Đề tài Nghiên cứu về Bão nhiệt đới

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

I. Lí do chọn đề tài 1

II. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu 1

II.1. Mục đích 1

II.2. Nhiệm vụ 2

II.3. Giới hạn nghiên cứu 2

III. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2

III.1. Trên thế giới 2

III. 2. Ở Việt Nam 4

IV. Các phương pháp nghiên cứu 5

IV.1. Phương pháp thu thập tài liệu 5

IV.2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp 5

IV.3. Phương pháp bản đồ, biểu đồ 5

V. Những góp của đề tài 5

VI. Cấu trúc của đề tài 5

PHẦN NỘI DUNG 5

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÃO NHIỆT ĐỚI 5

I.1. Cơ sở lí luận 5

I.1.1. Giới hạn vùng nhiệt đới và phạm vi hoạt động của bão nhiệt đới 5

I.1.1.1. Giới hạn vùng nhiệt đới 5

I.1.1.2. Phạm vi hoạt động của bão nhiệt đới 5

I.1.2. Khái niệm về bão và các bộ phận cấu tạo của bão 5

I.1.2.1. Khái niệm 5

I.1.2.2. Các bộ phận cấu tạo của bão 5

I.1.3. Phân loại 5

I.2. Cơ sở thực tiễn 5

CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÃO NHIỆT ĐỚI 5

II.1. Điều kiện hình thành 5

II.2. Cơ chế hình thành 5

II.2.1. Cơ chế hình thành một cơn bão nói chung 5

II.2.2. Cơ chế hình thành bão nhiệt đới 5

II.2.3. Các giai đoạn hình thành bão 5

II.2.3.1. Giai đoạn hình thành 5

II.2.3.2. Giai đoạn trẻ 5

II.2.3.3. Giai đoạn chín muồi 5

II.2.3.4. Giai đoạn tan rã 5

II.3. Sự di chuyển của bão 5

II.4. Đặt tên cho bão 5

II.5. Công tác dự báo bão 5

II.5.1. Phát hiện và theo dõi bão 5

II.5.2. Dự báo bão 5

II.5.2.1. Trên thế giới 5

Thang độ và miêu tả thang sức gió Beaufort 5

II.5.2.2. Ở Việt Nam 5

II.5.2.3. Mức chính xác dự báo bão 5

CHƯƠNG III: MỘT SỐ CƠN BÃO TIÊU BIỂU Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY 5

III.1. Trên thế giới 5

III.1.1. Bão Katrina 5

III.1.2. Siêu bão Chancnhu 5

III.1.3 Bão Nargis 5

III.2. Ở Việt Nam 5

III.2.1. Bão Xangsane 5

III.2.2. Bão Kestana 5

PHẦN KẾT LUẬN 5

TÀI LIỆU THAM KHẢO 5

 

