MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƯƠNG1 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
1.1 Tổng quan về rừng ngập mặn 2
1.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn 2
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố RNM 3
1.2.1.1. Nhiệt độ không khí 3
1.2.1.2. Lượng mưa 4
1.2.1.3. Chế độ gió 4
1.2.1.4. Ánh sáng 4
1.2.1.5. Mây 5
1.2.2. Tác động của các yếu tố thuỷ văn 5
1.2.2.1. Thủy triều 5
1.2.2.2. Dòng nước đại dương 5
1.2.2.3. Dòng nước ngọt 6
1.3. Thể nền 6
1.4. Địa hình 7
1.5. Tác động của các nhân tố sinh học 7
1.6. Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới và việt nam. 8
1.6.1 .Sự phân bố của rừng ngập mặn trên thế giới 8
1.6.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn ở Việt Nam 10
1.7. Vai trò của RNM 17
1.7.1. Vai trò của RNM đối với tự nhiên 18
1.7.1.1. Vai trò của RNM chống lại xói mòn, sạt lở 18
1.7.1.2. Vai trò đối với tài nguyên thiên nhiên 18
1.7.1.3. Vai trò bảo tồn đa dạng sinh học cho biển ven bờ 18
1.7.1.4. Duy trì nguồn dinh dưỡng giàu có đảm bảo cho sự phát triển của sinh vật ngay trong RNM 20
1.7.1.5. Vai trò giữ lại trầm tích 21
1.7.1.6. Là nơi cư trú cho các loài động vật 22
1.7.2. Vai trò của RNM đối với con người 22
1.7.2.1. Sản phẩm lâm nghiệp 22
1.7.2.2. Vai trò cung cấp lương thực và thực phẩm 23
1.7.2.3. Vai trò của RNM đối với du lịch 24
1.8.Thành phần rừng ngập mặn 24
1.8.1. Cây Đước 24
1.8.2. Cây Mắm Trắng 26
1.8.3. Cây Bần 27
1.8.4. Cây vẹt 28
1.8.5. Cây Sam biển 29
1.8.6. Cây rau muống biển 29
1.8.7. Cây giá 30
1.8.8. Cóc vàng 31
1.8.9. Cây tra 31
1.8.10. Cây Ráng 32
1.9.Tình hình khai thác rừng ngập mặn trên thế Giới và Việt Nam 32
1.9.1. Tình hình khai thác rừng ngập mặn trên thế giới 32
1.9.2. Tình hình khai thác rừng ngập mặn tại Việt Nam 34
1.10. Đặc điểm tự nhiên – kinh tế xã hội xã Tam Hải – huyện Núi Thành – Quảng Nam 38
1.10.1. Vị trí địa lý 38
1.10.2. Địa hình 39
1.10.3. Khí hậu và thủy văn 39
1.10.3.1. Nhiệt độ 39
1.10.3.2. Chế độ gió 40
1.10.3.3. Lượng mưa 40
1.10.4. Đặc điểm phát triển kinh tế _xã hội của xã Tam Hải 40
CHƯƠNG 2 42
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ 42
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
2.1. Đối tượng nghiên cứu 42
2.2. Địa điểm nghiên cứu 42
2.3. Nội dung nghiên cứu 42
2.4. Phương pháp nghiên cứu 43
2.4.1 Khung logic quá trình nghiên cứu 43
2.4.2 Phương pháp thu thập số liệu 44
2.4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp 44
2.4.2.2. Thu thập số liệu thứ cấp 44
2.4.2.3. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 45
CHƯƠNG 3 46
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN 46
3.1.Thực trạng phân bố rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam 46
3.2.Thực trạng diện tích RNM tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam 47
3.3. Thực trạng thành phần loài tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam 48
3.3.1. Một số đặc trưng của cấu trúc RNM 50
3.3.1.1.Cấu trúc tổ thành 50
3.3.1.2. Cấu trúc mật độ 51
3.3.1.3. Cấu trúc tầng thứ 52
3.3.1.4. Độ tàn che 53
3.3.1.5 Mật độ cây tái sinh 54
3.4. Các chính sách về quản lý bảo vệ tài nguyên rừng trên địa bàn nghiên cứu 55
3.5. Nguyên nhân làm rừng ngập mặn bị suy giảm 56
3.5.1. Làm đầm nuôi tôm 57
3.5.2. Đối với hoạt động làm muối 58
3.5.3. Đối với sản xuất nông nghiệp 58
3.5.4. Ô nhiễm môi trường 59
3.5.5. Chính sách quản lý 59
3.6. Các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên RNM 60
3.6.1. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên RNM 60
3.6.2. Đảm bảo sinh kế cho người dân địa phương 60
3.6.3. Trồng và phục hồi lại diện tích RNM 61
3.6.4. Thay đổi phương pháp nuôi trồng thủy sản trong rừng ngập mặn 61
3.6.5. Nâng cao nhận thức cho người dân địa phương 61
3.6.6. Ngăn chặn phá mục đích khác 62
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
41 trang |
Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 8363 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dương, 5.781.000 ha nằm ở vùng châu mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc châu phi. [13]
Trên phạm vi toàn cầu, Wash (1974) cho rằng sự phân bố địa lý của RNM chia làm 2 khu vực chính là khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương bao gồm Nam Nhật Bản, Philipin, Đông Nam Á, Ấn Độ, bờ biển Hồng Hải, Đông Phi và khu vực 2 là Tây Phi và Châu Mỹ bao gồm bờ biển Châu Phi ở Đại Tây Dương, quần đảo Galapagos và Châu Mỹ và khu vực Ấn Độ - Malasia được xem là trung tâm phân bố các loài cây ngập mặn . Các vùng RNM phồn thịnh nhất ở Đông Nam Á bao gồm Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam. [2,14]
Sự phân bố RNM này được một số tác giả cho rằng khu vực giữa Malaysia và Bắc Úc là trung tâm tiến hóa của khu hệ thực vật ngập mặn ( Ding Hou 1958), ở đây có 30 loài cây gỗ và cây bụi thuộc 14 họ thực vật có hoa trong hệ thực vật rừng ngập mặn.
