- Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra về tính bất hợp lý trên bình diện cấu trúc của khu vực euro khi cố gắng kết hợp nhiều nền kinh tế chênh lệch về lượng, và khác nhau về chất thành một khối. Theo Hiệp ước Maastricht quy định điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1621 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tình hình biến động của Euro và những ảnh hưởng của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2002
Pound Ireland
IEP
&0000000000000000.7875640,787564
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Lira Ý
ITL
&Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràngLỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng.Lỗi biểu thức: Dấu phân cách “,” không rõ ràng1.936,27
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Franc Luxembourg
LUF
&0000000000000040.33990040,3399
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Escudo Bồ Đào Nha
PTE
&0000000000000200.482000200,482
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Peseta Tây Ban Nha
ESP
&0000000000000166.386000166,386
01998-12-31 31 tháng 12 năm 1998
2002
Drachma Hy Lạp
GRD
&0000000000000340.750000340,750
02000-06-19 19 tháng 6 năm 2000
2002
Tolar Slovenia
SIT
&0000000000000239.640000239,640
02006-07-11 11 tháng 7 năm 2006
2007
Pound Síp
CYP
&0000000000000000.5852740,585274
02007-07-10 10 tháng 7 năm 2007
2008
lira Malta
MTL
&0000000000000000.4293000,429300
02007-07-10 10 tháng 7 năm 2007
2008
Koruna Slovak
SKK
&0000000000000030.12600030,1260
02008-07-08 8 tháng 7 năm 2008
2009
Tỷ giá của đồng USD so với đồng EURO
Biểu đồ biểu thị tỷ giá EUR/USD (1999 – 2008)
USD/EUR1999–2010
Năm
Thấp nhất ↓
Cao nhất ↑
Ngày
Tỷ giá
Ngày
Tỷ giá
1999
03/12
$1.0015
05/01
$1.1790
2000
26/10
$0.8252
06/01
$1.0388
2001
06/07
$0.8384
05/01
$0.9545
2002
28/01
$0.8578
31/12
$1.0487
2003
08/01
$1.0377
31/12
$1.2630
2004
14/05
$1.1802
28/12
$1.3633
2005
15/11
$1.1667
03/01
$1.3507
2006
02/01
$1.1826
05/12
$1.3331
2007
12/01
$1.2893
27/11
$1.4874
2008
27/10
$1.2460
15/07
$1.5990
2009
04/03
$1.2555
03/12
$1.5120
2010
05/05
$1.2924
13/01
$1.4563
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
Có nhiều ý kiến khác nhau về tầm quan trọng kinh tế của một đồng Euro mạnh. Một mặt các nguyên liệu đa phần vẫn tiếp tục được mua bán bằng đồng Đô la Mỹ, vì thế mà một đồng Euro mạnh có tác dụng làm giảm giá các nguyên liệu. Mặt khác, giá đồng Euro cao sẽ làm cho xuất khẩu từ vùng Euro trở nên đắt và vì thế một đồng Euro có giá cao sẽ làm cho tăng trưởng kinh tế yếu đi trong một chừng mực nhất định. Vì vùng Euro rộng lớn nên tỷ giá hối đoái và các rủi ro về tỷ giá hối đoái do các tiền tệ dao động gây nên không còn có tầm quan trọng như trong thời kỳ còn các tiền tệ quốc gia nữa.
Giai đoạn từ năm 1999 – 2002
Nhìn vào biểu đồ trên, ta nhận thấy:
+ Từ khi đồng EURO được đưa vào lưu thông năm 1999, đến năm 2000, đồng EURO xuống giá, cho đến năm 2002, tăng nhẹ, nhưng vẫn được xem là ở mức giá thấp (1 EUR chỉ đổi được 0.85 USD)
+ Việc đồng Euro liên tục bị xuống giá cho đến năm 2002 có thể là do đồng Euro không tồn tại trên thực tế như là tiền mặt, vì thế mà trong thời gian đầu đồng Euro đã bị đánh giá thấp hơn giá trị thực dựa trên những số liệu cơ bản. Các vấn đề về kinh tế trong Cộng đồng châu Âu đã đẩy mạnh thêm xu hướng này và làm cho việc đầu tư trong châu Âu không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nữa. Thật ra thì các triển vọng về kinh tế của châu Âu đã không tốt đẹp hơn từ thời điểm đó. Nhưng ngay sau khi tiền mặt được đưa vào lưu hành, thì đồng Euro bắt đầu được đánh giá cao hơn.