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6856 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu về Bão nhiệt đới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị thương và đổ 140.000 ngôi nhà. Phillipin là một trong những nước phải hứng chịu nhiều bão nhất thế giới, trung bình có tới 19 cơn bão trong một năm. Những số liệu trên đã phần nào cho chúng ta thấy mức độ nguy hại của bão nên từ trước đến nay đã có rất nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu về các vấn đề như: sự hình thành, đường đi, quá trình phát triển… cũng như cách dự báo và phòng chống bão nhằm hạn chế tối đa những hậu quả mà bão gây ra. CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÃO NHIỆT ĐỚI II.1. Điều kiện hình thành Như chúng ta đã biết bão nhiệt đới hình thành, hoạt động trong các vĩ độ nhiệt đới (khoảng 5 – 200 vĩ) và có ảnh hưởng trên một diện rộng. Tuy nhiên để hình thành một cơn bão cần hội tụ đầy đủ những điều kiện sau: Palmen (1956), đưa ra 3 điều kiện cơ bản cho sự hình thành bão: 1. Khu vực đại dương có diện tích đủ lớn với nhiệt độ mặt biển cao (26 – 270C) bảo đảm nước biển bốc hơi mạnh cung cấp năng lượng ngưng kết lớn cho hệ thống bão. 2. Thông số Côriolis có giá trị đủ lớn tạo xoáy. Bão thường hình thành trong đới giới hạn bởi vĩ độ 5 - 200 ở hai bên xích đạo. 3. Dòng cơ bản có độ đứt thẳng đứng của gió yếu, bảo đảm sự tập trung của dòng ẩm vào khu vực bão trong thời gian đầu hình thành bão. Riehl (1948) bổ sung thêm hai điều kiện: 1. Ở trên cao, trường khí áp phải phân kì để bảo đảm sự giải tỏa khối lượng không khí hội tụ ở mặt đất và duy trì bão. Điều này thường được thỏa mãn ở miền nhiệt đới vì từ mực 500mb trở lên, nhất là tại mực 200 - 300mb thường xuyên tồn tại áp cao cận nhiệt. 2. Ở mặt đất phải có nhiễu động áp thấp ban đầu. Những kết quả thống kê cho thấy 80% các cơn bão có liên quan với dải hội tụ nhiệt đới. Năm dải hội tụ nhiệt đới ít hoạt động thì cũng ít bão. Như vậy: có 2 điều kiện tối cần thiết để hình thành bão + nhiệt độ tương đối cao + lượng hơi nước dồi dào II.2. Cơ chế hình thành Bão được ví như một chu trình sống, được nuôi dưỡng và chết đi. Đại dương tại các vùng nhiệt đới (điển hình là Thái Bình Dương), gần xích đạo, có nhiều ánh nắng Mặt Trời, chính là người mẹ hình thành và sinh ra bão, do đó gọi là bão nhiệt đới. II.2.1. Cơ chế hình thành một cơn bão nói chung Muốn sản sinh ra một cơn bão cần có 2 điều kiện chủ yếu là nhiệt độ tương đối cao và lượng hơi nước dồi dào. Khi ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống sẽ làm nước biển bốc hơi tạo ra trên mặt biển một lớp không khí ẩm. Nếu cường độ chiếu sáng càng lớn thì tốc độ bay hơi càng mạnh sẽ hình thành một cột không khí ẩm bay thẳng lên cao, tạo ra một áp thấp trên mặt biển. Khi đó không khí xung quanh khu vực không khí vừa bốc lên sẽ ào ạt đổ vào đó, dưới tác dụng của lực Côriôlit (lực chuyển động do sự tự quay của Trái Đất) cột không khí sẽ chuyển động xoay tròn. Đây là một nguyên nhân tạo ra cơn bão. Ngoài ra khi không khí đi lên gặp lạnh, hơi nước chứa trong đó ngưng tụ lại đồng thời tỏa ra một nhiệt lượng, điều này càng góp phần tăng cường dòng không khí bốc lên khiến khí áp ở mặt biển lại càng hạ thấp, cơn xoáy không khí càng mãnh liệt, thúc đẩy cơn bão hình thành. II.2.2. Cơ chế hình thành bão nhiệt đới Như trên đã nêu, muốn hình thành một cơn bão cần phải có hai điều kiện chủ yếu là nhiệt độ tương đối cao và lượng hơi nước dồi dào. Mà vùng biển nhiệt đới lại hội tụ đầy đủ cả hai điều kiện trên. Mặt biển ở đó có nhiệt độ không khí rất cao do tầng thấp ở đây nhận được nhiệt năng lớn. Đó cũng là nơi giàu hơi nước nhất địa cầu. Nó sẽ là động lực chính cho sự hình thành và phát triển những cơn bão. Nếu không có nguồn động lực này thì dù cho bão có hình thành thì cũng tự tan. Một đặc điểm nữa là vùng này cách xích đạo một khoảng cách không xa, do đó lực quay của Trái Đất cũng sẽ ảnh hưởng có lợi cho vòng xoáy không khí. Măt khác tình trạng mặt biển nhiệt đới đơn thuần hơn vùng