Đề tài Nghiên cứu thực trạng và giải pháp thúc đẩy hiệu quả việc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Lời Mở Đầu 1

Chương I: Tổng Quan Về Hoạt Động Phát Hành Trái Phiếu Quốc Tế 3

1.Trái phiếu quốc tế và thị trường trái phiếu quốc tế 3

1.1 Trái phiếu quốc tế 3

1.1.1.Khái niệm: 3

1.1.2 Phân loại 3

1.2 Thị trường trái phiếu quốc tế 5

1.2.1 Thị trường trái phiếu Châu Âu 5

1.2.2 Thị trường trái phiếu Châu Á( thị trường trái phiếu con Rồng) 7

1.2.3 Thị trường trái phiếu Mỹ 7

2. Phát hành trái phiếu quốc tế trên thị trường trái phiếu quốc tế 10

2.1 Những người tham dự vào quá trình phát hành trái phiếu quốc tế 10

2.1.5 Đại lý niêm yết 12

2.1.6 Đại lý tài chính và thanh toán 12

2.2 Nội dung chủ yếu các giai đoạn của quá trình phát hành 12

2.2.1Giai đoạn chuẩn bị 12

2.2.2 Giai đoạn phát hành và kết thúc phát hành 16

3.Ưu thế và hạn chế của hình thức phát hành trái phiếu quốc tê 16

3.1 Ưu thế 16

3.2 Hạn chế 18

4.Cơ hội và thách thức của việc phát hành trái phiếu quốc tế 18

4.1Cơ hội 18

4.2 Thách thức 19

5.Kinh nghiệm và bài học đvới Việt Nam 20

Chương 2: Thực trạng việc phát hành trái phiếu quốc tế của Doanh nghiệp Việt Nam 23

 

1 Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam 23

1.1 Thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam 25

1.2 Những thuận lợi để phát hành trái phiếu quốc tế: 30

2 Điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế 33

3. Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện và quản lý việc phát hành trái phiếu 34

4. Thủ tục pháp lý của việc phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt Nam 36

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam 39

1.Định hướng: 39

2.Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế 40

2.1 Giải pháp cải thiện thị trường trái phiếu Việt Nam 40

2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế 47

2.2.1.Cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia: 47

2.2.2.Lựa chọn đối tác bảo lãnh phát hành: 49

2.2.3. Phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế: 49

2.2.4.Chuẩn bị các tài liệu có liên quan đến việc phát hành trái phiếu: 49

Kết Luận 52

Tài liệu tham khảo 54

 

