
Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp liên quan đến sự giám sát về những hoạt động cần được quan tâm và lựa chọn. Sức mạnh của phương pháp này chính là ở chỗ các hoạt động được xem xét, nghiên cứu trong lúc chúng đang xảy ra, do đó người nghiên cứu có thể có được những thông tin chính xác về các hiện tượng đang nghiên cứu. Với bản chất đó, phương pháp quan sát cho phép khắc phục được tình trạng thiếu chính xác của những thông tin do những người được phỏng vấn tập hợp lại một cách không chuẩn tắc, đặc biệt là trong trường hợp phải mô tả lại những hoạt động không phải là của hiện tại.
Trong nghiên cứu quan sát thì có thể chia ra làm quan sát trong môi trường bình thường, môi trường có điều kiện, quan sát mở và ngụy trang, quan sát bằng máy và bằng người, quan sát có tổ chức và không có tổ chức. Tuy nhiên, không phải hoạt động nào cũng có thể áp dụng được phương pháp quan sát để theo dõi mà thông thường nó chỉ phù hợp với những hành động xảy ra trong một thời gian ngắn có thể chấp nhận được, hoặc là một cuộc nghiên cứu một số khâu nhất định của những hoạt động diễn ra trong một thời gian dài, hoặc là các hành vi phải xuất hiện trong bối cảnh người nghiên cứu có thể sẵn sàng quan sát, hoặc nó phải được tiến hành với những hoạt động lặp đi lặp lại quá nhiều mang tính hệ thống đến nỗi mà người được hỏi không thể nhắc lại được.
Để đảm bảo thành công, khi tiến hành sử dụng phương pháp quan sát cần thực hiện theo các trình tự:
Đưa ra quyết định chung về đối tượng và vị trí quan sát.
Lựa chọn những dạng quan sát cụ thể cho cuộc nghiên cứu đang tiến hành.
Lựa chọn danh mục những đặc điểm cụ thể cần được quan sát.
Đào tạo người tiến hành quan sát để họ có nghiệp vụ và thái độ quan sát nghiêm túc, cẩn thận.
Một điều rất đáng chú ý trong khi tiến hành nghiên cứu quan sát đó là sự nhạy bén của các giác quan của người quan sát và sự chính xác, đầy đủ trong việc ghi nhận nó. Điều này cũng quyết định rất lớn đến hiệu quả của việc thu thập dữ liệu.
Phương pháp quan sát ngày càng được áp dụng phổ biến vì trong khi tiến hành quan sát, các đối tượng của cuộc nghiên cứu sẽ không nhận thấy họ đang bị quan sát cho nên họ phản ứng theo cách tự nhiên, tạo cho người nghiên cứu một cái nhìn thực tế chứ không phải là những hành vi được báo cáo lại. Mặt khác, các đối tượng bị quan sát sẽ không được hỏi về một hành động nhất định nào mà thay vào đó là họ sẽ bị quan sát trong khi thực hiện hành động. Trong một vài trường hợp thì quan sát là cách duy nhất thu được thông tin một cách chính xác hoắc có thể thu được những thông tin có độ chính xác cao với chi phí rẻ hơn.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những mặt hạn chế của nó. Đó là khi tiến hành quan sát thì chỉ có một số lượng nhỏ các đối tượng điển hình được nghiên cứu, vì vậy tính đại diện bị hạn chế. Ngoài ra, khi tiến hành quan sát thì các hoạt động có thể diễn ra không thường xuyên, làm mất thời gian quan sát, hoặc có những động cơ, quan điểm và các điều kiện bên trong không thể quan sát được, dẫn đến việc phương pháp này không thể giải thích được nguyên nhân của những gì đã quan sát được. Và khi tiến hành nghiên cứu quan sát, các thông tin ghi chép lại có thể bị nhầm lẫn, sai sót do xu hướng mệt mỏi theo thời gian, sự cẩu thả trong việc ghi chép lại các sự kiện.
