Tiến hành CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn, không phải chỉ thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế lực lượng sản xuất, mà còn thay đổi căn bản cả quan hệ sản xuất, tư duy và lối sống của mọi tầng lớp dân cư trong khu vực này. Cần có được sự giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề kinh tế, tổ chức, quản lý và kỹ thuật. . . trong đó cung ứng đủ vốn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nhu cầu CNH phải là mục tiêu hàng đầu.
Khó khăn là nguồn vốn đầu tư từ đâu? lấy nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà nước và nguồn viện trợ ODA. Nhưng ngân sách thì có hạn, thu hút vốn tiết kiệm của nhân dân là giải pháp tốt nhất để huy động vốn. Tuy vậy hiệu quả chưa thực sự cao, gần đây trước tình trạng khan hiém tiền mặt các tổ chức tín dụng, ngân hàng đưa ra biện pháp tăng lãi suất huy động vốn, ngân hàng và người khách hàng có thể tự thoả thuận mức lãi suất đã tỏ ra có chuyển biến tích cực, đó là dấu hiệu đáng mừng.
72 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1990 - 2000 và dự báo đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác động tích cực của khoa học kỹ thuật, đưa năng suất lúa từ 31,1 tạ/ ha năm 1991 lên 42,5 tạ /ha năm 2000. Bình quân hàng năm tăng trên 1tạ /ha. Năng suất lúa của tất cả các vùng đều tăng nhưng đáng chú ý là do áp dụng giống lúa lai và hiệu quả của chương trình kiên cố hoá kênh mương nên năng suất lúa nước của các tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên những năm gần đây đã không ngừng tăng lên.
Vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu ở các tỉnh đồng băng sông Cửu Long đã được hình thành với các tỉnh : An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long,Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, mỗi tỉnh có từ 10-20 vạn ha lúa chuyên canh với nhiều chủng loại khác nhau, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Xét về số tuyệt đối giá trị sản xuất, ngành trồng trọt có xu hướng ngày càng tăng, gía trị sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả đã tăng lên rõ rệt: năm 1995 tăng 5457,1 tỷ đồng, năm 2000 tăng 9132,9 tỷ đồng so với năm 1990.
Cùng với cây lúa trong hơn 10 năm sản xuất màu cũng phát triển khá ổn định góp phần bổ sung nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc. Sản lượng màu qui thóc bình quân mỗi năm đạt 3 triệu tấn trong đó tăng nhanh nhất là ngô. Năm 1991 diện tích ngô cả nước mới đạt 66,3 vạn tấn, năng suất 25 tạ / ha và sản lượng 1,6 triệu tấn. Năm 2000 diện tích ngô đạt 714 ngàn ha, năng suất đạt 27 tạ /ha, sản lượng 1,9 triệu tấn và năm 2002 năng suất ngô đã tăng hơn 28,6 tạ/ha với sản lượng gần 2,1 triệu tấn. Việc mở rộng diện tích áp dụng tiến bộ công nghệ sinh học đặc biệt là đưa các giống ngô lai năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất đại trà đã tạo ra sự đột biến về năng suất và sản lượng ngô. Một số vùng ngô tập trung qui mô lớn được hình thành như vùng Đông Nam Bộ với sản lượng 30 vạn tấn/năm, vùng Đông Bắc và Tây Bắc với sản lượng 50 vạn tấn/năm. Một số tỉnh đã có vùng ngô tập trung như Đông Nai đạt 22,9 vạn tấn năm năm 2000 gấp 3 lần năm 1991 (Niên giám thống kê 2000). Sản xuất ngô tăng liên tục trong nhiều năm không chỉ góp phần bổ sung nguồn lưong thực cho đồng bào miền núi cao, nơi diện tích lúa nước bình quân đầu người quá thấp mà còn cung cấp nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc, góp phần tăng nhanh sản lượng chăn nuôi, bình ổn giá thực phẩm. Ngô cũng đã và đang trở thành một mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng với sản lượng xuất khẩu trên 100 ngàn tấn/ năm và có khả năng tăng nhanh trong những năm tới.