Dựa vào việc tính toán trên bản đồ bằng công nghệ viễn thám (Spalding và cộng sự ,(1997) lại thống kê thấy diện tích RNM các vùng trên thế giới là 181.077 km2 và được phân bố theo các vùng và dựa vào bản sau:`
Bảng 1.1. Diện tích RNM trên thế giới.
Vùng
Diện tích RNM (km2)
Tỷ lệ (%)
Nam và Đông Nam Á
75.173
41,5
Austrailia
18.789
10,4
Châu Mỹ
49.096
27,1
Tây Phi
27.999,5
15,5
Đông Phi &Trung Đông
10.024
5,5
Tổng cộng
181.077
100
(Ng(Nguồn: Spalding, Blasco, Field, 1997)
Dựa vào bảng 1.1 phân bố diện tích RNM trên thế giới ta nhận thấy diện tích rừng ngập mặn lớn nhất là khu vực Nam và Đông Nam Á có diện tích lớn nhất với 75.173km2 chiếm tỷ lệ 41,5%, tiếp đến khu vực có diện tích lớn thứ hai là Châu Mỹ với 49.096km2 chiếm 27,1%, nơi có diện tích RNM thấp nhất là khu vực Đông Phi và Trung Đông chiếm 5,5%. [14]
Hiện nay, đã có nhiều chương trình khai thác bền vững rừng ngập mặn tại một số quốc gia châu Á và châu Mỹ với nhiệm vụ khôi phục và mở rộng diện tích rừng ngập mặn trên quy mô toàn thế giới. Tuy nhiên diện tích rừng ngập mặn đang bị thu hẹp dần mỗi năm do quá trình khai thác quá mức của con người, vì vậy cần phải có chiến lược hành động cụ thể nhằm nâng cao nhận thức của đại bộ phận dân cư vùng đới bờ trong thời gian tới.
1.6.2. Sự phân bố của rừng ngập mặn ở Việt Nam
Nước ta có bờ biển kéo dài 3620 km với khí hậu nhiệt đới gió mùa đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của cây ngập mặn. Hầu hết các loài cây ngập mặn phân bố chủ yếu ở vùng ven biển và ở từng khu vực có những điểm đặc trưng riêng về địa hình, địa mạo nên có sự sai khác nhau về số lượng, thành phần loài cây ngập mặn. Nghiên cứu của Phan Nguyên Hồng (1987) cho thấy RNM ở Việt Nam chia thành 4 khu bao gồm:
Khu vực 1: Ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng), ở khu vực này được chia làm 3 tiểu khu:
Tiểu khu 1: Bao gồm từ Móng Cái đến Cửa Ông, bờ biển dài khoảng 55km. Tiểu khu này gồm lưu vực cửa sông Kalong, lưu vực Tiên Yên – Hà Cối và vùng ven bờ cửa sông Tiên Yên – Ba Chẽ, hệ thực vật ở đây có quần thể Mắm biển, Đâng, Trang, Vẹt dù, loài thứ yếu là Sú.
Tiểu khu 2: Từ Cửa Ông đến Cửa Lục ( dài khoảng 40km). Hệ thực vật gồm có Đâng,Vẹt dù, Trang cao 2 – 3m, dưới quần xã này là cây bụi lùn như Sú, Mắm biển cao trên dưới 1m. Nhìn chung ở tiểu khu này diện tích RNM còn lại là rất bé, khoảng 380 ha (Cự và cs, 1996)
Tiểu khu 3: Từ cửa lục đến mũi Đồ Sơn (dài khoảng 55km), Quần xã thực vật ở nơi này có Quần xã Mắm trắng phân bố ở gần lưu vực sông Bình Hương, Quần xã Đâng, Vẹt dù, Trang phân bố ở những nơi ngập triều trung bình, Quần xã Tra, Gía, Vạng Hôi cư trú ở đất ngập triều cao. Những năm gần đây do các hoạt động khai hoang lấn biển của quân khu 3 và người dân địa phương nên RNM đã thu hẹp dần.[1]
Khu vực 2: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Lạch Trường (Thanh Hóa), ở khu vực này được chia làm 2 tiểu khu.