Phương pháp điều tra
Trong các cuộc nghiên cứu marketing, nghiên cứu phỏng vấn được coi là phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp được sử dụng nhiều nhất và đôi khi nó bị lạm dụng nhất. Nó được sử dụng nhiều nhất vì đầy là phương pháp thu thập thông tin về những hoạt động và quan điểm của con người cực kỳ linh hoạt trên nhiều phương diện khác nhau.. Nó bị lạm dụng nhất vì nhiều cuộc nghiên cứu được thực hiện bằng những câu hỏi định kiến nghèo nàn, thậm chí là vô nghĩa, người phỏng vấn không được đào tạo tốt hoặc mẫu phỏng vấn hầu như ít có khả năng đại diện cho toàn bộ tổng thể.
Nghiên cứu phỏng vấn có thể được chia làm nhiều loại: phỏng vấn qua điện thoại, qua thư tín, trực tiếp, phỏng vấn cá nhân hoặc nhóm Mặt khác, để thu thập dữ liệu có hiệu quả bằng nghiên cứu phỏng vấn, việc lựa chọn các dạng phỏng vấn cụ thể cùng cần phải dựa vào nhiều căn cứ khác nhau như loại hình nghiên cứu và nhiệm vụ mục tiêu nghiên cứu, đặc tính của mỗi một dạng phỏng vấn và một số yêu cầu khác như những tiêu chuẩn hoá câu hỏi, câu hỏi có được in sẵn khôngVà từ những căn cứ đó thì người ta cũng đặt ra một loạt các tiêu chuẩn cho việc lựa chọn các dạng phỏng vấn thích hợp như: khả năng tự do trả lời của người được hỏi, khả năng kiểm soát được việc lựa chọn dữ liệu, độ sâu sắc của cuộc phỏng vấn, khả năng đảm bảo chi phí thấp hay kinh tế, mức độ đeo bám của những người cung cấp thông tin, khả năng hồi tưởng lại những thông tin khó nhớ
Nhưng trong cuộc nghiên cứu này, người làm nghiên cứu lựa chọn phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp vì phương pháp này cho phép người phỏng vấn có thể thu được lượng thông tin một cách tối đa bởi vì người phỏng vấn có thế đặt ra những câu hỏi không theo những khuôn mẫu có trước. Nó có thể được sử dụng một cách có hiệu quả để nắm bắt được những phản ứng của người được phỏng vấn về những bức tranh, sản phẩm hoặc những mẫu vật. Đồng thời nó cũng cho phép người phỏng vấn hợp lý hoá những câu trả lời bằng cách quan sát hoặc thăm dò liên tiếp đối tượng được phỏng vấn.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định như đó là một dạng phỏng vấn có chi phí cao vì để có thể tiến hành phỏng vấn thì công ty cần phải có những đầu tư về đào tạo trình độ, kỹ năng cho những người tiến hành phỏng vấn, những chi phí cho việc đi lại của những người tham gia phỏng vấn. Mặt khác, kết quả của phỏng vấn cá nhân trực tiếp chịu ảnh hưởng rất lớn từ người đi phỏng vấn. Trong khi cố gắng gây ấn tượng với người phỏng vấn, người được phỏng vấn có thể sẽ đưa ra những câu trả lời hoàn toàn không chân thật. Hơn nữa, những quan tâm cá nhân và quan điểm của người phỏng vấn có thể đưa họ đến việc giải thích câu trả lời khác đi.
Nhìn chung, một cuộc nghiên cứu riêng lẻ chính thức không bị giới hạn trong một phương pháp nghiên cứu duy nhất nào đó. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là chỉ nên dùng một dạng hay kết hợp nhiều dạng nghiên cứu phỏng vấn với nhau. Người ta thường kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn qua thư tín hoặc cũng có thể kết hợp giữa phỏng vấn qua điện thoại với phỏng vấn trực tiếp nhưng do điều kiện về mặt thời gian cũng như những điều kiện về mặt chi phí cho cuộc nghiên cứu bị hạn chế cho nên người tiến hành cuộc nghiên cứu này chỉ kết hợp giữa phỏng vấn cá nhân trực tiếp với phương pháp nghiên cứu quan sát.