Sắn và khoai lang tuy không tăng và không còn giữ vai trò là cây lương thực thiết yếu nhưng cũng đang chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường. Nhiều địa phương ở vùng Đông Nam Bộ đã đẩy mạnh trồng sắn làm nguyên liệu chế biến mì chính và sắn thái lát kho xuất khẩu. Khoai lang cũng chuyển sang phục vụ chế biến thực phẩm làm quà bánh hoặc chế biến thức ăn gia súc.
Cây công nghiệp hàng năm và rau đậu: thực hiện phương châm
“đất nào trồng cây ấy” nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, những năm vừa qua cơ cấu đất nông nghiệp đã chuyển một phần diện tích trồng lúa, màu năng suất và hiệu qủa thấp sang trồng cây công nghiệp chủ yếu là những loại cây phục vụ xuất khẩu và làm nguyên liệu cho công nghiệp như lạc, mía, đỗ tương, bông. Vì thế trong 10 năm 1991-2000 sản lượng sản phẩm từ cây công nghiệp không ngừng tăng lên lạc tăng 49,6%, đỗ tương tăng 77,3%, bông tăng 2,3 lần.
Mía là cây công nghiệp ngắn ngày có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các laọi cây công nghiệp. Diện tích mía năm 1991 chỉ có 144,6 nghìn ha với sản lượng 6,2 triệu tấn, nhưng đến năm 1999 diện tích mía đã tăng lên 344,2 nghìn ha (2,3%) với sản lượng 17,8 triệu tấn (2,78%), tăng 11,6 triệu tấn so với năm 1991 bình quân mỗi năm tăng trên 1 triệu tấn. Nguyên nhân sản lượng mía tăng nhanh là do nhu cầu mía làm nguyên liệu cho các nhà máy đường mới được xây dựng ngày càng nhiều.
Gieo trồng rau đậu cũng có tiến bộ theo hướng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của nhân dân và xuất khẩu. Hàng loạt các vùng chuyên canh rau sạch, sản xuất theo công nghệ tiên tiến đã được quy hoạch ở hầu hết các khu vực ngoại thành ngoại, thị góp phần làm phong phú thêm thị trường rau quả.
Cây công nghiệp lâu năm: tổng diện tích gieo trồng các loại cây lâu năm từ 1991 đến năm 2002 đã tăng lên không ngừng với mức tăng bình quân 8% năm theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Nếu như năm 1990 diện tích mới chỉ có 657,3 nghìn ha thì đến năm 2000 tổng diện tích cây lâu năm nhóm cây công nghiệp chiếm 68,5% tổng diện tích gieo trồng đạt tới 1397,4 nghìn ha tức là tăng 212,6% năm 1990.
Cà phê là một trong những cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuấtkhẩu cao và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Tỷ trọng diện tích cây cà phê chiếm trong tổng diện tích nhóm cây công nghiệp lâu năm ngày càng tăng từ 18,15% năm 1990 đến năm 2000 là 36,98%. Năm 2000 diện tích gieo trồng cà phê đạt 516,7 nghìn ha, bằng 433,1 % năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 15,8 %. Sản lượng năm 2000 ước tính đạt 698,2 nghìn tấn, bằng 758,9% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 22,5 %. Sản lượng tăng lên do diện tích cho sản phẩm tăng từ 61,8 nghìn ha năm 1990 lên 408,3 nghìn ha năm 2000, bình quân mỗi năm tăng lên 20,8%.
Cây cao su phát triển tương đối ổn định chiếm khoảng 30% tổng diện tích cây công nghiệp lâu năm. Năm 2000 sản lượng mủ đạt 291,9 nghìn tấn ,bằng 504,1% năm 1990. Sản lượng cao su tăng lên là do ngoài năng suất còn do diện tích tăng, từ 81,1 nghìn ha năm 1990 lên 228,3 nghìn ha năm 2000.