Tiểu khu 1 : Từ Đồ Sơn đến của sông Văn Úc, đây là vùng chuyển tiếp giữa khu vực 1 và khu vực 2 nên quần xã cây ngập mặn gồm những những loài ưa nước lợ, trong đó ưu thế nhất là loài bần chua phân bố ở vùng cửa sông (Kiến Thụy), Ngoài ra còn có các loài cây là Sú và ô rô cũng có số lượng phong phú.
Tiểu khu 2 : Từ của sông Văn Úc đến cửa Lạch Trường nằm trong khu vực bồi tụ của hệ thống sông Hồng nên có bãi triều rộng, giàu phù sa và thích hợp cho sự phát triển của cây ngập mặn, quần xã cây ngập mặn chủ yếu là Sú và ô rô, thỉnh thoảng có xen lẫn ít Trang và Bần chua.
Khu vực 3: Ven biển miền Trung kéo dài từ Lạch Trường tới Vũng Tàu.
Khác với vùng ven biển Đồng bằng Bắc Bộ, phần lớn các sông ở Miền Trung đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn nên ngắn và dốc khi vừa mới xuống đồng bằng, các trắc diện thường nằm ngang trừ 2 sông là Sông Mã và sông Lam, các sông khác từ cửa Nhượng và sông Sai(740 sông) trong đó 98,1% sông có L= 10 – 100k; 93% có F <= 500km2 (Tuấn, 1995). Lượng phù sa ít không đủ bồi lên những bãi lầy ven biển, nếu có ít phù sa trôi ra ngoài cửa sông thì cũng bị sóng cuốn đi. Càng di về phía nam thì bờ biển càng dốc, càng sâu và khúc khuỷu.
Trầm tích các bãi triều trong cửa sông các yếu tố dinh dưỡng thay đổi. Trầm tích tần mặt có hàm lượng P cao, nhưng N thấp. Ở tầng sâu hàm lượng P giảm, hàm lượng N tăng do có quá trình tích tụ mùn cây ngập mặn.
Mặc dầu lượng mưa lớn từ 1500mm tùy theo địa hình nhưng phân bố không đều, trong thời kỳ có bão, mưa rất lớn có ngày 400 – 700mm và có khi kéo dài từ 2 – 4 ngày, do đó thường gây ra lũ lụt và nước biển dâng. [2]
Cũng như khu vực II khu vực này chiụ ảnh hưởng của gió mùa đông bắc (bảng 1.5). Trong 2 năm 1997, 1998 nhiều cơn bão liên tiếp ở miền nam nam Trung Bộ đã gây nhiều thiệt hại to lớn về tài nguyên và sinh mạng con người[1]
Bảng 1.2. Thống kê số cơn bão đổ bộ vào ven biển khu vực III.
Thời kỳ
(năm)
Thanh Hóa đến
Quảng Bình
Quảng Trị đến
Khánh Hòa
Ninh Thuận đến
Bình Thuận
1884 - 1990
6
5
10
1901 - 1960
44
42
59
1961 - 1980
10
13
12
1971 - 1980
14
14
13
1981 - 1990
14
10
17
(Nguồn : Vũ Minh Cát, 1995)
Dựa vào bảng 1.2 ta có thể nhận định rằng từ năm số cơn bão đổ bộ vào vùng ven biển miền trung với cường độ tăng dần qua từng thời kỳ. Trong đó thời kỳ năm 1901 – 1960 có số cơn bão đổ bộ vào nhiều nhất và tập trụng chủ yếu ở vùng ven biển Ninh thuận – Bình thuận còn thời kỳ năm 1884 – 1990 có số cơn bão đổ bộ vào ít nhất. Như vậy ta có thể nhận thấy qua từng năm khí hậu có sự biến đổi rất lớn do vậy chúng ta cần có những giải pháp cụ thể nhằm bảo vệ cuộc sống của người dân đặc biệt là những người dân vùng biển.
Với tốc độ gió lớn về mùa hè: gió đông – đông nam 3,1 – 5m/s. Mùa đông gió bắc và đông bắc thổi thẳng góc với bờ biển( phía nam Nghệ Tĩnh, Quảng Bình), tốc độ gió lớn 3,1- 7m/s, dồn cát từ biển lên tạo ra những đụn cát, doi cát rất lớn, dài hàng chục kilomét.
Cùng với địa hình trống trải sóng lớn, bờ dốc nên nói chung không có RNM dọc bờ biển, hẹp phía tây bán đảo Cam Ranh, bán đảo Quy Nhơn. Chỉ ở phía trong các cửa sông, cây ngập mặn mọc tự nhiên, thường phân bố không đều, do ảnh hưởng của địa hình và tác động của cát bay.
Dựa vào đặc điểm địa mạo, thủy văn, có thể chia bờ biển Trung bộ làm 3 tiểu khu:
Tiểu khu 1 : Từ Lạch Trường đến Mũi Ròn.