2. Thiết kế bảng hỏi và mẫu điều tra
Bảng câu hỏi hay còn gọi là phiếu điều tra được xem như là một công cụ phổ biến nhất khi thu thập các dữ liệu sơ cấp. Nó thường bao gồm một tập hợp các câu hỏi mà qua đó người được hỏi sẽ trả lời còn người nghiên cứu sẽ có được những thông tin cần thiết. Bảng câu hỏi rất quan trọng, đó là điều hiển nhiên nhưng để thiết kế được một bảng câu hỏi hoàn chỉnh thì lại là một công việc hết sức khó khăn vì bảng câu hỏi phải thực hiện được tất cả các chức năng và giảm bớt những khó khăn phức tạp và những sai lầm mà người nghiên cứu có thể gặp phải trong quá trình thiết kế. Để làm được điều này thì người thiết kế bảng câu hỏi phải tiến hành các bước dưới đây:
Bước thứ nhất là người thiết kế bảng hỏi phải xác định những thông tin cần tìm kiếm và cách thức sử dụng chúng. Một điều kiện tiên quyết để lập bảng câu hỏi có hiệu quả là phải xác định chính xác cái gì cần phải đo lường. Mặc dù điều này là rất rõ ràng song nhiều khi nó thường bị bỏ qua và do đó gây phương hại cho bảng câu hỏi. Chính vì thế, để thiết lập bảng câu hỏi, người thiết kế phải xuất phát từ mục tiêu của cuộc nghiên cứu. Tiếp theo, người thiết kế phải liệt kê đầy đủ những gì cần đo lường để hoàn thành mục tiêu đó. Bản liệt kê này chính là một danh mục các loại thông tin cần tìm kiếm phù hợp với mục tiêu đã được khẳng định. Ngoài ra, người làm nghiên cứu cũng sẽ phải suy nghĩ xem nên dùng những kỹ thuật nào để tiến hành phân tích, mang lại ý nghĩa cho dữ liệu đó.
Bước hai đó là việc tiến hành soạn thảo và đánh giá các câu hỏi. Thực chất đây là việc phát triển, liệt kê và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các câu hỏi xét ra có thể cần thiết để có thông tin. Để xây dựng được những câu hỏi như vậy cần phải quan tâm đến hai vấn đề, đó là nên dùng những dạng câu hỏi nào và nên đặt những các câu hỏi đó như thế nào. Sau khi các câu hỏi được liệt kê ra, nhiệm vụ của người nghiên cứu là thực hiện đánh giá chúng. Trong quá trình này có thể có những sự thay đổi cần thiết về nội dung câu hỏi và cách hỏi cũng có thể được định lại để chắc chắn rằng các câu hỏi là hợp lệ và hỏi được đúng vấn đề cần quan tâm. Hơn nữa, nhà nghiên cứu cố gắng giảm đến mức tối thiểu sự thiên về một khuynh hướng, hoặc khả năng biết sẵn các câu trả lời của câu hỏi do cách hỏi hoặc cách sắp xếp câu hỏi tạo ra.
Cần phải lưu ý rằng việc soạn thảo và đánh giá các câu hỏi là những công việc đan xem tiếp nối với nhau và được lặp đi lặp lại một cách liên tục và nhiều lần. Nói cách khác, các câu hỏi phải trải qua một chuỗi các phác thảo và có rất nhiều các bản thảo về chúng trước khi được chấp nhận ở dạng cuối cùng. Chỉ có cách hành động như vậy mới có hy vọng thiết lập được các câu hỏi như mong muốn.
Trong cuộc nghiên cứu này, bảng câu hỏi được thiết kế với 10 câu hỏi nhằm thu thập được những thông tin có thể đánh giá được những hiểu biết của người tiêu dùng về sản phẩm thạch rau câu Poke. Các câu hỏi được trình bày một cách rõ ràng, đơn giản, các từ ngữ sử dụng một cách đơn nghĩa để khách hàng có thể dễ hiểu, và bảng câu hỏi được chia làm ba phần:
Phần mở đầu: là tiêu đề của cuộc nghiên cứu, lời tự giới thiệu của người nghiên cứu và ý nghĩa, mục đích của cuộc nghiên cứu.