Các cây công nghiệp lâu năm khác như cây tiêu, cây điều và cây chè cũng ngày càng được đầu tư mở rộng diện tích, thâm canh tăng năng suất. Vì vậy sản lươọng tiêu tăng bình quân hàng năm 15,7%: điều tăng 12,5%/năm, chè tăng 9%/năm.
Nhóm cây ăn quả cũng tăng mạnh từ 281,2 nghìn ha năm 1990 tăng lên 540,8 nghìn ha năm 2000 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,8%. Trừ một vài năm diện tích cây ăn quả giảm cò lại năm sau đều cao hơn năm trước.
Nhóm cây nhãn, vải, chôm chôm có tốc độ tăng diện tích và sản lượng khá sao. Diện tích gieo trồng của nhóm cây này giai đoạn 1995-2000 tăng bình quân hàng năm là 21,4%( từ 57 nghìn ha năm 1995 tăng lên 150,4 nghìn ha năm 2000. Sản lượng tăng bình quân hàng năm 26,4% và đạt 648,7 nghìn tấn vào năm 2000 bằng 322,7% năm 1990.
Diện tích gieo trồng cam, chanh, quýt từ 19,1 nghìn ha năm 1990 tămg lên 69,3 nghìn ha năm 2000 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 13,8 %. Diện tích cho sản phẩm đạt 48,4 nghìn ha năm 200 bằng 333,8% năm 1990 với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 12,8%. Sản lượng năm 2000 đạt 449,9 nghìn tấn bằng 377,4% năm 1990 và tốc độ tăng bình quân hàng năm là 14,2%.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho diện tích cây lâu năm tăng nhanh như trên là do việc đổi mới các chính sách trong nông nghiệp của đảng và nhà nước về thuế nông nghiệp về quyền sử dụng đất về tiêu thụ và xuất khẩu nông sản hàng hoá ,. . . Các yếu tố này đã khuyến khích nông dân đầu tư mở rộng sản xuất, khai hoang, phục hoá cải tạo vườn tạp,tiếp cận và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới chuyển đổi cây trồng giá trị kinh tế thấp sang những cây trồng có giá trị kinh tế cao ngoài ra diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên còn do tác động của một số chương trình quốc gia như chương trình 5 triệu ha rừng, chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
Bên cạnh đó vẫn có một số loại cây lâu năm giảm cả về diện tích và sản lượng như dứa, dâu tằm, nho. Nguyên nhân chính là do các loại cây này có giá trị kinh tế thấp. Riêng cây nho còn do nông dân tự nhân giống. Do vậy giống nho ngày càng thoái hoá làm cho năng suất và chất lượng quả thấp dần.
Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong lĩnh vực trồng trọt đã biến nền nông nghiệp độc canh cây lúa thành nền nông nghiệp đa canh với sự xuất hiện của cây trồng chủ lực mới như cà phê, cao su, tập đoàn cây ăn quả nhãn, chuối, xoài, cam, chanh, và những cây công khác.
Biểu 3: Diện tích các loại cây trồng phân theo loại cây:
Đơn vị : nghìn ha.