Đối với địa hình tiểu khu này bờ biển gồm các cung lõm bồi tụ ngắn xen kẽ với các mũi nhỏ hoặc các đoạn bờ đá dốc chịu xâm thực của xói mòn do tác động của sóng. Ở các cung lõm bồi tụ, bãi triều thưỡng hẹp và dốc (1 – 100 ), rộng trung bình từ 30 – 100m. Động lực chính hình thành nên các bãi biễn là sóng và trầm tích gồm cả di chuyển ngang từ đáy và di chuyển dọc bờ.
Mạng lưới sông ngòi ở tiểu khu này khá dày (1km/km2), các sông ngắn và dốc. lưu lượng dòng chảy vào mùa mưa gấp 3 – 4 lần mùa khô. Do những đặc điểm trên nên lượng nước tập trung vào thời kỳ bão nên xảy ra lũ lụt. Ở Bắc Trung Bộ các của sông có dạng phẳng và đáy lõm, có cồn cát chắn ngang của sông nên lượng phù sa ít.
Trầm tích bãi triều ở vùng cửa sông ở tầng mặt ( 0 – 50cm) có hàm lượng P cao, tầng sâu thấp, còn N thì ngược lại. Ở tầng mặt trầm tích tạo thành trong điều kiện thoáng khí nghèo mùn bã hữu cơ, nguyên nhân là do RNM bị tàng phá hết nên hàm lượng N và P thấp giống như khu vực 2.
Đối với chế độ thủy triều ở tiểu khu này là bán nhật triều không đều, có 8 – 10 ngày bán nhật triều trong tháng. Biên độ và độ lớn của triều giảm dần từ Bắc đến Nam(3,5 – 2m). Nước triều thường lớn vào các tháng 7, 9, 12. Dòng triều lên 34 – 37cm/s mạnh hơn dòng triều xuống ( 22 – 26cm/s), (Thụy, 1984).
Độ mặn ở đây vào mùa khô có độ mặn trung bình là 28 – 30 % , mùa mưa 15 – 23,5 %; ở các cửa sông lớn, độ mặn về mùa mưa thấp hơn 1 – 10%, còn các cửa sông nhỏ nước mặn và sâu hơn chính vì vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự phân, bố của cây ngập mặn.
Mặc dầu tiểu khu này chịu ảnh hưởng của gió tây nam khô nóng nhất là vào tháng 7 những lượng mưa khá lớn trung bình là 2.290mm/ năm. Lượng mưa cao nhất là ở Kỳ Anh – Hà Tĩnh (2.928mm/năm), sự cách biệt giữa mùa khô và mùa mưa không lớn nên cây ngập mặn vẫn sinh trưởng bình thường.
Đối với quần xã RNM ở tiểu khu này, do nằm sát các cửa sông lớn như sông Mã, sông Lam nên thảm thực vật nước lợ thường phân bố ở phía trong cách xa cửa sông khoảng 100 – 300m. Các loài cây ngập mặn cũng phân bố theo các bãi ngập triều, trên các bãi triều cao có Ráng, Vạn hôi, Mướp sát và giá, còn ở những bãi triều thấp chủ yếu là nơi sinh sống của bần chua.
Tiểu khu 2 : Từ mũi Ròn đến mũi đèo Hải Vân.
Một đặc điểm nổi bật nhất của địa hình bờ biển là đường bờ thẳng kéo dài với các cồn cát cao chạy sát dọc bờ. Bãi biển dốc, hẹp, chỉ rộng từ vài chục đến vài trăm mét. Các mũi nhô (mũi ròn, mũi Độc, mũi Lai, mũi Chân Mây) đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển địa hình bờ.
Hệ thống sông ngòi ở đây ngắn và dốc, lượng phù sa ít và phải chảy ngoằn ngoèo qua các cồn cát trước khi đổ ra biển.
Chế độ thủy triều ở phần Bắc Quảng Bình có chế độ nhật triều không đều, độ lớn của triều trung bình 1,2 – 1,5m. Từ nam Quảng Bình đến cửa Thuận An là bán nhật triều không đều, độ lớn của triều thấp nhất trên toàn dải bờ biển Việt Nam: 0,4 – 0,5m. Vào phía nam chế độ thủy triều chuyển sang bán nhật triều không đều, độ lớn trung bình kỳ nước cường 0,8m.
Đối với độ mặn ở tiểu khu này là do sông ít, lưu lượng kém, nên độ mặn ven bờ thường cao (30%). Ở các cửa sông độ mặn mùa khô 24 – 25% mùa mưa 11 -18%. Trong đó các đầm, phá độ mặn về mùa mưa xuống rất thấp (1 – 0,5%) do hứng nước các cửa sông trước khi đổ ra biển.
Chế độ nhiệt ở đây tương đối cao, nhiệt độ trung bình năm ở cửa Tùng là 28,20C, nhiệt độ thấp nhất là 8 – 100C, còn nhiệt độ nước biển thấp nhất là 16 – 16,40C. Tuy nhiên tiểu khu này tổng lượng bức xạ rất lớn là 110,544 kcalo/cm 3 năm và lượng bốc hơi hằng năm cao do ảnh hưởng của gió Lào.