Phần nội dung: là phần được thiết kế để trình bày các câu hỏi. Phần này được chia làm hai phần bao gồm những câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu và những câu hỏi có tính chất cá nhân đối với người được hỏi.
Lời cảm ơn: là câu cuối cùng khi kết thúc bảng câu hỏi.
( bảng câu hỏi của cuộc nghiên cứu được trình bày ở phần phụ lục)
Việc chọn mẫu cho cuộc nghiên cứu cũng là một vấn đề rất khó khăn. Tổng thể lấy mẫu trong cuộc nghiên cứu này được xác định là những người đã từng sử dụng sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường thành phố Hà Nội. Nhưng do hạn chế về mặt thời gian và chi phí cho cuộc nghiên cứu cho nên kích thước mẫu chỉ được xác định trong phạm vị 50 mẫu
3. Phương pháp phân tích và xử lý dữ liệu
Quá trình phân tích và xử lý dữ liệu được bắt đầu ngay sau khi các dữ liệu đã được thu thập đầy đủ và được tiến hành trên phần mềm phân tích dữ liệu thống kê SPSS.
Người nghiên cứu tiến hành biên soạn các câu hỏi, sửa chữa những câu hỏi chưa đầy đủ và sau đó tiến hành mã hoá các dữ liệu đã thu thập được bằng những con số để thuận tiện cho việc phân tích dữ liệu.
Quá trình thu thập và xử lý thông tin
Quá trình thu thập thông tin được tiến hành từ ngày 10/4/2006 đến ngày 20/4/2006 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Người nghiên cứu gặp gỡ những khách hàng đã được lựa chọn trong khung lấy mẫu và thực hiện những thao tác nghiệp vụ nhằm thu thập được những thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Những thông tin thu thập được ghi chép lại một cách đầy đủ trong phiếu điều tra và trong nhật ký của người nghiên cứu để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá các kết quả thu được.
IV.Báo cáo kết quả thu được
Qua một thời gian tiến hành nghiên cứu, những thông tin cần thiết của quá trình nghiên cứu đã được thu thập và xử lý.
Kết quả của cuộc nghiên cứu này cho thấy có 96% khách hàng đã từng biết đến sản phẩm thạch rau câu Newchoise, 84% khách hàng đã từng biết đến sản phẩm Frutpeti, 62% khách hàng biết đến sản phẩm của Long Hải và có 76% khách hàng biết đến những sản phẩm thạch rau câu của các hãng khác. Điều này cũng dễ hiểu vì hiện nay trên thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh mặt hàng thạch rau câu, trong đó sản phẩm thạch Newchoise và Frutpeti là những sản phẩm nhập khẩu từ Đài Loan, có mặt trên thị trường đã lâu và chiếm được thị phần nhiều nhất trên thị trường. Do đó phần lớn khách hàng đều biết đến các sản phẩm của họ.
Còn đối với sản phẩm thạch Long Hải thì mới xuất hiện trên thị trường nhưng do sản phẩm của họ được bán với giá rẻ, phù hợp với những khách hàng có thu nhập thấp cho nên họ cũng đã chiếm được thị phần khá cao trên thị trường.
Mặt khác qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy có đến 62% khách hàng đã từng sử dụng thạch rau câu Newchoise, trong khi đó của thạch Frutpeti là 78%, thạch Long Hải là 58% và các sản phẩm thạch khác là 70%.