doc74 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu thực trạng và giải pháp thúc đẩy hiệu quả việc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lập được hệ thống các nhà tạo lập thị trường; các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhiều định chế tài chính trung gian như các quỹ đầu tư tương hỗ, quỹ đầu tư mạo hiểm, công ty định mức tín nhiệm... chưa được thành lập. Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và có rất nhiều nguyên nhân khiến các nhà đầu tư ít quan tâm đến loại chứng khoán này. Lý do là giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức. Thứ ba: Tính đồng bộ của thị trường này còn thấp Khả năng tập trung và phân bổ nguồn lực tài chính qua thị trường chưa thực sự hiệu quả, còn có sự chưa ăn khớp giữa cơ cấu và kỳ hạn huy động vốn với sử dụng vốn. Sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; vai trò của trái phiếu Chính phủ trong việc định hướng lãi suất thị trường còn hạn chế. tỷ lệ huy động vốn dài hạn qua kênh tín dụng ngân hàng hiện nay thấp. Trong khi đó, việc sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn, làm giảm hiệu quả sử dụng và tăng nguy cơ rủi ro tài chính; việc phối hợp điều hành lãi suất giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chưa thật ăn khớp, tiến trình cải cách hệ thống tổ chức tín dụng còn chậm; việc kiểm soát các dòng vốn trong nền kinh tế chưa thực sự có hiệu quả, vẫn còn tình trạng vốn dài hạn chuyển sang đầu tư ngắn hạn và ngược lại. Thứ tư:  Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh : Khung pháp luật mới được hình thành bước đầu; một số lĩnh vực vẫn chưa có hệ thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh, nhất là lĩnh vực chứng khoán. Các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm  toán... tuy đã được áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. Thứ năm:  Tính cạnh tranh thấp : Trái phiếu Chính phủ chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Cơ chế xác định lãi suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi suất chỉ đạo nên chưa thu hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Thứ sáu:  Từ phía các công ty, chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu : Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp Nhà nước do có khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn vị này cũng thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường cong lợi suất phi rủi ro cho trái phiếu Chính phủ phát hành làm tiêu chuẩn cho việc định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị... Thứ bảy: Thông tin thị trường : Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân quan trọng khiến thị trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính là việc thiếu một hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn chưa có những công ty định mức tín nhiệm. Hiện nay, trên thị trường đang có 3 loại trái phiếu và được phát hành bởi Chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy mô phát triển của thị trường này còn nhỏ bé (chỉ chiếm 7% GDP). Bên cạnh những vướng mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến tính thanh khoản của trái phiếu không được cao, lượng doanh nghiệp có uy tín tham gia phát hành... thì việc thiếu thông tin cũng khiến cho các nhà đầu tư "dè dặt" hơn trong việc đầu tư vào loại hình này. Thứ tám: Phí giao dịch cao : Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu Chính phủ  phải thông qua các Công ty chứng khoán - là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn người bán. Để một giao dịch trái phiếu Chính phủ 100 tỉ đồng được hoàn tất  thì nhà đầu tư  phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thông thường những giao dịch mua bán trái phiếu Chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100-300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ của Việt Nam không thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các ngân hàng nước ngoài Nhiều chuyên gia cho rằng, trước khi Việt Nam muốn phát hành trái phiếu quốc tế thành công thì các cơ quan quản lý cần phải phát triển thị trường trái phiếu trong nước. Với thị trường này, nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể tham gia giao dịch trái phiếu. 