Lượng mưa ở đây cũng khá lớn trên 2500mm/năm, riêng Quảng Bình thấp hơn là 2.127mm/ năm. Mùa mưa trùng với mùa bão nên mưa tập trung vào một số ngày với lượng mưa cao 500 – 600mm, gây ra lũ lụt.
Đối với chế độ gió hoạt động là gió mùa tây nam khô nóng với tốc độ cao 10m/s có tác động mạnh mẽ tới sự sinh trưởng và phát triển của thực vật vì gây ra ở nhiệt độ cao (38 – 400C).
Hằng năm ở khu vực này phải chịu ảnh hưởng của các cơn bão, thường có tới 30 ngày/ năm, có đợt kéo dài 8 – 10 ngày. Do bão và gió mùa Đông Bắc gây ra sóng lớn, bờ biển dốc, bãi triều ven biễn hẹp, nên không có RNM phân bố phía ngoài cửa sông.
Quần xã RNM ở đây với các cồn cát cao chạy sát dọc bờ nên đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và định hình bờ, do vậy quần xã cây ngập mặn ở đây phát triển tốt có một số loài chiếm ưu thế như : đâng, vẹt dù, vẹt khang. [2]
Tiểu khu 3 : Từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu, do đặc điểm địa hình không có khả năng lấn ra biển nên quần xã cây ngập mặn chủ yếu là Đưng, xu ổi, vẹt dù, vẹt khang [6].
Do đặc điểm của địa hình đó làm cho đất liền không có khả năng lấn ra biển như các khu vực khác chỉ có phía Tây các đảo gần bờ, được lăng sống và lắng đọng cho đảo dính vào đất liền (như bán đảo Sơn Trà, khối mũi Ba Lang An, bán đảo Cam Ranh, bán đảo Quy Nhơn). Trên các các dải cát pha bùn phía Tây lác đác có một số giải ngập mặn.
Ở đây có nhiều cồn cát nên các dòng sông nhỏ phải tập hợp lại thành từng nhóm mới đủ sức vượt qua các cồn cát ra biển. Ở các cửa sông lớn có nhiều cồn cát ngầm dạng đảo của sông, nhưng vì địa hình trống trải, chịu sự tác động mạnh của gió bão nên cây ngập mặn không tái định cư được.
Dọc bờ biển là các cồn cát che phủ một số đầm hồ hẹp, nguyên là di tích của các vùng biển cũ, trong đó còn có một số đầm thông với các lạch triều hẹp như Đầm Thị Nại, đầm Ông Tong, đầm Ô Lang… đây cũng là nơi cư trú của cây ngập mặn.
Từ đèo Hải Vân trở vào, khí hậu có các đặc điển khác với các khu vực phía Bắc đèo Hải Vân trở ra. Nhiệt độ bình quân năm ở bán đảo Sơn là 25,7 0C, nhiệt độ bình quân tháng thấp nhất (tháng 1) là 21,7 0C. Như vậy là nhiệt độ ảnh hưởng không đáng kể đến sự phân bố của RNM.
Lượng mưa phân bố không đều, từ Nha Trang trở ra lượng mưa bình quân 2.000 mm/năm, lượng mưa cao nhất đạt 2.530 mm (bảng 1.3), lượng mưa năm thấp nhất là 670 mm ở Nha Trang. Từ Nha Trang trở vào Phan Rang, Phan Thiết lượng mưa rất thấp , bình quân năm trên 1.000 mm, thấp tuyệt đối 272 mm và cao tuyệt đối 1169 mm (Barry và cộng sự, 1961). Sông ngòi ở tiểu khu này ngắn và dốc, lưu lượng kém như sông Trà Khúc có tổng lượng nước 5,1 km3/năm (Phổ, 1983). Càng vào phía Nam các sông còn hẹp như sông Cái, sông Lũy, sông Cầu.