Bảng số liệu cho thấy tổng diện tích các loại cây trồng về số tuyệt đối tăng lên hàng năm, năm 1995 tăng 1457 nghìn ha; năm 2000 tăng 3604 nghìn ha so với năm 1990, diện tích cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả có sự tăng lên rõ rệt năm 2000 tăng tổng diện tích hai loại cây là 831,3 nghìn ha so với năm 1995 do chính sách phát triển nông nghiệp có sự đầu tư mạnh cho các loại cây có giá trị kinh tế cao. Diện tích cây lương có hạt tuy có tăng lên nhưng với tốc độ chậm do sản lượng ngày càng tăng với năng suất ngày càng cao nên lương thực sản xuất ra đủ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Bảng cơ cấu diện tích các loại cây trồng
đơn vị %
năm
tổng
cây lương
thực có hạt
cây cn
hàng năm
cây cn
lâu năm
cây
ăn quả
1990
100
71. 62
6. 00
7. 27
3. 11
1991
100
71. 74
6. 15
7. 04
2. 89
1992
100
71. 29
5. 99
7. 15
2. 68
1993
100
70. 36
5. 97
7. 56
2. 95
1994
100
68. 71
6. 32
7. 80
3. 08
1995
100
69. 76
6. 83
8. 60
3. 30
1996
100
69. 71
6. 35
9. 29
3. 44
1997
100
68. 60
6. 43
10. 19
3. 77
1998
100
68. 25
6. 88
10. 24
3. 81
1999
100
67. 74
7. 22
10. 21
4. 16
2000
100
66. 41
6. 15
11. 48
4. 47
( Nguồn từ niên giám thống kê 2001)
Xét về số tương đối, cơ cấu diện tích đất nông nghiệp có sự thay đổi đáng kể qua các năm 1990-2000. Tỷ trọng diện tích cây lương thực có hạt giảm năm 1990 chiếm 71,62% nhưng đến năm 1994 còn 68,71% và đến năm 2000 giảm xuống còn 66,41%. Trong khi đó tỷ trọng diện tích cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả tăng lên rõ rệt năm 1990 chiếm 7,27% đến năm 1995 tăng lên 8,6% và năm 2000 là 11,48% (diện tích cây công nghiệp dài ngày); năm 1990 chiếm 3,11% và năm 2000 tăng 4,47%(diện tích cây ăn quả)
Nếu năm 1991 cả nước mới gieo cấy được 6,3 triệu ha lúa cả năm thì năm 2000 đã tăng lên đạt trên 7,65 triệu ha. Bình quân mỗi năm tăng 135 ngàn ha, gần bằng diện tích lúa cao nhất trong các tỉnh phía bắc. Cơ cấu mùa vụ cũng có sự chuyển biến theo hướng tích cực: lúa hè thu là vụ có diện tích gieo cấy tăng nhanh nhất mỗi năm tăng trên 108 triệu ha. Diện tích lúa đông xuân cũng tăng từ 2,16 triệu ha lên 3,01 triệu ha. Diện tích gieo cấy lúa mùa một vụ , năgn suất thấp của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 920 ngàn ha năm 1991 xuống còn 535 nghìn ha năm 2000.
Kết quả mở rộng diện tích lúa rõ nét nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2000 diện tích lúa vùng này đạt 3,94 triệu ha tăng 1,35 triệu ha so với năm 1990, chủ yếu do khai hoang tăng vụ ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hởu và chưong trình ngọt hoá bán đảo cà Mau.
Thành tựu 10 năm khai hoang và cải tạo mở rộng diện tích lúa ở vùng đồng băng sông Cửu Long là kết quả của quá trình đầu tư liên tục có trọng điểm với số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng tạo nên những công trình thuỷ lợi quan trọng như: Quản Lộ–Phụng Hiệp ngọt hoá bán đảo, các tỉnh trong vùng này không chỉ tăng về diện tích canh tác mà còn toạ ra khả năng tăng vụ. Hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu từ chỗ mỗi năm chỉ gieo cấy một vụ lúa mùa với giống địa phương dài ngày, năng suất thấp nay đã trở thành tỉnh gieo cấy được cả 3 vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa với giống cao sản. Sản lượng lúa của 2 tỉnh này năm 1991 chỉ đạt hơn 1 triệu tấn thì đến năm 2000 đã đạt trên 1,7 triệu tấn.
I.2.2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu ngành chăn nuôi.
Bảng biểu 4: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi :
Đơn vị : tỷ đồng
Nhìn chung giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng đều qua các năm, trong đó giá trị sản xuất của gia súc tăng mạnh hơn, năm 1995 tăng 2280,3 tỷ đồng, năm 2000 tăng5351,5 tỷ đồng so với năm 1990 do đời sống ngày càng nâng cao nên nhu cầu ăn uống tăng nhanh, sản phẩm cây con tăng lên. Gia cầm và sản phẩm không qua giết thịt cũng tăng lên với tốc độ cao và ổn định. Tuy nhiên tỷ trọng các loại vật nuôi thay đổi không đáng kể, gia súc vẫn chiếm tỷ trọng cao trong chăn nuôi, tỷ trọng gia cầm khá ổn định qua các năm. Tốc độ tuy chậm chạp nhưng cũng có xu hướng giảm tỷ trọng chăn nuôi gia súc, tăng tỷ trọng sản phẩm không qua giết thịt.