àNguyên nhân của việc đồng EURO xuống giá so với đồng USD năm 2002:
Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.
Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
Giai đoạn 2003 – 2004
Năm 2003, giá đồng EURO đã được vực dậy một cách đáng kể, tăng 20% so với USD. Lúc này, 1 EUR đổi được 1 USD.
Nguyên nhân đồng EURO vực dậy ngang bằng so với đồng USD, và đã biến năm 2003 là cột mốc quan trọng đánh dấu vị thế ngày càng lớn của đồng EURO trong giao dịch trên thị trường:
+ Đây là giai đoạn Mỹ đương đầu với khủng bố sau thảm họa 11/9/2001, đã khiến cho nền kinh tế Mỹ đi xuống, khi Mỹ nâng mức báo động nguy cơ khủng bố lên cấp 2.
+ Thâm hụt cán cân thương mại Mỹ vượt 400 tỷ USD, rất khó có khả năng đồng USD tăng giá trở lại vì bản thân Mỹ cũng muốn cải thiện xuất khẩu bằng một đồng nội tệ thấp giá.
+ Báo động khả năng bị khủng bố của Mỹ, đã khiến cho nhà đầu tư xa rời đồng USD, chọn đồng EURO để có sự an toàn về vốn.
Năm 2004, giá đồng EURO tiếp tục tăng từ 10 – 15% so với đồng USD.
Giai đoạn 2005 – 2006
Năm 2005, giá đồng EURO giảm 0.8% so với năm 2004 ( 1 EUR = 1.1667 USD ).
Nguyên nhân đồng EURO lại giảm nhẹ là do:
+ Nền kinh tế Mỹ có xu hướng hồi phục một cách khả quan, nên đồng USD của Mỹ bắt đầu tăng giá trở lại. Đây cũng là cơ sở kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư, quỹ đầu tư nhất là khi so với nền kinh tế khu vực Eurozone.
+ Theo Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB), tỷ lệ thấp nghiệp còn cao, lạm phát vượt quá mục tiêu, ổn định giá cả đang là khó khăn lớn của Eurozone. ECB đã buộc phải giảm dự báo tăng trưởng khu vực này từ 1,8% xuống còn 1,6% trong năm 2005, giảm từ 2,1% xuống 2% trong năm 2006.
+ Theo Bộ trưởng Tài chính Anh, ông Gordon Brown, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Eurozone chỉ bằng một nửa so với Mỹ.
Giai đoạn 2006 – 2010
Nhìn vào biểu đồ biểu thị tỷ giá EUR/USD giai đoạn 2006 – 2010, ta nhận thấy:
+ 2/1/2006: giá đồng EURO bắt đầu tăng nhẹ trở lại (1 EUR = 1.1821 USD)
+ Sau khi tăng khá đều đặn trong hơn hai năm 2007 và 2008, đồng Euro đạt mức đỉnh gần: 1 Euro đổi được 1,60 USD vào tháng 7/2008. Tuy nhiên, khi khủng hoảng tài chính nổ ra, đồng Euro và phần lớn các đồng tiền chủ chốt khác đã đồng loạt trải qua sự biến động chóng mặt về tỷ giá.
+ Tháng 11/2008, tỷ giá Euro/USD chỉ còn 1 Euro tương đương hơn 1,20 USD, rồi sau đó tiếp tục biến động và leo lên mức 1 Euro đổi được hơn 1,50 USD vào tháng 12/2009.
+ Và cho đến năm 2010 vừa qua, tỷ giá EUR/USD trượt dốc từ mức 1 Euro đổi được 1,50 USD hồi tháng 12/2009 xuống mức 1 Euro chỉ tương đương 1,37 USD.
Nguyên nhân của tình trạng trượt dốc đồng EURO năm 2010 vừa qua không phải do đồng USD mạnh lên, mà do bản thân đồng EURO đang yếu đi (theo nhận xét tổng quan của ông Ulf Scheneider, Giám đốc điều hành của Fresenius, một doanh nghiệp thiết bị y tế của Đức). Có 2 nguyên nhân chính:
+ Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp.
+ Sự bất lực của Eurozone trong việc đảm bảo các quốc gia thành viên tuân thủ chặt chẽ các quy định về chính sách tài khóa.