Thủy triều từ Đà Nẵng đến Quảng Nam là bán nhật triều không đều, trong tháng có 20 ngày bán nhật triều, độ lớn trung bình kỳ nước là 0,8 – 1,2m, tăng dần về phía [6]
Do địa hình không thuận lợi cho nên nói chung vùng ven biển tiểu khu 3 không có RNM, chỉ ở phía Tây các bán đảo như: Cam Ranh, Quy Nhơn và vài bờ biển có đảo che chắn như: Ninh Hòa (Khánh Hòa) do kín sóng nên cây ngập mặn có thể định cư thành một thành vùng hẹp ở ven mép bán đảo và ven biển. Trong cửa sông cũng có các rải RNM nhưng do dân địa phương khai thác mạnh nên cũng còn dạng cây bụi [1]
Bảng 1.3. Lượng mưa bình quân năm (tiểu khu 3)
Trạm tháng
Đà Nẵng
Tam
Kỳ
Quảng Ngãi
Quy Nhơn
Tuy Hòa
Nha Trang
Phan Thiết
I
96,2
72,9
131,1
64,6
59,6
46,9
1,2
II
33,0
24,8
52,5
32,2
21,3
17,4
0,7
III
22,4
8,0
37,5
24,0
21,1
32,4
4,7
VI
26,9
39,5
37,6
32,4
38,1
33,1
32,0
V
62,6
94,5
66,3
63,4
83,9
55,3
130,1
VI
87,1
181,8
89,8
61,5
49,1
48,8
148,1
VII
85,6
67,9
75,5
54,6
42,7
43,0
224,3
VIII
130,0
114,3
121,8
58,6
51,7
50,7
175,3
IX
349,7
263,8
282,4
245,1
210,6
167,2
190,2
X
612,8
693,1
586,7
463,3
499,0
323,5
169,7
XI
366,2
659,3
541,5
422,7
413,2
383,6
50,2
XII
199,0
311,5
127,8
169,6
151,3
167,0
20,7
TS
2044,5
2531,5
2290,5
1692,3
1591,6
1358,9
1152.2
Thời gian quan trắc
1931-44
1947-85
1979-85
1907-44
1958-85
1933-44
1947-85
1907-44
1947-85
1927-44
1978-85
(Nguồn: Chương trình cấp nhà nước 42A (1985 – 1990)
Các quần xã cây ngập. dựa vào kết quả nghiên cứu của J. Barry, L. C. Kiệt, V. V. Cường (1961) ta thấy các kiểu quần xã đước ở phía tây bán đảo Cam Ranh.
Quần xã đưng tiên phong trên đất thấp.
Quần xã đưng và đước đôi trên đất chặt hơn các loại cây xu ổi, vẹt khang.
Quần xã mắm quăn và mắm lưỡi dòng với các loài côi, cóc biển, dà vôi.
Trên đất ít ngập triều có quần xã cây gỗ như ở các khu vực khác với các loài giá, xu, tra, vạng hôi, mớp sát..
Quần xã nước lợ bần chua và ô rô gai,mây nước…
Hiện nay các quần xã này đang bị biến mất do quá trình khai thác của con người thay vào đó là các ao nuôi tôm.
Khu vực 4: Ven biển Nam Bộ từ Vũng Tàu tới Hà Tiên, miền ven biển Nam Bộ này có địa hình thấp và bằng phẳng được bồi đắp bởi 2 hệ thống sông lớn là ở khu vực này chia làm 4 tiểu khu.
Tiểu khu 1: Từ mũi Vũng Tàu đến cửa sông Soài Rạp (ven biển Đông Nam Bộ) Hệ thực vật ở khu vực này có các loài cây ngập mặn như Bần Trắng, Đước đôi, Mắm lưỡng dòng, Giá , Chà là
Tiểu khu 2 : Từ cửa sông Soài Rạp đến cửa sông Mỹ Thanh (Ven biển đồng bằng sông Cửu Long), nơi này có địa hình bằng phẳng, được phù sa bồi đắp, có độ dốc bé nên số lượng loài cây ngập mặn tương đối phong phú, Nhưng theo các tài liệu đã công bố trước(Maurand, 1943, Rollet 1962, Thôn, Lợi, Trừng 1970 – 1978, Ross 1975) chỉ còn sót lài một vài khoảnh rừng Mắm Trắng được nhân dân giữ lại.
Tiểu khu 3: Từ của sông Mỹ Thanh đến cửa sông Bảy Háp (Tây nam bán đảo cà Mau), Tuy nằm trong đồng bằng sông cửu long nhưng bán đảo Cà Mau ít chịu sự chi phối của dòng chảy sông Cửu Long, hệ thực vật ở đây có Mắm Trắng, Đước, Vẹt tách sống ở trên đất bồi mới nền đất ngập triều thấp.
Tiểu khu 4 : Từ cửa sông Bảy Háp (Mũi Bà Quan) đến mũi Nãi – Hà Tiên (bờ biển phía tây bán đảo cà mau), địa hình ở tiểu khu này thấp, nhưng trong bãi triều đất cao chạy dọc theo bờ biển, ở đây có hệ thống sông nhỏ nối chằng chịt với nhau. Quần xã RNM gồm thành phần chủ yếu là đước dạng cây gỗ nhỏ cao từ 2 – 6m, ngoài ra có Sú, mắm biển, xu ổi trên đất ngập có Tra lâm võ, Thiên lý dại, vạng hôi và có các dạng cây thảo như ráng, Cốc kèn ( Ngân, kiệt, Thùy 1967).
Theo kết quả nghiên cứu (Paul Maurand, 1943; Rollet, 1962; Viện điều tra Quy hoạch rừng, 1982, 1999) về diện tích đất ngập mặn và diện tích Rừng Ngập Mặn được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.4 .Diện tích đất ngập mặn và rừng ngập mặn ở việt nam
Phân bố các tỉnh
Diện tích đất ngập mặn (ha)
Tỷ lệ
(%)
Diện tích rừng ngập mặn (ha)
Tỷ lệ
(%)
Ven biển Bắc Bộ
122.335 ha
22,60
43.881
33,94
Ven biển Trung Bộ.