Về đánh giá sự nhận biết của người tiêu dùng về các sản phẩm của thạch Poke thì chỉ có 40% khách hàng đánh giá sản phẩm thạch Poke có nhãn hiệu nổi bật, 46% khách hàng đánh giá Poke có chất lượng tốt, 56% khách hàng đánh giá Poke có chủng loại đa dạng và 62% khách hàng đánh giá Poke có những đặc điểm khác nổi bật. Điều này đúng, vì trên thị trường hiện này thì sản phẩm thạch Poke có chất lượng không cao, thấp hơn các sản phẩm như Newchoise, Frutpeti và chỉ cao hơn các sản phẩm trong nước. Do đó việc cạnh tranh về chất lượng với các sản phẩm thạch nhập khẩu của công ty là khó có thể thành công. Trong khi đó thì sản phẩm Poke lại có lợi thế là chủng loại hàng hoá đa dạng, phong phú với những bao bì đóng gói khác nhau và sản phẩm có một hệ thống kênh phân phối rộng khắp trên các thị trường, các địa bàn, do đó sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của nhiều khách hàng khác nhau. Do đó, để cạnh tranh trên thị trường, công ty TNHH Việt Thành nên xây dựng một danh mục hàng hoá đa dạng tốt hơn nữa, củng cố lại hệ thống kênh phân phối của mình tốt hơn, từ đó tạo được lợi thế cho sản phẩm Poke của mình trên thị trường.
Về các đặc điểm của sản phẩm, phần lớn khách hàng cho rằng sản phẩm thạch rau câu Poke có hương vị, độ ngọt, độ giòn của miếng thạch là bình thường, không có gì nổi bật hơn các đối thủ cạnh tranh( 58% khách hàng cho rằng hương vị thạch Poke là bình thường, 42% cho rằng độ ngọt của Poke là bình thường, 40% cho rằng độ giòn của thạch Poke là bình thường). Trong khi đó về màu sắc của sản phẩm được khách hàng đánh giá tốt hơn, 36% khách hàng đánh giá là thích, 24% đánh giá là rất thích và 28% đánh giá là bình thường. Nguyên nhân khách hàng đánh giá như vậy là do chất lượng sản phẩm Poke chưa được cao. Vì thế công ty cần cải tiến chất lượng sản phẩm của mình để phù hợp với những nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, từ đó tạo được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy rằng người tiêu dùng đánh giá các sản phẩm thạch Poke có giá là khá cao (36% cho rằng sản phẩm có giá đắt, 40% cho rằng sản phẩm có giá là bình thường). Điều này có thể giải thích được là do thu nhập của người tiêu dùng của Việt Nam hiện nay chưa được cao, do đó với mức giá hiện nay của công ty đặt ra cho sản phẩm Poke thì vẫn không có nhiều người tiêu dùng chấp nhận được. Chính vì thế công ty cần có những giải pháp nhằm giảm bớt những chi phí sản xuất, kinh doanh xuống, từ đó có thể hạ giá của sản phẩm, đáp ứng được những yêu cầu của người tiêu dùng về giá cả.
Mặt khác, qua cuộc nghiên cứu cũng cho thấy được người tiêu dùng không hài lòng về những thông tin có được về sản phẩm ( 16% rất không hài lòng, 40% không hài lòng và 26% là bình thường). Đó là do trong tình hình hiện nay, thị trường có quá nhiều sản phẩm cạnh tranh với rất nhiều nhãn hiệu khác nhau, vì thế người tiêu dùng cần biết càng nhiều thông tin về sản phẩm để có thể biết về xuất xứ, thành phần của sản phẩm, từ đó tạo ra tâm lý yên tâm khi tiêu dùng sản phẩm. Vì thế công ty cần phải biết được những mong muốn của khách hàng về sản phẩm để có thế đáp ứng kịp thời. Ngoài ra, cuộc nghiên cứu cũng cho thấy người tiêu dùng biết đến sản phẩm Poke chủ yếu thông qua người quen và những thông tin khác(40% khách hàng là do người quen giới thiệu, 40% khách hàng là do những thông tin khác trong khi đó thì chỉ có 20% khách hàng biết đến sản phẩm thông qua truyền thông). Nguyên nhân của điều này là do công ty là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, mặt khác do mặt hàng kinh doanh của công ty không có gì đặc biệt, lợi nhuận tính trên một đơn vị sản phẩm là nhỏ cho nên công ty hầu như không có các hoạt động truyền thông về sản phẩm của mình. Công ty chỉ tập trung vào các hoạt động kích thích tiêu thụ, khuyến mãivà điều này đã đạt được thành công khi sản phẩm của công ty đã có trong tâm trí của người tiêu dùng.