2.1.2 Những thuận lợi để phát hành trái phiếu quốc tế: Hệ số tín nhiệm của Việt Nam tăng lên sẽ tác động vào lãi suất của mình một cách tích cực. Tỷ lệ nợ/GDP của Việt Nam vẫn ổn định. Tỷ lệ nợ quốc gia đối với nước ngoài chỉ là 31% GDP và nếu có thêm các khoản nợ tiếp theo thì mức độ vẫn ở mức an toàn và dưới mức 50%... Sự đón nhận nhiệt tình đến bất ngờ đó được nhận định là do nhiều nguyên nhân từ chính Việt Nam. Thứ nhất, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam. UNDP còn coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Về cơ bản, kinh tế của Việt Nam đã được công nhận là đổi mới: Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; Chuyển một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế và có hiệu quả... Thứ hai, các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm. Thứ ba, việc các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế như gần đây liên tiếp nâng mức xếp hạng của Việt Nam cũng là một nguyên nhân quan trọng. S&P tuần vừa rồi đã nâng mức tín nhiệm của Việt Nam từ BB- lên BB. Moody cũng nâng lên mức Ba3 trong khi một tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế nổi tiếng khác là Fitch cũng xếp Việt Nam hạng BB-. Về doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế: Tổng công ty Điện lực Việt Nam và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng có dự kiến phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, khi mà họ đã sẵn sàng tất cả các điều kiện để ra thị trường một cách tự tin. Có thể nói, năm 2007, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá khả quan, bất chấp thị trường tài chính Việt Nam biến động, với quy mô tăng từ 11% GDP năm 2006 lên 13% GDP cuối 2007. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể, khối này đã mua 50% khối lượng trái phiếu phát hành. Mặc dù tính thanh khoản của thị trườg trái phiếu Việt Nam vẫn bị hạn chế do tồn tại quá nhiều loại nhưng tới năm 2008, khả năng phát triển của thị trường này vẫn được đánh giá là khá lớn. Đây sẽ là động lực cơ bản cho sự thành công của các kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế . Mặc dù nhận thức rõ các lợi ích có thể đem lại từ phát hành trái phiếu quốc tế, song hiện nay, việc phát hành loại trái phiếu này đang gặp phải rất nhiều khó khăn trước mắt. Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị hoãn lại, và vẫn chưa có doanh nghiệp nào tiếp tục thực hiện được hoạt động này. Sự thận trọng có lẽ bắt nguồn từ bối cảnh kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn, thị trường tài chính quốc tế tạm rơi vào tình trạng trầm lắng khiến các nhà đầu tư Mỹ cũng như các nước khác có phần dè dặt hơn trong việc tham gia đầu tư vào trái phiếu của các quốc gia khác. Về phía bản thân các chủ thể trong nước, rõ ràng, để phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế thì hiện tại doanh nghiệp vẫn đang gặp các trở ngại nhất định về định giá hệ số tín nhiệm, về năng lực tài chính, về khâu kiểm toán... Điều quan trọng nhất lúc này là các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị tất cả các điều kiện phát hành và chờ đến khi thị trường phục hồi trở lại sẽ chớp lấy thời cơ. doanh nghiệp Việt Nam phải xác định được nhà đầu tư vào trái phiếu là ai để công bố công khai kế hoạch phát hành, mục đích huy động vốn, tình hình hoạt động... một cách minh bạch. Đây là điều kiện tối cần thiết để đẩy nhanh tiến trình thâm nhập thị trường vốn quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó tạo tiền lệ mở đường cho phát hành cổ phiếu và niêm yết quốc tế. 2.2 Điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế Mỗi đợt phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp phải có trị giá tương đương không dưới 200 triệu USD. Đây là một trong những điều kiện mà các doanh nghiệp phải đảm bảo khi thực hiện kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, theo dự thảo nghị định về phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ. Dự thảo này hiện đang nhận ý kiến đóng góp từ các doanh nghiệp, dự kiến sẽ được Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành trong năm 2008. Một nội dung nổi bật của dự thảo là đưa ra các điều kiện và nguyên tắc, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động huy động vốn này; trong đó có các quy định đối với trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp. Có 4 nguyên tắc phát hành được xác định tại dự thảo. Trong đó, việc phát hành trái phiếu quốc tế được xác định là một hình thức vay thương mại trên thị trường vốn quốc tế, nên chỉ phát hành để huy động vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm của quốc gia, các dự án đầu tư có hiệu quả, có khả năng trả nợ và phát hành để cơ cấu lại danh mục nợ chính phủ. Việc phát hành cũng chỉ thực hiện khi điều kiện thị trường quốc tế thuận lợi, đảm bảo thành công với chi phí hợp lý. Các doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế phải theo nguyên tắc tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn huy động được từ phát hành. Việc phát hành phải tuân thủ các quy định về quản lý nợ nước ngoài, quản lý ngoại hối theo pháp luật hiện hành và phù hợp với luật pháp quốc tế. Điều kiện phát hành quy định trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia được phê duyệt hàng năm, được Bộ Tài chính xác nhận bằng văn bản trước