44.042 ha
8,20
3000
2,32
Venbiển Nam Bộ
373.306 ha
69,20
82.387
63,74
(Nguồn: Paul Maurand, 1943; Rollet, 1962; Viện điều tra Quy hoạch rừng, 1982, 1999)
Qua bảng 1.4 số liệu ta nhận thấy diện tích RNM lớn nhất là khu vực ven biển Nam Bộ với 82.387 ha chiếm tỷ lệ 63,74% do khu vực này được bồi tụ của hệ thống sông Cửu Long tạo nên ĐBSCL màu mỡ thích hợp cho cây ngập mặn sinh trưởng và phát triển, tiếp đến là khu vực ven biển Bắc Bộ với 43.881ha chiếm 33,94% ở nơi này có ĐBSH được bồi tụ bởi Sông Hồng nhưng do ở Miền Bắc có biên độ dao động nhiệt lớn và chịu ảnh hưởng của những đợt gió mùa Đông Bắc hằng năm nên số lượng các loài cây ngập mặn ở đây thường ít và kích thước các loài cây ngập mặn thường nhỏ hơn vùng Ven Biển Nam Bộ và Ven Biển Trung Bộ.
Còn khu vực Ven biển Trung Bộ có số lượng loài ít, hằng năm phải chịu ảnh hưởng của những cơn bão và ở khu vực này không có dảo che chắn nên chịu các yếu tố ảnh hưởng của tự nhiên là chế độ thủy triều, dòng Hải Lưu, chế độ gió…
Tuy nhiên miền trung số lượng loài cây ngập mặn ít hơn chiếm 7,2 %, do miền trung có đới bờ biển hẹp và dài thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai xảy ra thường xuyên hằng năm nên có ảnh hưởng rất lớn của quá trình sinh trưởng và phát triển của RNM.
Nhìn chung nước ta có diện tích RNM tương đối lớn, số lượng các loài cây ngập mặn phong phú. Tuy nhiên diện tích rừng ngập mặn đang dần bị thu hẹp về diện tích vì vậy cần có biện pháp chiến lược cụ thể để nâng cao vai trò bảo vệ của rừng ngập mặn như hiện nay.
1.7. Vai trò của RNM
RNM có vai trò quan trọng đối với môi trường biển và có liên quan mật thiết đối với đời sống của người dân vùng biển, do vậy bảo vệ RNM cũng chính là duy trì tài nguyên đa dạng sinh học và bảo vệ cuộc sống của người dân vùng biển. Tuy nhiên hiện nay tầm quan trọng của RNM đang bị giảm sút một cách nghiêm trọng do con người chưa nhận thấy tầm quan trọng của nó mà khai thác một cách triệt để. Vì vậy bảo vệ RNM là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
1.7.1. Vai trò của RNM đối với tự nhiên
1.7.1.1. Vai trò của RNM chống lại xói mòn, sạt lở
Xói mòn đất luôn là vấn đề nghiêm trọng của mỗi quốc gia, ở những vùng đầu nguồn, đất dốc, đặc biệt là vùng đới bờ ven biển nơi thường xuyên chịu sự tác động mạnh mẽ của triều cường, gió, bão hằng năm. Xói mòn đất (xói mòn bề mặt và xói mòn rãnh) thường liên quan chặt chẽ với độ dốc, thảm phủ, đặc điểm địa chất và lượng mưa.[7]
Theo những nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học trong các khu rừng ngập mặn cao, tốc độ của sóng giảm trên 100m khoảng 20% chiều cao của cột sóng (Mazda và cộng sự, l997.). Một nghiên cứu khác rừng ngập mặn đã chứng minh rằng hình thức “seawalls "(bức tường), rất hiệu quả so với đê biển bê tông và các cấu trúc vững chắc cho bảo vệ xói mòn bờ biển (Harada et al, 2002).
Những những nhận định khác của nhóm khảo sát của Phan Nguyên Hồng, độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM, với mức biến đổi từ 75% đến 85%, từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m.
Rừng ngập mặn không chỉ đóng vai trò chắn sóng nhiễm mặn mà còn tạo ra hệ sinh thái đa dạng cho các loài cua cá, ong, khỉ, chim cùng chung sống. Bên cạnh đó RNM đóng vai trò phòng hộ, cản sóng biển để tránh xói mòn đất liền và là lá phổi lọc khí cho đô thị lớn như Tp HCM.
Vì vậy, bảo vệ rừng ngập mặn chống lại quá trình xói mòn và xạc lở là ngăn cản quá trình bào mòn và thu hẹp diện tích đất rừng, duy trì mức độ đa dạng sinh học như hiện nay.
1.7.1.2. Vai trò đối với tài nguyên thiên nhiên
Không những RNM có vai trò rất quan trọng đối với con người mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường tự nhiên. Bản thân cây ngập mặn đã là một trong các dạng tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái tạo, song kéo theo nó là sự quần tụ của bao loài sinh vật khác, từ các loài động vật không kích thước nhỏ đến những loài động vật có xương sống kích thước lớn, từ những loài sống trong nước đến những sinh vật sống trên cạn. Điều đó nói lên rằng, RNM không chỉ là nơi cư trú mà còn là nơi cung cấp dinh dưỡng, hổ trợ cho sự tồn tại và phát triển phong phú của các quần thể sinh vật cửa sông ven biển đồng thời còn là nơi “ương ấp” những cơ thể non của các loài sinh vật biển, nơi duy trì đa dạng sinh học cho biển [8].