Ngoài ra, các kết quả khác của cuộc nghiên cứu cũng được thu thập và được trình bày ở phần phụ lục 2.
Qua cuộc nghiên cứu này thì công ty có thế đưa ra được những giải pháp nhằm tạo dựng được hình ảnh sản phẩm của mình trong tâm trí người tiêu dùng một cách tốt hơn, nhằm đạt được những mục tiêu về thị phần, lợi nhuận mà công ty đặt ra.
Phần ba: Một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường hình ảnh sản phẩm thạch rau câu Poke trên thị trường
I. Nhóm giải pháp về phía công ty
Xây dựng một nề nếp làm việc mới
Nề nếp làm việc của tổ chức là cách mô tả ngắn gọn những giá trị và thái độ được công nhân viên tổ chức đó thể hiện trong quá trình làm việc. Nề nếp công tác phản ánh qua trách nhiệm của công nhân viên đối với mục tiêu chung và quyết định kỹ năng hay năng lực cần thiết của toàn thể lực lượng lao động để thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ được giao của mình. Việc xây dựng một nề nếp công tác mới thích hợp phải là bước đầu tiên được xem xét trong các quá trình chiến lược, gắn liền với việc tạo ra một tổ chức đang tìm cách tập trung ngày càng nhiều hơn các nỗ lực của mình vào việc đáp ứng những nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất.
Rất có thể trong phần lớn các công ty, doanh nghiệp thì nề nếp công tác thịnh hành là nề nếp phản ánh niềm tin và các giá trị của những người lãnh đạo cấp cao của công ty, doanh nghiệp đó. Vì thế cách nhanh nhất để thực hiện việc thay đổi nề nếp công tác là việc thay thế ban lãnh đạo cấp cao, và dường như đó là một công việc rất khó khăn. Nhưng có một cách khác là xây dựng các hoạt động marketing như một kiểu mẫu về nề nếp công tác hướng vào khách hàng ngay trong chính đội ngũ nhân viên của công ty. Trải qua một thời gian, hy vọng việc này sẽ được xem là định hướng có lợi hơn so với định hướng khả năng sinh lời trước mắt và đó sẽ là một mẫu mực để áp dụng dần dần sang các bộ phận khác trong công ty.
Trong công ty TNHH Việt Thành, một điều mà ban lãnh đạo và đội ngũ làm marketing phải làm là xem xét tất cả các hoạt động cả bên trong lẫn bên ngoài của công ty, xen cái nào đáng thực hiện, căn cứ vào những giá trị nào mà có thể ở nơi đó bị xem là lỗi thời như tính trung thực, sự tín nhiệmLúc ban đầu cả khách hàng lẫn các nhân viên các bộ phận khác cũng như trong toàn thể công ty đều nghi ngờ sự thay đổi hành vi này, tuy nhiên sau một thời gian sẽ hình thành được sự tin cậy lẫn nhau giữa các phòng ban và dần dần nề nếp công tác mới sẽ được xem là một ý đồ sáng suốt của bộ phận marketing nhằm nâng cao hiệu quả của công ty. Khi điều này xảy ra, những người làm marketing sẽ bắt đầu gặt hái được những kết quả của việc nâng cao lòng tin tưởng của khách hàng bên ngoài, còn bên trong công ty thì tinh thần hợp tác giữa các phòng ban trong công ty sẽ ngày càng cao, hỗ trợ rất nhiều cho việc phấn đấu để đạt được mục tiêu quan trọng là làm hài lòng khách hàng ở mức độ cao hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh
Điểm xuất phát để xây dựng một nề nếp công tác mới đó là công ty cần tiến hành điều tra thái độ và nhận thức hiện tại về các mối quan hệ của những người làm marketing, các phòng ban khác trong công ty cảm nhận như thế nào về đội ngũ làm marketing, những ý kiến của khách hàng và những người trung gian trên thị trường về sản phẩm của công ty so với các sản phẩm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5288.doc