Với cơ chế cũ đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển Kinh tế – xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý Kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hôi VII khẳng định “tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1769 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu vai trò kinh tế của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không chỉ là “người lính” bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia, mà còn là người hiểu biết qui luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, nắm vững và dự báo các diễn biến Kinh tế trong và ngoài nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy Kinh tế thành hệ thống các luật lệ, các qui chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều tiết các hoạt động: Kinh tế, đối ngoại, định hướng phát triển của các ngành – vùng, lĩnh vực… nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong sự phát triển do chính các qui luật và tính khách quan của đời sống Kinh tế – xã hội quy định. Có thể khẳng định rằng, yêu cầu cân đối trong sự phát triển nền Kinh tế cơ sở kháh quan, sâu xa của vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế. Trong nền Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, được thể hiện như sau:
Thứ nhất, trong nền Kinh tế hàng hoá vận độngtheo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh, mỗi địa phương… đều có lợi ích riêng của mình và đều tìm mọi biện pháp để tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động đó, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi địa phương có thể nhìn hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đối với lợi ích của người khác, ngành, vùng khác; và do đó tất yếu nảy sinh hiện tượng lợi ích của cá nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể của nền Kinh tế quốc dân
Biểu hiện: các hoạt động Kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỉ lệ Kinh tế quốc dân bị phá vỡ sự phân bố các nguồn lực không hợp lí, cơ cấu Kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh…
Muốn khắc phục nhược điểm này, cần có một bộ phận điều hành vĩ mô bằng việc hoạch định chương trình, chiến lược về kế hoạch phát triển với các mục tiêu về qui mô, về cơ cấu, nhịp độ và tốc độ tăng trưởng của từng ngành – vùng, về các mục tiêu Kinh tế vĩ mô khác, cũng như của toàn bộ nền Kinh tế từng cá nhân, doanh nghiệp - ngành – vùng trong nước. Bộ phận điều hành việc đó không ai khác là Nhà nước – chủ thể Kinh tế của mỗi quốc gia. Như vậy nếu không có vai trò của Nhà nước, sẽ không có việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành – vùng để hình thành cơ cấu Kinh tế hợp lí tối ưu; sẽ không có sự phát triển của ngành có ý nghĩa thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ trong toàn bộ nền Kinh tế quốc dân. Sẽ không có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế, bảo hộ sản xuất trong nước, chiếm lính thị trường nước ngoài. Nếu không có Nhà nước, sẽ không có nguồn tích luỹ tập trung qui mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển Kinh tế xã hội và giải quyết những cơ chế thị trường không thể thực hiện được, đặt biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội.
Thứ hai, trong nền Kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, các hoạt động sản xuất kinh doanh, hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và các qui luật của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại hàng hoá và dịch vụ mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng lại không được thanh toán và bồi hoàn đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng hướng ngoại tiêu cực tràn ra thị trường không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị Kinh tế, gây ra một tổn phí lớn trong xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên phạm vi toàn xã hội. Thì tư nhân không thể cung cấp được. Điều này là hiển nhiên vì tư nhân không thể chi phối được giá cả và thu hồi được chi phí bỏ ra, và xã hội cũng không chấp nhận những hoạt động sản xuất và tiêu dùng chỉ nhằm tối đa hoá lợi ích của người khác, và lợi ích cộng đồng. Do vậy, Nhà nước với tư cách chủ thể nền Kinh tế quốc dân, với mục tiêu Kinh tế vĩ mô, cần thiết phải nắm và đảm bảo cho xã hội những loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá ma nếu nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích toàn xã hội
Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường ổn định và lành mạnh để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như: chạy theo lợi nhuận cục bộ sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng các nguồn lực không hợp lí; vì lợi ích Kinh tế cá nhân, cục bộ mà chà đạp lên lợi ích chung, phá hoại môi sinh, gây ô nhiễm môi trường…
Cơ chế thị trường “bàn tay vô hình” – không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước. Vì thế Nhà nước có chức năng bảo đảm về mặt chính trị và xã hội, bảo hiểm về mặt Kinh tế nhằm duy trì các quan hệ vì lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị và bảo vệ được quyền lợi và địa vị giai cấp thống trị. Chỉ có trên cơ sở ấy mới có bầu không khí chính trị và môi trường Kinh tế, xã hội ổn định, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận động với cơ cấu và các quan hệ Kinh tế dựa trên trình độ phát triển của nền sản xuất đạt được mỗi nước
Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền Kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày một tăng. Những diễn biến Kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi đòi hỏi có vai trò của Nhà nước. Nhà nước cần và có điều kiện để thực hiện vai trò này, vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là chủ thể của nền Kinh tế độc lập, có chu quyền có lợi ích Kinh tế tách biệt, Nhà nước lại nắm trong tay những quyền lực Kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, trong đó có lợi ích giai cấp, Nhà nước của mỗi nước phải trực tiếp tác động đến quan hệ Kinh tế đối ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi cho nền Kinh tế có lợi trong khu vực và quốc tế
Thứ năm, vai trò quản lí của Nhà nước về Kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, khống chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy Kinh tế và chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực Kinh tế cua Nhà nước – tức là sức mạnh của hệ thống Kinh tế Nhà nước và các công cụ Kinh tế đặc biệt khác
Tóm lại, việc khắc phục những nhược điểm hạn chế và khuyết tạt của cơ chế thị trường, để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt độngcó hiệu quả không thể không có Nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền Kinh tế quốc dân.
II. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1. Nền Kinh tế nước ta trước cải cách năm 1986.
Nền Kinh tế trước năm 1986 – nền Kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Những năm trước 1986, do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lí Kinh tế của ta được sao chép gần như nguyên vẹn từ mô hình phát triển Kinh tế xã hội và cơ chế quản lí Kinh tế các nước Xã hội chủ nghĩa mà đặc biệt là Liên Xô (cũ). Cơ chế quản lí Kinh tế của ta giai đoạn này là đề cao công cụ kế hoạch hoá, kế hoạch hoá mang tính pháp lệnh bắt buộc mà mọi ngành mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân phải theo, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định các vấn đề Kinh tế xã hội
Đặc trưng cơ bản của cơ chế quản lí Kinh tế tập trung kế hoạch hoá
Dựa trên cơ sở chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất. Nhà nước cải tạo các thành phần Kinh tế, chỉ chấp nhận thành phần Kinh tế Xã hội chủ nghĩa, các thành phần Kinh tế khác bị hạn chế, đặc biệt Kinh tế tư nhân bị loại bỏ
Nhà nước quản lí Kinh tế thông qua chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác, tổ chức sản xuất …Nhà nước đặt ra kế hoạch sản xuất, giá cả thị trường, lỗ có Nhà nước chịu, Nhà nước bao cấp tất cả mọi mặt cho nên các cơ sở trở nên thụ động
Chức năng của đồng tiền bị hạn chế, giá trị đất đai không được thừa nhận, sức lao động và tư liệu sản xuất được coi là hàng hoá nên không được mua bán. Các công cụ lãi suất, giá cả, thuế, tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh cân đối vĩ mô
Với cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp như vậy sẽ kèm theo bộ máy quản lí Kinh tế cồng kềnh lại kém hiệu quả năng lực của cán bộ quản lí yếu kém, phong cách quan liêu của quyền
Với đặc điểm như vậy cơ chế này có ưu nhược điểm sau:
Uu điểm: - Phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trong thời kì chiến tranh, cơ chế đã động viên tích cực người lên đường chiến đấu, bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo được mức lương thực, họ yên tâm sản xuất, chiến đấu phục vụ tổ quốc.