Bảng cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi
Đơn vị:%
năm
tổng
gia súc
gia cầm
sp không
qua giết thịt
1990
100
63. 87
19. 26
12. 92
1991
100
62. 96
23.2
13. 82
1992
100
63. 03
19. 14
14. 15
1993
100
63. 81
18. 53
14. 01
1994
100
65. 38
17. 73
13. 35
1995
100
64. 92
17. 50
14. 19
1996
100
64. 83
17. 47
14. 53
1997
100
64. 16
17. 40
15. 45
1998
100
64. 59
17. 50
15. 05
1999
100
64. 50
17. 84
14. 93
2000
100
64. 41
17. 81
15. 14
( Nguồn niên giám thống kê 2001)
Sự thay đổi cơ cấu trong chăn nuôi thể hiện rõ ở một số mặt sau:
Đàn trâu: tăng từ 2. 858,6 nghìn con năm 1991 lên 2. 977,3 nghìn con năm 1994. Tuy nhiên từ năm 1995 do nông dân các vùng đồng bằng sông hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nhiều máy cày loại nhỏ vào sản xuất nên trâu cày kéo giảm. Đến năm 2000 đàn trau còn 2. 897,2 ngìn con. Tuy nhiên trâu nuôi lấy thịt tăng nên sản lươọng thịt trâu hơi xuất chuồng năm 2000 đạt 48,1 nghìn tấn tăng 11,08% so với năm 1991.
Đàn bò : tăng từ 3. 135,6 nghìn con năm 1991 lên 4. 127,8 nghìn con năm 2000, bình quân mỗi năm tăng 1,03 %. Việc cơ giới hoá trong nông nghiệp cũng làm giảm bò cày kéo nhưng nuôi bò lấy thịt và bò sữa phát triển mạnh để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Năm 1993 dự án DANIDA về việc cải tạo đàn bò đưa giống mới có vóc dáng to hơn được triẻn khai đã làm cho đàn bò thịt tăng lên ỏ nhiều tỉnh thuộc miền núi phía Bắc và Tây nguyên. Đàn bò sữa phát triển mạnh ỏ thành phố HCM,Hà Tây,. . . riêng năm 2000 đàn bò sữa tăng 19% so với năm 1999.
Đàn lợn : 10 năm qua phát triển mạnh bình quân mỗi năm tăng 1,05%. Đàn lợn phát triển do những năm qua đã có nhiều chương trình và dự án của nhà nước hỗ trợ nhân dân chăn nuôi lợn, trong đó có chương trình xoá đói giảm nghèo. Sản lượng thịt lợn hơi năm 2000 đạt 1408,9 nghìn tấn năm 1991 tăng 96.7%.
Đàn gia cầm: Trong hơn 10 năm và nhất là những năm gần đây đàn gia cầm đã tăng nhanh. Năm 2000 đàn gia cầm đạt 196,1 triệu con so với 109 triệu con năm 1991, trong đó đàn gà đạt 147,05 triệu con tăng 66,76 triệu con so với năm 1991. Sản lượng thịt gia cầm năm 2000 đạt 286,5 nghìn tấn so với 157,8 nghìn tấn năm 1991. Sản lượng trứng gia cầm năm 2000 đạt 3708,6 triệu qủa tăng 1670,6 triệu quả so với năm 1991. Nuôi gà công nghiệp phát triển mạnh ở các tỉnh Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình Dương và một số tỉnh miền núi phía Bắc.