khi phát hành. Đối tượng tiếp nhận vốn phải là các chương trình, dự án được xác định là trọng điểm quốc gia hoặc các dự án đầu tư có hiệu quả cao, đã hoàn chỉnh các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành. Người phát hành phải đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành; phải có đề án phát hành trái phiếu được các cấp có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt; đã hoàn chỉnh toàn bộ hồ sơ pháp lý cho việc phát hành theo đúng thông lệ quốc tế và luật pháp Việt Nam. Trường hợp các doanh nghiệp có nhu cầu cấp bách về vốn để thực hiện các dự án đầu tư của nhà nước nhưng chưa đủ điều kiện để tự phát hành, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường vốn quốc tế có sự bảo lãnh Chính phủ. Nhưng để có sự bảo lãnh của Chính phủ, ngoài yêu cầu đáp ứng các điều kiện trên, doanh nghiệp đó phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc thấp hơn một bậc so với hệ số tín nhiệm của quốc gia, phải tuân thủ các quy định của Quy chế cấp và quản lý bảo lãnh hiện hành của Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài. Ngoài ra, với riêng trường hợp doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế, dự thảo đưa ra các điều kiện khác phải đảm bảo như phải được thành lập theo luật pháp Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; phải đảm bảo các điều kiện chung trên, riêng đối với các doanh nghiệp nhà nước, nếu phát hành trái phiếu quốc tế không có bảo lãnh Chính phủ thì doanh nghiệp phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc cao hơn hệ số tín nhiệm quốc gia 2.3. Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện và quản lý việc phát hành trái phiếu Dự thảo cũng quy định một chương về trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong việc thực hiện và quản lý việc phát hành trái phiếu quốc tế. Bộ Tài chính có trách nhiệm chủ trì xây dựng đề án phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế, lập kế hoạch sử dụng nguồn vốn phát hành trình Chính phủ quyết định. Ngoài ra, Bộ Tài chính phải chủ trì phối hợp với cơ quan liên quan làm việc với các cơ quan xếp hạng hệ số tín nhiệm quốc gia; lựa chọn và ký kết các hợp đồng với các đối tác nước ngoài có liên quan đến việc phát hành trái phiếu chính phủ; hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý cho việc phát hành, chủ trì tổ chức việc phát hành theo thông lệ quốc tế và thực hiện cho vay lại nguồn vốn từ phát hành trái phiếu quốc tế; lựa chọn cơ quan cho vay lại và thực hiện cho vay lại nguồn vốn trái phiếu quốc tế theo Quy chế cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ hiện hành; giám sát việc sử dụng đúng mục đính, có hiệu quả vốn vay từ phát hành trái phiếu chính phủ, thực hiện thu hồi vốn từ người vay lại nguồn vốn này. Đồng thời, bộ này còn phải bố trí kế hoạch và thực hiện thanh toán nợ trái phiếu quốc tế đúng hạn, cả gốc, lãi và các khoản chi phí có liên quan, dự thảo và xây dựng văn bản pháp luật, pháp quy về phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế... Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính trong việc lập và thẩm định đề án phát hành trái phiếu chính phủ; phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan cung cấp số liệu, tài liệu để kiểm chứng khi xây dựng bản cáo bạch trong quá trình chuẩn bị phát hành trái phiếu chính phủ; cung cấp cho Bộ Tài chính các số liệu liên quan đến lĩnh vực quản lý và làm việc với các cơ quan xếp hạng hệ số tín nhiệm; phối hợp với Bộ Tài chính trong việc đánh giá các chỉ số nợ quốc gia liên quan đến việc phát hành trái phiếu quốc tế; tổ chức đăng ký khoản vay của các doanh nghiệp phát hành theo phương thức tự vay tự trả... Trong phần quy định về chế độ hạch toán, kiểm tra, giám sát và chế độ báo cáo, chương V dự thảo xác định rõ đối với trái phiếu chính phủ, việc hạch toán khoản tiền bán trái phiếu chính phủ được thực hiện theo từng mục đích phát hành (để cơ cấu lại các khoản nợ của Chính phủ hoặc cho vay lại). Còn đối với các doanh nghiệp có khoản vay lại trái phiếu quốc tế của Chính phủ và các doanh nghiệp phát hành, phải thực hiện chế độ kế toán, quyết toán vốn đầu tư theo quy định hiện hành (điều 32). Đối với chế độ báo cáo, dự thảo cũng quy định, định kỳ hàng quí, hàng năm doanh nghiệp phát hành trái phiếu có bảo lãnh chính phủ hoặc vay lại nguồn trái phiếu quốc tế của Chính phủ có trách nhiệm báo cáo tình hình bố trí, sử dụng vốn trái phiếu và trả nợ gửi cho Bộ Tài chính vào ngày cuối cùng của tháng đầu quí tiếp theo đối với báo cáo quí; và trước ngày 31-1 của năm tiếp theo đối với báo cáo năm. Các doanh nghiệp phát hành không có bảo lãnh chính phủ báo cáo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và theo yêu cầu của Bộ Tài chính (điều 33). Việc kiểm tra, giám sát