¬ Sự suy yếu của đồng EURO trong năm 2010 đã ảnh hưởng như thế nào?
Ø Ảnh hưởng tích cực:
+ Hàng hóa xuất khẩu của châu Âu, từ xe hơi, máy móc, tới rượu bia trở nên rẻ hơn khi được tiêu thụ ở nước ngoài, đặc biệt là tại Mỹ và cả những quốc gia neo tỷ giá đồng nội tệ vào USD.
+ Đây là điều Hy Lạp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đang cần, vì họ đang đương đầu với thâm hụt thương mại khổng lồ và chật vật để tăng sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Ø Ảnh hưởng tiêu cực:
+ Giá dầu lửa và các loại nguyên vật liệu thô được định giá bằng đồng USD đang leo thang.
+ Giá tiêu dùng cũng có thể chịu áp lực tăng do hàng hóa nhập khẩu từ thị trường bên ngoài vào Eurozone có thể trở nên đắt đỏ hơn đối với người dân ở khu vực này.
Tỷ giá đồng EURO hiện nay
Đồng tiền chung châu Âu giảm xuống còn 1,4113 USD lúc 8:40 sáng 23/5/2011 tại Tokyo, còn 1,4161 USD tại New York ngày 20/5/2011. Trước đó, đồng tiền này chạm mức 1,4096 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 16/5/2011 và giảm xuống 1,2381 franc, mức thấp nhất mọi thời đại trước khi giao dịch tại 1,2389 franc. Đồng tiền này còn giảm xuống 115,23 yên từ 115,69 yên.
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này được lí giải như sau:
3.1 Khủng hoảng tài chính
- Năm 2010 khi chưa khắc phục xong hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu, châu Âu lại phải đương đầu với những khó khăn tài chính nghiêm trọng của Hy Lạp và Ailen. Khủng hoảng tài chính của Hy Lạp và Ailen tuy có một vài khác biệt, do đặc thù của từng nước, nhưng có những sai lầm chung khá rõ nét. Đó là chính quyền hai nước này quá dễ dãi trong chi tiêu ngân sách, trong khi các chính sách thuế khóa, lương bổng và ngân hàng quá lỏng lẻo. Kết quả là trong khi nhiều nước thành viên đã hoặc đang vượt qua được khó khăn do khủng hoảng tài chính - kinh tế thế giới gây ra, thì hai nước này lại rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Khủng hoảng Hy Lạp với khoản nợ công khổng lồi làm đồng euro liên tục giảm giá, đang tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán châu Âu và thị trường tài chính toàn cầu.
- Người ta đang lo ngại rằng trong thời gian tới, Bồ Đào Nha, Bỉ và Tây Ban Nha có thể rơi vào khủng hoảng giống như Hy Lạp và Ailen, vì các nước này đang bị thiếu hụt ngân sách rất lớn, kinh tế suy trầm và thất nghiệp cao. Đáng lo ngại nhất là Tây Ban Nha, một nước lớn và khá đông dân trong khu vực đồng euro.
3.2 Thiếu một chính sách thuế chung
Việc thiếu vắng một chính phủ kinh tế trung ương được diễn đạt như "lỗi cấu trúc" của toàn bộ vấn đề. Không đồng nhất về chính sách tài khóa, ngân sách hay thuế má, mỗi chính phủ có thể lựa chọn giải pháp riêng, mà không lường đến kết quả cuối cùng phản ánh lên sức khỏe đồng tiền chung. Ngược lại, một thống nhất chung về tiền tệ cũng hạn chế lựa chọn mỗi quốc gia trong quá trình quyết sách.
Như Hy Lạp năm 2009, nếu euro không tồn tại, nước này có thể phá giá nội tệ thúc đẩy xuất khẩu, cân bằng cán cân thanh toán. Nhưng khi khu vực đồng euro hình thành, cánh cửa này đóng lại, bởi 16 nước tham gia thống nhất một đơn vị tiền tệ chung. Giải pháp của Hy Lạp chỉ còn là một: tiết kiệm, tiết kiệm và tiết kiệm. Kế hoạch "thắt lưng, buộc bụng" chủ yếu vào hầu bao ngân sách Nhà nước, bao gồm cả lương hưu, tiền lương, và tăng thuế.