Nhìn chung chăn nuôi tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng, các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ về con giống như lợn lai, phong trào chăn nuôi theo hướng nạc hoá đàn lợn, sinh hoá đàn bò, nuôi bò sữa, gia cầm siêu thịt, siêu trứng và các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác đã góp phần chuyển đổi hình thức chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp, hoặc chăn nuôi công nghiệp, lấy hộ gia đình là đơn vị chăn nuôi cơ bản.
II.3. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo lãnh thổ
Bảng giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo địa phương (theo giá so sánh năm 1994) đơn vị tỷ đồng
So với các địa phương trong cả nước, Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là hai khu vực phát triển mạnh ngành nông nghiệp có giá trị sản xuất nông nghiệp lớn nhất. Tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp của hai khu vực chiếm 52,3% của cả nước. Tuy nhiên có thể thấy rằng giá trị sản xuất nông nghiệp cảu các địa phương không đều qua các năm. Nếu như ĐBSH có xu hướng tăng dần, các vùng như Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc trung bộ, DHMT,cầm chừng hoặc tăng không đáng kể thì ĐBSCL có xu hướng giảm mạn.Cụ thể năm 1995:31247,6 tỷ đồng đến năm 1998 chỉ còn 16352,5 và năm 1999 là 11415 tỷ đồng. Tuy vậy với lợi thế về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, bờ sông bồi đắp phù sa màu mỡ thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi do đó năng suất sản lượng tăng nhanh bảo đảm nhu cầu lương thực cho cả nước và xuất khẩu thu nguồn ngoại tệ lớn
Do vận hành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp mới chuyển sang cơ chế thị trường sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong thời gian qua mặc dù đúng hướng nhưng còn chậm và chưa đạt được mục tiêu mong muốn, cơ cấu đó không đủ sức giúp tạo ra nền tảng cho sự phát triển kinh tế khu vực và thế giới.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã diễn ra trên địa bàn cả nước nhất là các vùng nông thôn ven đô thị, ven các vùng khu công nghiệp và các vùng có nhiều ngành nghề truyền thống vùng sản xuất nông sản tập trung. ở vùng Đông Nam Bộ do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh, các khu công nghiệp và khu chế xuất phát triển mạnh, mặt khác đây lại là khu kinh tế trọng điểm phía nam nên quá trình và kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn diễn ra nhanh hơn các vùng khác. ở các vùng sản xuất nông sản hàng hóalớn đã hình thnàh các trung tâm công nghiệp chế biến và dịch vụ như các nhà máy xay xát, đánh bóng gạo xuátkhẩu ở Cần Thơ, An Giang, chế biến hạt điều ở Bình Dương, chế biến dánh bóng cà phê ở Tây Nguyên, sơ chế cao su ở Đông Nam Bộ. Cụm công nghiệp nông thôn xã Hòa An, huyện Chợ Mới( An Giang) với gần 50 nhà máy chế biến lúa gạo xuất khẩu đã thu 70% số lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng có hơn 900 làng nghề truyền thống những năm gần đây được khôi phục và phát triển mạnh , tạo việc làm phi nông nghiệp cho hàng chục vạn lao động nông thôn,góp phần tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phi nông nghiệp trực tiếp tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình chuyển dịch sang nền nông nghiệp hàng hóa vùng ĐBSH đã xuất hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo hướng tích cực và đa dạng, kết hợp với nhiều biện pháp tạo việc làm, trong đó có các chương trình quốc gia đã góp phần tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông dân trong vùng. Điều đáng nói là hiện tượng hộ nông dân không có đất canh tác, hoặc phải cầm cố ruộng đất chưa xảy ra, đời sống của nông dân từng bước được cải thiện, tỷ lệ nghèo thấp và giảm nhanh. ở vùng đồng bằng Sông Hồng , duyên hải miền trung và miền núi phía bắc tốc độ chuyển dịch cơ cáu kinh tế và lao động diễn ra chậm hơn. Tình trạng sản xuất nhỏ manh mún, tự phát, tự cung tự cấp vẫn còn phổ biến. Tốc độ phát triển nông nghiệp so với công nghiệp và dịch vụ sản xuất hàng hóa và ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp phát triển qúa chậm, chưa tạo ra thị trường đẻ thu hút lao động nông nghiệp vẫn phát triẻn qúa chậm, chưa tạo ra thị trường để thu hút lao động nông nghiệp.