khoản vay cũng đã được đặt ra đối với việc cho vay lại nguồn trái phiếu quốc tế của Chính phủ, hoặc Chính phủ cấp bảo lãnh nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng mục đích, thu hồi và thanh toán trái phiếu quốc tế theo đúng quy định (điều 34). Đối với hoạt động kiểm toán, điều 35 Dự thảo quy định kết thúc năm tài chính, các doanh nghiệp phát hành được bảo lãnh chính phủ hoặc vay lại nguồn vốn trái phiếu quốc tế của Chính phủ lựa chọn công ty kiểm toán để thực hiện kiểm toán toàn bộ các báo cáo tài chính năm về việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế và gửi cho Bộ Tài chính chậm nhất là 15 ngày sau khi có biên bản kiểm toán... 2.4. Thủ tục pháp lý của việc phát hành trái phiếu quốc tế ở Việt Nam Vừa qua, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo Nghị định về phát hành trái phiếu quốc tế với 6 chương, 37 điều và đang tập hợp ý kiến đóng góp để trình Chính phủ Trong dự thảo, chương về các quy định chung xác định phạm vi điều chỉnh và điều kiện để phát hành trái phiếu quốc tế. Trước đây, Nghị định 23/CP giới hạn tổ chức phát hành chỉ là Chính phủ, ngân hàng thương mại nhà nước, doanh nghiệp nhà nước thì dự thảo nghị định này xác định rõ tổ chức được phát hành là Chính phủ và doanh nghiệp đủ các điều kiện, tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục phát hành (điều 1, 3, 4, 5, 6, 7). So với Nghị định 23/CP, điều 2, dự thảo lần này đã đưa phần giải thích từ ngữ được diễn giải chi tiết, phù hợp với thị trường vốn quốc tế và mang tính chất nghiệp vụ như bản cáo bạch, thỏa thuận đại lý (đại lý in ấn, niêm yết, tài chính và thanh toán, chuyển nhượng, ủy thác, hệ thống xác nhận chuyển nhượng và lưu ký), công ty đánh giá hệ số tín nhiệm, cơ quan cho vay lại, doanh nghiệp, điểm chuẩn, đường cong lãi suất chuẩn, hình thức phát hành (phát hành riêng lẻ, phát hành ra công chúng, phát hành toàn cầu, phát hành riêng từng quốc gia, khu vực, theo đồng tiền), hệ số tín nhiệm, hợp đồng bảo lãnh phát hành, hợp đồng mua bán trái phiếu, lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực của trái phiếu. Tại điều 8, dự thảo cũng đưa ra các nguyên tắc cấp bảo lãnh của Chính phủ cho trái phiếu doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu cấp bách về vốn để thực hiện các dự án đầu tư của Nhà nước nhưng chưa đủ điều kiện để tự phát hành. Trong các chương quy định cụ thể, dự thảo quy định mục tiêu phát hành trái phiếu chính phủ (điều 9) là huy động vốn cho đầu tư phát triển theo hình thức cho vay lại để thực hiện các công trình trọng điểm của Nhà nước, các dự án đầu tư có hiệu quả cao, có nhu cầu sử dụng vốn bằng ngoại tệ, và huy động nguồn vốn để thực hiện việc cơ cấu lại danh mục nợ do Chính phủ quản lý. Đối với doanh nghiệp là huy động cho các dự án đầu tư phát triển được mô tả trong các đề án phát hành trái phiếu quốc tế. Về mức huy động, dự thảo đưa ra mức huy động một lần không dưới 500 triệu đô la Mỹ đối với Chính phủ (điều 10) và không dưới 200 triệu đô la Mỹ đối với doanh nghiệp (điều 17). Trong các phần này cũng quy định cụ thể điều kiện phát hành trái phiếu chính phủ là: (i) trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia; (ii) các chương trình, dự án được xác định là trọng điểm quốc gia hoặc các dự án đầu tư có hiệu quả cao, đã hoàn chỉnh các thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật hiện hành; (iii) hệ số tín nhiệm đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế; (iii) có đề án phát hành trái phiếu được thẩm định và phê duyệt; (iv) hồ sơ pháp lý theo đúng thông lệ quốc tế và luật pháp Việt Nam. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, phải tuân thủ các điều kiện: (i) thành lập theo luật pháp Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; (ii) ngoài việc đáp ứng các điều kiện chung nêu tại điều 6, chương I của nghị định này, các doanh nghiệp nhà nước, nếu phát hành trái phiếu quốc tế không có bảo lãnh chính phủ thì doanh nghiệp phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc cao hơn hệ số tín nhiệm quốc gia. Trường hợp có bảo lãnh chính phủ, hệ số tín nhiệm doanh nghiệp bằng hoặc thấp hơn một bậc so với hệ số tín nhiệm của quốc gia và tuân thủ các quy định của Quy chế cấp và quản lý bảo lãnh hiện hành của Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài. Chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành trái phiếu quốc tế ra thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam Định hướng: Quan điểm của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp Xu hướng là Chính phủ vẫn là khuyến khích doanh nghiệp tự đứng ra phát hành, vấn đề là bản thân doanh nghiệp phải tự chuẩn bị để đáp ứng được những yêu cầu đề ra cho việc phát hành hay không. Và khi họ đáp ứng được những điều kiện đó cũng như có thể đi vay được như Chính phủ thì đó là mong muốn nhất. Mong muốn của Bộ Tài chính, Chính phủ là để cho các DN tự phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Nhưng hiện nay, các DN VN vẫn chưa kịp chuẩn bị, chưa đủ các điều kiện để tự phát hành. Với bối cảnh đó, nếu chúng ta phát hành bây giờ thì chỉ có hai phương thức: Chính phủ vay về và cho vay lại hoặc DN phát hành dưới sự bảo lãnh của Chính phủ.     