Nhược điềm: - Cơ chế này chỉ phù hợp với chiến tranh. Do đó khi chiến tranh kết thúc thì áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Điều này chúng ta không nhận thấy ngay nên trong một thời gian dài cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền Kinh tế nước ta và gây nhiều tác hại xấu tới đời sống Kinh tế xã hội
- Do có sự phân phối bình quân cho nên đã khuyến khích được người sản xuất, không phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động, hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì đã có Nhà nước bao cấp bao tiêu sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm kém làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả Kinh tế lại thấp
- Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu linh hoạt với thị trường, dẫn tới tình trạng sản xuất không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Mặt hàng cần thiết thì không sản xuất lại sản xuất hàng loạt mặt hàng không cần thiết gây tình trạng lãng phí
- Công nghệ kỹ thuật chậm phát triển, cải tiến, chi phí cao mà chất lượng sản phẩm thấp. Cung cách hạch toán mang tính hình thức, phô trương, xuất hiện tình trạng “lãi giả lỗ thật”
- Mặc dù hàng hoá kém phẩm chất nhưng làm đến đâu phân phối hết đến đó cho nên các cơ sở không tích cực sửa đổi mẫu mã, chất lượng,cải tiến cung cách làm ăn…
2. Nền Kinh tế đổi mới sau 1986 – nền Kinh tế thị trường
Với cơ chế cũ đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển Kinh tế – xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý Kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hôi VII khẳng định “tiếp tục xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
Cơ chế thị trường có ưu - nhược điểm sau:
Ưu điểm: - Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể Kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm nền Kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực xã hội vào phát triển Kinh tế
- Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất, có thể được bằng cách áp dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá
- Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó ó thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được
- Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện Kinh tế thay đôỉ, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền Kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song “… cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” P. A Samuelsen, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội
Nhược điểm: - Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền Kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu quả nhất đâù vào của sản xuất và đầu ra, tức đường Kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Như vậy, hiệu lực của cơ chế phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm
- Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội gánh chịu do đó hiệu quả Kinh tế – xã hội không được đảm bảo
- Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động hoàn hảo cũng không thể đạt được sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo ngỳ càng sâu sắc
- Một nền Kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng Kinh tế có tính chu kì
Như vậy, cơ chế thị trường có mọt loạt những khuyết điểm vốn có của nó. Do đó, ngày nay trên thực tế không tồi tại cơ chế thị trường thuần tuý mà có sự can thiệp của Nhà nước
Nội dung của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
a. Cơ chế vận hành nền Kinh tế là cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Điều đó có nghĩa là nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của Kinh tế thị trường, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực Kinh tế, khắc phục những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Tuy nhiên cần nhấn mạng rằng sự can thiệp của Nhà nước vào Kinh tế phải sao cho tương hợp với thị trường. Vì vậy Nhà nước phải sử dụng các biện pháp Kinh tế là chính để điều tiết nền Kinh tế
Vai trò quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa trong nền Kinh tế thị trường hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho nền Kinh tế thị trường phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo cho nền Kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Không ai ngoài Nhà nước có thể giảm bớt sự phân hoá giàu – nghèo, thành thị – nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện Kinh tế thị trường
Để thực hiện vai trò đó, cần phải giữ vững và tăng cường bản chất Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hiện nay với việc nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý Kinh tế của Nhà nước, cần có biện pháp hữu hiệu làm trong sạch bộ máy Nhà nước, kiên quyết bài trừ tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và hệ thống quản lý Kinh tế. Chỉ có vậy mới giữ vững được bản chất Xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, nhờ đó thực hiện được vai trò đặc biệt là một nhân tố đảm bảo sự định hướng xã hội của nền Kinh tế ở nước ta.
b. Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa cũng là nền Kinh tế mở, hội nhập với Kinh tế khu vực và thế giới
Đây là hướng chung của các nền Kinh tế trên thế giới hiện nay, ở đây muốn nhân mạnh sự khác biệt nền Kinh tế mà chúng ta đang xây dựng với nền Kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới. Trong điều kiện Kinh tế hiện nay chỉ có mở cửa Kinh tế hội nhập vào Kinh tế khu vực và thế giới mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năngvà thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển Kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở cửa Kinh tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, thị trường trong nước gắn với thị trương khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ Kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ Kinh tế đối ngoại
Trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả Kinh tế đối ngoại hiện nay, phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của Kinh tế đối ngoại, điều chỉnh cơ cấu thị trường để hội nhập khu vực và thế giới, bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Cần có sự điều chỉnh trong chính sách và hoạt động Kinh tế đối ngoại cho phù hợp với tình hình thực tế từng thời kỳ
Để hội nhập đầy đủ vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (APTA) và tổ chức thương mại quốc (WTO), cần có sự chuẩn bị tích cực ngay từ bây giờ không chỉ ở cấp trung ương mà ở cả các cấp cơ sở, các doanh nghiệp phải tính đến điều kiện hoạt động khi hội nhập đầy đủ để có biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh, nhờ đó tồn tại và phát triển
c. Sự phát triển Kinh tế thị trường gắn liền với việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Điều đã được thừa nhận rộng rãi là nền Kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về đạo đức và xã hội. Ngay từ 1884 trong “tuyên ngôn Đảng Cộng Sản” C. Mác và Ph. Angen đã chỉ ra rằng xã hội tư bản “không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác ngoài mới lạ lạnh lùngvà lối “ trả tiền ngay không tình nghĩa” . Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phưong Tây Edgan Morin đã chua chát nhận xét rằng : “trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”.