II.4 ảnh hưởng của đầu tư và lao động đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp không chỉ diễn ra trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi qua các chỉ tiêu giá trị sản xuất, diện tích, mà còn thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu đầu tư , sự phân công lao động trong nông nghiệp. Có thể nói đầu tư vốn, tài sản, lao động là những yếu tố quan trọng có tác động không nhỏ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Đầu tư là điều kiện cần cho chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có đầu tư mới tiến đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp, đầu tư được ví như chiếc đòn bẩy tạo sức bật cho sản suất nông nghiệp. Một khi tốc độ đầu tư cho nông nghiệp được đẩy nhanh sẽ trạo ra thời cơ mới cho phát triển nông nghiệp các loại hình sản xuất trong nông nghiệp mở rộng về cả qui mô lẫn hình thức. Kết quả là cơ cấu nông nghiệp sẽ chuyển đổi theo hướng đa dạng hoá các ngành nghề.
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng ưu tiên cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển cơ sở hạ tầng và lĩnh vực xã hội, thể hiện ở các mặt:
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cho nông nghiệp vốn trong hơn 10 năm qua (1991-2002) đạt 67,2 tỷ (mặt bằng giá năm 1995) chiếm 10,37% trong đó 5 năm 1991-1995 là 8,5%, 7 năm 1996-2002 là 11,45% như vậy 7 năm 1996-2002 có sự tập trung cao hơn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt là trong 2 năm gần đây nhất thì tỷ trọng này đã lên đến 15%. Nguồn vốn ngân sách đã có tăng đáng kể cho khu vực nông nghiệp và nông thôn, các nguồn vốn khác như vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước vốn các chương trình quốc gia (chương trình 327,773). Ngoài ra, các dự án đàu tư trực tiếp nước ngoài cũng xuất hiện trong nông nghiệp.
Tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm là 21,15%, vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp năm 2000 gấp 6 lần năm 1991. Nhiều chương trình đầu tư phát triển nông nghiệp được thực hiện như chương trình 327 và phủ xanh đất trống đồi núi trọc (bắt đầu từ năm 1993), chương trình 773 về khai thác bãi bồi ven sông ven biển (1995), chương trình hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn (1998),
Trong nông nghiệp nhờ kết quả đầu tư phát triển đã hình thành được hệ thống thuỷ lợi khá hoàn chỉnh phục vụ ngày càng tốt hơn sự nghiệp tpáht triển kinh tế nói chugn và nông nghiêp nói riêng. đến nay các công trình thuỷ lợi có thể tưới cho 3,2 triệu đất canh tác tiêu úng cho 1,5 triệu ha dất canh tác, ngăn mặn cho 70 vạn ha, Năm 1999, đã đảm bảo tưới cho 6,3 triệu ha gieo trồng lúa 1triệu ha hoa màu và cây công nghiệp. Hầu hết các công trình thuỷ lợi đều phát huy hiệu quả ở mức độ khác nhau. các công trình thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo điều kiện khai hoang, tăng vụ, chuyển từ vụ lúa hè nổi năng suất thấp sang 2 vụ đông xuân và hè thu có năng cao.