3.3 Mất cân bằng giữa các quốc gia
- Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra về tính bất hợp lý trên bình diện cấu trúc của khu vực euro khi cố gắng kết hợp nhiều nền kinh tế chênh lệch về lượng, và khác nhau về chất thành một khối. Theo Hiệp ước Maastricht quy định điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng.
3.4 Tâm lý của nhà đầu tư
Các nhà đầu tư tiếp tục lo ngại về cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp, và sợ rằng các nước khác sẽ bị lây. Các nhà đầu tư nêu ra Tây Ban Nha, cùng Bồ Đào Nha, Ireland và Ý là những nền kinh tế dùng đồng euro có nhiều nợ đáng lo ngại nhất, sau Hy Lạp. Chi phí cho khoản vay của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trên thị trường trái phiếu liên tục tăng trong nam 2010, cho thấy giới đầu tư lo hai nước này hết khả năng chi trả. Trường hợp của Tây Ban Nha là đặc biệt đáng ngại vì mức độ của thâm thủng ngân sách năm 2010 cao hơn 11% GDP, và sự yếu kém của nền kinh tế. Tây Ban Nha hiện có mức thất nghiệp cao nhất trong khu vực đồng euro, trên 20% và nền kinh tế dự tính còn sụt giảm 0,6% năm 2010. Vòng xoáy khủng hoảng đã khiến niềm tin của giới đầu tư vào đồng Euro ngày càng thêm suy sụp, trong khi các đồng tiền có mức lãi suất thấp như USD và Yên Nhật đang được xem là có độ an toàn cao hơn.
Gần đây, Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế IMF bị bắt cũng gây biến động thị trường, Việc ông này bị bắt đã khiến tâm lý chán ghét rủi ro thị trường vốn chịu nhiều tác động từ nỗi lo nợ công châu Âu thêm giảm nhiệt, nhà đầu tư khi đó đã kéo tỷ giá EUR/USD xuống mức thấp 1,4050 trong phiên giao dịch ngày 15/5/2011.
à Đồng EURO có xu hướng tiếp tục giảm.
IV. Tác động đối với kinh tế các nước EU và thế giới
Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ giá hối đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (currency hedging) của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta cũng đoán rằng việc này sẽ mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ không còn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ.
Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng.
Đối với thế giới :
- Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua sẽ bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi phối. Với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh. Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán. Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương: trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu) dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới. Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số chuyên gia tài chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế sẽ chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO, do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới bị thay đổi cơ bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
- Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn. - Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành. - Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO
Kể từ khi có mặt trên thị trường tiền tệ, đồng EURO đã trở thành đồng tiền quốc tế quan trọng thứ hai tại nhiều khu vực. Trong thương mại quốc tế, tỷ lệ sử dụng đồng EURO là đồng tiền để định giá, lập hoá đơn và thanh toán vượt quá 50% trong năm 2003 đối với xuất và nhập khẩu ở hầu hết các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu.
Hiện tại có khoảng 150 quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái tính theo một đồng tiền hoặc một giỏ các đồng tiền tham chiếu. Trong số đó có 40 quốc gia dùng đồng EURO của mình. Tính đến cuối năm 2003, dự trữ toàn cầu đạt 3.014 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2002. Trong đó, dự trữ ngoại hối toàn cầu bằng EURO đã tăng từ 19,3% lên 19,7%. Dự trữ bằng EURO của các nước đang phát triển tăng 1% và dự trữ ngoại hối bằng EURO của các nước phát triển hiện ở mức 20,9%. Các quốc gia sử dụng tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi có kiểm soát đều có sự can thiệp vào thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá phù hợp với cơ chế đã chọn.
Các quốc gia sử dụng tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi có kiểm soát đều có sự can thiệp vào thị trường ngoại hối đề duy trì tỷ giá phù hợp với cơ chế đã chọn. Khi đó, đồng EURO với vai trò là đồng tiền tham chiếu thường được sử dụng để can thiệp.
Đối với các nước EU
Việc 11 nước ban đầu tham gia EMU với 290 triệu dân sẽ hình thành một thị trường rộng lớn trên thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ phát triển kinh tế cao. Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững mạnh hơn, liên kết chặt chẽ hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là trong quan hệ kinh tế với Mỹ. EMU và đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU khoảng 200 ty ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu làm cho các nước thành viên EU bị mất 1,5triệu việc làm trong năm 1995. Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong các nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thanh_toan_quoc_te_quoc_te_0163.docx