Khi chuyển nền Kinh tế nước ta sang Kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường thì cũng nảy sinh trong đời sống thực tế những hiện tượng: Thương mại hoá không chỉ các quan hệ Kinh tế , mà cả những quan kệ xã hội sống vụ lợi,sùng bái đồng tiền, coi thường các giá trị nhân văn, làm sói mòn truyền thống văn hoá và đạo đức của dân tộc. Việc mở của và hội nhập, ngoài những tác dụng tích cực , cũng tạo ra nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá lại càng mất gốc, xa lạ với truyền thống văn hoá Việt Nam .
Chúng ta coi việc xây dựng và phát triển Kinh tế thị trường là phưong tiện, con gường thực hkiện mục tiêu Xã hội chủ nghĩa , chứ không phải phát triển Kinh tế thị trường TBCN . Vì vậy, khi xây dựng nền Kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập với khu vực và thế giới phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới để làm giàu đẹp thêm văn hoá Việt Nam.
III. Mục tiêu và chức năng quản lí Kinh tế vĩ mô của Nhà nước
1. Mục tiêu
a. Phải có tăng trưởng và phát triển Kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng Kinh tế cao: hiện nay với sự chuyển đổi cơ chế mới, tốc độ tăng trưởng Kinh tế của ta khá cao. Đây là cơ sở chứng minh sự đúng đắn trong quản lý của Nhà nước. Trong những năm sắp tới mục tiêu của chúng ta là không ngừng duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng Kinh tế mới có cơ hội đuổi kịp các nước trên thế giới.
Về tổng sản phẩm quốc dân GNP và tổng sản phẩm quốc nội GDP. Ngày nay thước đo cuối cùng để đánh giá thành công Kinh tế là khả năng của một nước tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ Kinh tế. Nước ta hiện nay mới chuyển sang cơ chế thị trường vì vậy GNP và GDP chưa cao nhưng đang có xu hướng tăng mạnh đặc biệt sau khi Mĩ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể, nhờ đó sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao. Tuy nhiên để tránh lạm phát cao với mức sản lượng tiềm năng, không được cao quá hoặc không thấp quá để phát huy được tối đa các nguồn nhân lực – toàn dụng
Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người một năm - đây là một chỉ tiêu quan trọng cho phép xét mức sống của người dân, sự giàu có và phồn thịnh của một quốc gia. Hiện nay nước ta có dân số 80 triệu người, mức thu nhập còn thấp. Mục tiêu của chúng ta là nâng cao mức thu nhập / người: 500 USD người / năm và có thể cao hơn.
b. Việc làm và vấn đề thất nghiệp:
Tình trạng nhàn rỗi không tự nguyện không những gây khó khăn về Kinh tế mà còn gây ra những tổn thất về tâm lí, đạo đức và y tế. Mục tiêu đặt ra là khai thác triệt để nguồn lực về lao động, giảm thất nghiệp đến mức tối đa. Nhờ đó mà tiêu cực xã hội cũng giảm xuống và hơn nữa việc làm ảnh hưởng tới mức thu nhập do vậy mà ảnh hưởng tới mức sống của người dân
c. Lạm phát:
Lạm phát là một căn bệnh đối với bất kỳ một nền Kinh tế thị trường nào ở bất kỳ nước nào ở mọi giai đoạn phát triển. Sự phát triển Kinh tế thường đi kèm theo với lạm phát, mà lạm phát lại ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân. Vì vậy nên có sự cân đối hài hoà giữa tăng trưởng Kinh tế và lạm phát. Có thể kìm chế lạm phát thông qua hàng loạt các công cụ vĩ mô như: chỉ số trong giá, cân đối ngân sách, phát triển triển sản xuất để tăng cung… Nhưng tuyệt nhiên không nên áp đặt một tập hợp giá cứng nhắc như vậy nó ngăn chặn không để cho “bàn tay vô hình” hoạt động có hiêụ quả nhất
d. Cán cân thanh toán quốc tế:
Xuất khẩu hàng hoá phải có những chính sách thích hợp gắn liền với từng giai đoạn phát triển. Giai đoạn đầu tiên khi nền Kinh tế của ta còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển mạnh, chúng ta có thể nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước. Khi nền Kinh tế đã phát triển ở mức cao hơn, đáp ứng được phần nào nhu cầu trong nướcthì phải hạn chế nhập khẩu và dần dần chuyển sang xuất khẩu. Ngày nay nước ta mở rộng giao lưu hợp tác trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, với nhiều bạn hàng quốc tế tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tiến hành đầu tư gian tiếp hoặc trực tiếp khuyến khích đầu tư nước ngoài, tranh thủ dự án tài trợ để tiến hành đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp vào sản xuất
Xuất khẩu lao động, nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công hoá lao động quốc tế, đặc biệt nguồn nhân lực ở nước ta rất dồi dào. Xuất khẩu lao động cũng là một hình thứu để chúng ta giải quyết việc làm cho số người nhàn rỗi, khi sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu về việc làm.