Hiện nay, mức nợ của Việt Nam vào khoảng 31-32% GDP, trong khi đó, tiêu chí đánh giá của World Bank là ngưỡng 50% GDP mới ở mức nguy hiểm. Chính sách vay nợ của chúng ta từ trước đến nay vẫn rất thận trọng, nhất là trong Nghị định 134 vừa qua của Chính phủ đã quy định: Khi đi vay thì tiêu chí hiệu quả là đầu tiên, không vay thương mại đối với những dự án không có khả năng hoàn trả trực tiếp, không vay ngắn hạn cho những mục tiêu dài hạn, công tác thẩm định đối với các dự án đi vay cũng được làm chặt chẽ.     Thông qua đợt phát hành trái phiếu 750 triệu USD với mức lãi suất 7,125% ra thị trường quốc tế của chúng ta vừa qua có thể khẳng định đây là một hình thức vay vốn rất tốt. Theo đánh giá của các nhà đầu tư quốc tế, VN phát hành trái phiếu đợt 1 rất thành công cả về lãi suất, chất lượng nhà đầu tư. Điều đó có thể khẳng định uy tín của nền tài chính VN. Vào thời điểm hiện tại các nhà đầu tư cũng đang rất quan tâm đến VN. Đây là thời điểm rất thuận lợi để VN phát hành trái phiếu quốc tế. DN muốn phát hành trái phiếu quốc tế trước tiên phải có hệ thống tài chính DN ổn định. Đặc biệt, DN phải kiểm toán vì đây là một yêu cầu rất quan trọng khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, yêu cầu về minh bạch hoá thông tin đối với thị trường. Tiếp theo là kế hoạch cụ thể DN sử dụng nguồn vốn vào mục đích gì? Lịch giải ngân ra sao? DN thực sự có nhu cầu sử dụng ngoại tệ không? Thứ ba là các DN phải thực hiện đánh giá về hệ số tín nhiệm. Cuối cùng là DN có kế hoạch trả nợ chi tiết.     Nhìn chung nhu cầu về vốn của các DN VN vào thị trường quốc tế như "nắng hạn mong mưa rào". Tuy nhiên, DN cũng nên lưu ý nếu được tiếp cận nguồn vốn trái phiếu quốc tế sẽ rất có thể bị "bội thực". Với một lượng tiền lớn về một lúc, DN cần một cơ chế rất linh hoạt trong sử dụng quản lý vốn sao cho hiệu quả nhất. DN nên có một DN hay tổ chức tài chính để quản lý nguồn vốn của mình. Như trường hợp của Vinashin, DN này đã có riêng một Cty để quản lý tài chính khi được vay 750 triệu USD, sử dụng rất nhiều dịch vụ, hoán đổi ngoại tệ... 3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế 3.2.1 Giải pháp cải thiện thị trường trái phiếu Việt Nam Thị trường trái phiếu của Việt Nam cần phát triển theo hướng thị trường hóa với sự đa dạng hóa các chủ thể tham gia và hàng hóa giao dịch để tạo nền tảng cho phát triển lâu dài của thị trường vốn nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng. 3.2.1.1 Giải pháp ngắn hạn Thứ nhất:  Cần cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt trái phiếu Bộ Tài chính và Ngân hàng nước (NHNN) cần phải cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Cần có những biện pháp và hệ thống đánh giá chuẩn hơn để xác định lãi suất phát hành hợp lý, qua đó giảm gánh nặng nợ vay. Tăng khối lượng phát hành thay vì phát hành nhiều đợt với số lượng nhỏ nhằm giảm chi phí phát hành và thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư có tổ chức tham gia. Thể chế pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô cần được cải thiện hơn nữa nhằm nâng mức xếp hạng, đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn đầu tư của các nguồn quỹ lớn trên thế giới. Bộ Tài chính nên tiến hành ban hành mẫu Bản cáo bạch chung cho các công ty muốn phát hành trái phiếu và công bố thông tin về kế hoạch ngân sách trung hạn của chính quyền địa phương. Thứ hai:Thành lập sàn giao dịch trái phiếu Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nên tham khảo ý kiến của các nhà làm luật và các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán để thành lập một sàn giao  dịch trái phiếu giữa các nhà môi giới. Sàn giao dịch trái phiếu này phải tạo được môi trường giao dịch có hiệu quả cho các nhà tạo lập thị trường, vì trái phiếu không thể áp dụng một phương thức giao dịch giống như giao dịch cổ phiếu. Đồng thời, phải hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp phát hành. Bên cạnh đó, thủ tục chuyển nhượng cũng phải đơn giản, nhanh chóng. Đối với trung tâm lưu ký chứng khoán, cần nâng cao năng lực của các trung tâm này hoặc góp phần phát triển một trung tâm lưu ký chung trong khu vực, tạo điều kiện giao dịch thuận tiện và dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư. Thứ ba: Chính sách đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5938.doc
Tài liệu liên quan