1.7.1.3. Vai trò bảo tồn đa dạng sinh học cho biển ven bờ
Hệ sinh thái RNM chứa đựng mức đa dạng sinh học rất cao, chẳng kém gì mức đa dạng của hệ sinh thái san hô trong đới biển ven bờ. Dể dàng nhận biết rằng, nơi ở trong RNM phân hóa rất mạnh: trên không, mặt đất, trong nước với các dạng đáy cứng, đáy mềm, hang trong đất, những không gian chật hẹp trong bụi cây, bộ rễ, điều kiện sống nhất là độ muối lại biến động thường xuyên, phù hợp với hoạt động có nhịp điệu của dòng nước ngọt và của thủy triều. Sinh vật sống trong RNM không những có số lượng loài đông mà trong nội bộ mỗi loài có những biến dị phong phú để thích nghi với những nơi ở khác nhau, nguồn sống khác nhau và điều kiện sống biến đổi muôn màu. Bởi vậy mà RNM là nơi lưu trữ nguồn gen giàu có và giá trị không chỉ cho các hệ sinh thái trên cạn mà cho cả vùng biển ven bờ. Riêng các RNM ở Châu Á bước đầu đã thống kê được 1918 loài sinh vật, trong đó vi khuẩn, tảo 100 loài, thực vật 200 loài, động vật không xương sống ở nước 491 loài, côn trùng và nhện 500 loài, động vật có xương sống 520 loài.
Những nhóm động vật có nhiều loài được kể đến là tảo (65 loài), thực vật hai lá mầm (110 loài), giáp sát (229 loài), thân mềm (211 loài), chim (117 loài) và đông nhất là con trùng và nhện (500 loài). Ếch nhái, da gai kém đa dạng nhất, chúng chỉ có 1-2 loài (IUCN, 1983).
Ở nước ta, ngoài thảm thực vật ngập mặn được kiểm kê tương đối kỹ, còn các nhóm sinh vật khác ít được khảo sát có hệ thống. Những số liệu nêu ra đây là kết quả của những nghiên cứu riêng lẻ ở những vùng khác nhau, song là những tài liêu tham khảo tốt, phản ánh mức độ đa dạng về loài của các nhóm sinh vật chính
RNM là nguồn thức ăn đầu tiên, phong phú và đa dạng cung cấp cho các loài hải sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt, hoặc còn gọi là mùn bã hữu cơ, đó là sản phẩm của quá trình phân hủy xác thực vật, bao gồm: lá, cành, chồi, rễ… của các cây ngập mặn. Quanh năm lá rơi xuống kênh rạch và trên sàn rừng, rồi lại được nước triều mang đi, quá trình phân hủy cũng diễn ra liên tục, kể cả mùa khô, mùa mưa.
Không những RNM là nguồn cung cấp thức ăn mà còn là nơi cư trú, nuôi dưỡng con non của nhiều loài thủy sản có giá trị, đặc biệt là các loài tôm sú, tôm biển xuất khẩu. Trong vòng đời của một số lớn các loài cá, tôm, cua… Có một hoặc nhiều giai đoạn bắt buộc phải sống trong các vùng nước nông, cửa sông có RNM
Ai cũng biết vai trò của RNM trong việc bảo vệ môi trường và nguồn lợi kinh tế cho con người nhưng nếu chúng ta xem đây là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của chương trình môi trường liên hợp quốc mà còn là nhiệm vụ của tất cả những cư dân sinh sống gần rừng ngập mặn thì vai trò của RNM không chỉ dùng lại ở đó.
RNM là môi trường đa dạng và phong phú bao gồm nhiều thành phần dinh dưỡng được hình thành trong quá trình phân hủy lâu dài xác thực vật, bao gồm: lá, cành, chồi, rễ… của các cây ngập mặn, cung cấp cho các loài hải sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt, hoặc còn gọi là mùn bã hữu cơ [1]
Với môi trường không khí RNM còn được ví như một nhà máy lọc sinh học khổng lồ, nó không chỉ hấp thụ khí CO2 do hoạt động công nghiệp và sinh hoạt thải ra, mà còn sinh ra một lượng O2 rất lớn, làm cho bầu không khí trong lành. Với môi trường đất RNM sẽ giữ lại phù sa và hình thành nên các vùng đất mới, ngoài ra RNM còn tham gia vào quá trình mở rộng diện tích đất và giữ đất không bị cuốn đi, đặc biệt là bảo vệ đới bờ cửa sông, hạn chế xói lỡ và tác hại của bão đối với hệ thống đê biển, hạn chế quá trình xâm thực bờ biển.
Đối với m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nghiên cứu thực trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam và đề xuất giải pháp quản lý.doc