Đảm bảo sự cân bằng, bắt đầu từ nhiều vấn đề thiếu công bằng trong việc phân phối thu nhập của người lao động trong cơ chế thị trường bằng do đồng tiền gây ra giữa mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Sự hình thành rõ rệt giữa các tầng lớp người giàu và người nghèo, sự bất công trong cuộc sống. Tất cả những vấn đề này là mục tiêu cuối cùng của vai trò quản lí vĩ mô nền Kinh tế của Nhà nước
2. Chức năng quản lý Kinh tế vĩ mô của Nhà nước
a.Khái niệm:
Chức năng quản lý Nhà nước về Kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước lên đối tượng và khách thể quản lý. Là tập hợp nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước trong quá trình quản lý phải tiến hành.
Quản lý Nhà nước về Kinh tế là quản lý Kinh tế vĩ mô, nghĩa làquản lí toàn bộ nền Kinh tế quốc dân với tính cách là một hệ thống lớn và phức tạp do vô số các phần tử nhỏ hơn và cấp độ khác nhau hợp thành.
b. Chức năng quản lý Nhà nước về Kinh tế theo phương hướng tác động
Theo phương hướng tác động quản lý, quản lý Nhà nước về Kinh tế như đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra bao gồm các chức năng quản lí sau:
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh như:
Bảo đảm sự ổn định về chính trị, Kinh tế ,xã hội cho mọi người yên tâm sản xuất kinh doanh. Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội, bảo đảm bình đẳng trong kinh doanh, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổib mới ổn định môi trường Kinh tế vĩ mô ; khống chế lạm phát : điều tiết thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu : chống sự cản phá của nước ngoài.
Xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động Kinh tế : cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính - tiền tệ, hệ thống pháp chế, cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội.
Thứ hai, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển , thông qua kế hoạch và các nguồn tài lực tập trung và lực lượng dự trữ, phát huy vai trò Kinh tế Nhà nước, khai thông các quan hệ bang giao và làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân trong Kinh tế đối ngoại.
Thứ ba, hoạch định và thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội. San sẻ rủi ro với các doanh nghiệp và cá nhân.
Thứ tư, quản lý và kiểm soát việc sử dụng tải sản quốc gia, nhằm bảo tồn và phát triển các tài sản đó, trong đó có bộ phận tài sản giao cho Kinh tế quốc doanh.
Thứ năm, phân biệt quản lý Nhà nước về Kinh tế và quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp với các đặc trưng sau :
- Các cơ quan Nhà nước có chức năng tổ chức và quản lý toàn bộ xã hội và nền Kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô với ý nghĩa chủ yếu là điều tiết tổng thể các mối quan hệ phức tạp của nền Kinh tế bằng sức mạnh và các công cụ có trong tay ; các loại biện pháp kết hợp nhằm tạo ra khuôn khổ cho các tổ chức kinh doanh hoạt động thuận lợi.
Các doanh nghiệp có chức năng tổ chức và hoạt động kinh doanh bằng biện pháp kinh doanh nhằm tạo ra những giá trị vật chất đáp ứng các nhu cầu xã hội.
-Các cơ quan Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bằng chiến lược, định hướng, chính sách, cơ chế quản lý , điều tiết lợi ích trong phạm vi toàn xã hội .
Các doanh nghiệp được họat động trong môi trường thuận lợi do Nhà nước tạo ra, được xác định phần lợi ích xứng đáng của mình và chịu sự điều tiết bởi lợi ích của Nhà nước.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước, quản lý toàn xã hội và nền Kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, bằng hệ thống pháp luật và xử phạt mọi hành vi phạm pháp.
Các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần Kinh tế khác nhau là những đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân và bình đẳng với nhau trong kinh doanh trước pháp luật Nhà nước, chịu sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước trong việc chấp hành pháp luật.
- Các mối quan hệ trong hoạt động và quản lý của Nhà nước được điều chỉnh chủ yếu bằng luật hành chính. Còn các mối quan hệ trong kinh doanh được điều chỉnh chủ yếu bằng luật dân sự..
- Các cơ quan Nhà nước hoạt động bằng cấp phát của ngân sách Nhà nước. Còn các tổ chức kinh doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50154.doc