Nhiều năm trở lại đây chúng ta đã xây dựng và hình thành được hệ thống giống con, giống cây cho phát triển nông nghiệp, năng suất cây trồng vật nuôi hiện nay là có sự đóng góp đáng kể của lĩnh vực này. Chương trình 327 trước đây (mức đầu tư 3000 tỷ đồng) và dự án trồng 5 triệu ha rừng hiện nay đã và đang thu được những kết quả đáng khích lệ. Thành quả đạt được của ngành nông nghiệp trong mấy năm qua đã cho thấy vai trò quan trọng tác động trực tiếp của nguồn đầu tư trong phát triển nông nghiệp chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Nhờ đầu tư, cơ sở hạ tầng nông thôn đã được cải thiện nông thôn đã từng bước cơ khí hoá điện khí hoá công tác giống tưới tiêu đã đem lại hiệu quả thiết thực. Năng suất cay tròng ngày một nâng cao, tỷ suất hàng hoá trong sản phẩm nông nghiệp đã tăng. Đã tạo lập khôi phục một số ngành nghề mới nhờ nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp. Đời sống nhân dân dần được cải thiện và đi vào ổn định. Tuy nhiên đầu tư trong nông nghiệp còn gặp nhiều vấn đề bất cập cần sớm giải quyết, một trong những vấn đề đó là:
- Huy động chưa hết tiềm năng và khả năng của nền kinh tế .
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý
- Sử dụng vốn đầu tư chưa hiệu quả.
Giải pháp trước mắt là cần nâng cao việc quản lý trong lĩnh vực đầu tư thể hiện ở tất cả các khâu từ xác định chủ trương , lập , thẩm định dự án , ra quyết định đầu tư đến khâu triển khai thực hiện, theo dõi, cấp phát và thanh toán, đánh giá kết quả sau dự án.
Khác với đầu tư lao động được coi là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất nông nghiệp. Nếu như trước đây với một nền sản xuất nông nghiệp độc canh cây lúa, phụ thuộc chủ yếu vào lao động thì lao động luôn được coi trọng. Ngày nay cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật vai trò của lao động có xu hướng ngày càng giảm sút về quy mô , nhưng yêu cầu về chát lượng ngày một tăng. Điều này cho tháy sự thay đổi căn bản về cơ cấu sử dụng nguòn lao động trong nông nghiệp phù hợp với xu thế CNH-HĐH nông nghiệp trong thời gian trước mắt và sau này.
Lao động nước ta được đánh giá là lao động cần cù sáng tạo, kỹ năng ngày một cao, tiền công rẻ . . đây là một thuận lợi rất lớn để nước ta phát huy lợi thế so sánh về lao động trong sản xuất. Trong sản xuât nông nghiệp lao động chiếm một vị trí hét sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô năng suất nông nghiệp. Do đặc điểm là mọt nước nông nghiệp tuy mấy năm qua đã có sự cỏi tiến áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp nhưng nhìn chung sản xuát nông nghiệp vẫn chịu chi phối bởi lao động thủ công. Thực tế cho thấy hơn 76% lao động tập trung ở khu vực này và tỷ lệ này hàng năm giảm không đáng kể.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH tất yếu sẽ làm giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp tăng tỷ trọng máy móc, công nghệ trong sản xuất lao đọng có kỹ năng tăng lên, thời gian lao động giảm đi lao động nông thôn sẽ có xu hướng chuyển dịch ra các khu vực phi nông nghiệp như các ngành nghề thủ công, chế biến nông nghiệp . . góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn tăng thu nhập cho nông dân, xoá đói giảm nghèo.
Bảng biểu 7: chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành KTQD.
Đơn vị: nghìn người, %
Qua biểu cho thấy cơ cấu lao động theo ngành kinh tế nước ta trong những năm qua đã có thay đổi theo chiều hướng tích cực: tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp giảm từ 69,8%năm 1996 xuống còn 62,56% năm 2000; lao động các ngành công nghiệp xây dựng, thương mại dịch vụ tăng lên trong đó tăng nhanh nhất là lao động dịch vụ từ 19,65% năm 1996lên 23,9% năm 2000.
Quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời diễn ra sự tích tụ chuyên môn hoá sản xuất và chuyên môn hoá lao động. Trong quá trình CNH-HĐH đất nước các vùng chuyên môn hoá sản xuất nông nghiệp các đô thị mới sẽ xuất hiện dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động giữa các vùng.
Bảng biểu 8 : chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ.
Đơn vị: nghìn người, %
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT132.doc