biển tại các vĩ độ trung bình, không khí ở trên cùng một khu vực luôn giữ có định những điều kiện bất biến trong thời gian khá dài để cho bão có thời gian tích góp năng lượng ấp ủ thành một trận bão. Các cơn bão nhiệt đới thường phát sinh tại các khu vực mặt biển có nhiệt độ trên 26oC – 27oC. Theo thống kê các vùng biển phát sinh ra bão chủ yếu là vùng: biển Đông, phía đông Philippin, quần đảo tây Ấn Độ và bờ biển Ôxtrâylia… II.2.3. Các giai đoạn hình thành bão II.2.3.1. Giai đoạn hình thành Bão xuất hiện trực tiếp từ mặt biển với sự hình thành của những cụm mây tích lớn. Tuy nhiên, phần lớn bão được hình thành từ một nhiễu động là áp thấp nhiệt đới (khoảng 80% trường hợp) sự hình thành bão có liên quan đến dải hội tụ nhiệt đới. Mặt khác, không phải nhiễu động nào trên dải hội tụ nhiệt đới cũng phát triển thành bão. Quá trình khơi sâu của áp thấp thường diễn ra chậm khoảng vài giờ, đủ để gió tản mạn trong khu vực rộng lớn được sắp xếp lại, tạo thành các dòng khí xoáy hội tụ đưa không khí nóng ẩm vào tâm. Cũng có trường hợp mắt bão hình thành chỉ trong 24 giờ. Trong giai đoạn hình thành, giai đoạn áp thấp nhiệt đới, gió có cường độ bão chỉ thấy ở mức thấp. Và khi tốc độ gió cực đại tại vùng trung tâm vượt quá 17,2 m/s, áp thấp nhiệt đới trở thành bão. Các giai đoạn phát triển của bão được thể hiện rất rõ trên các ảnh vệ tinh. Hình 4: Ảnh vệ tinh của một cơn bão nhiệt đới trong giai đoạn hình thành ngoài khơi Philippin (20/09/2007). II.2.3.2. Giai đoạn trẻ Không phải tất cả các xoáy thuận nhiệt đới đạt tốc độ gió cấp bão trong giai đoạn hình thành đều phát triển thành bão, nhiều xoáy thuận tan đi sau 24 giờ. Một số khác di chuyển trên một khoảng cách lớn như là một áp thấp nhiệt đới. Nếu có sự tăng cường thì khí áp thấp nhất giảm nhanh xuống dưới 1000 mb. Gió có cường độ bão hình thành một dải bao quanh trung tâm xoáy. Mô hình mây biến đổi từ dải đường tố sang dạng dải xoáy về phía trung tâm. Ở phía dưới thấp, dòng hội tụ vào tâm có thể chưa bao quát phạm vi lớn nhưng ở trên cao có thể có dòng phân kỳ từ tâm xoáy. II.2.3.3. Giai đoạn chín muồi Đặc điểm của giai đoạn này là khí áp ở tâm không tiếp tục giảm và tốc độ gió cực đại cũng ngừng tăng lên. Phạm vi hoàn lưu bão với tốc độ gió sức bão mở rộng. Giai đoạn chín muồi, có khi kéo dài đến một tuần. Nếu trong giai đoạn trẻ phạm vi gió mạnh sức bão chỉ giới hạn trong phạm vi bán kính 30 - 50 km thì trong giai đoạn này có thể mở rộng trên 300 km. Khu vực thời tiết xấu nhất nằm ở phía phải so với hướng dịch chuyển của bão. Quy mô của bão trong giai đoạn chín muồi biến đổi rất lớn. Thậm chí khi khí áp ở tâm bão thấp hơn 950 mb, bán kính bão có khi chỉ là 100 đến 200 km. Nếu khí áp tính trung bình đồng đều là 1000 mb cho toàn khu vực bão thì khối lượng bão là 3x1012 tấn. Ngược lại, với cơn bão có khí áp tương tự có bán kính 1000 km thì khối lượng của nó là 3x1013 tấn. Khối lượng này ngang với khối lượng của áp thấp Alêut. Bão trong giai đoạn chín muồi cũng trải qua các thời kỳ tăng cường và suy yếu không đều, kéo dài trong vài ngày, thường đó là trương hợp bão tương tác với hoàn lưu ôn đới. Sự biến đổi ngắn hạn của tốc độ gió chừng 10% trong khoảng 1 giờ. Hình 5: Ảnh vệ tinh cơn bão số 7 (31/10/2006) trong giai đoạn chín muồi II.2.3.4. Giai đoạn tan rã Khi bão di chuyển vào đất liền do điều kiện địa hình, lực ma sát tăng lên và nhất là khả năng cung cấp ẩm cho bão bị mất đi nên kích thước của bão giảm đi rất nhanh. Sau một thời gian ngắn (từ 1 đến 2 ngày) thì bão tan rã hoàn toàn, đôi khi có thể tồn tại dưới dạng một áp thấp nhiệt đới và cho mưa lớn trên một phạm vi rộng. Trên biển, bão cũng có thể bị tan rã khi gặp vùng nước lạnh như ở tây bắc Thái Bình Dương. Trên đất liền và trên biển bão có thể di chuyển vòng quanh rìa cao áp cận nhiệt và đi vào miền ôn đới, không khí lạnh xâm nhập vào khu vực bão, hệ thống front xuất hiện và bão trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới. II.3. Sự di chuyển của bão Sự hình thành và phát triển của bão là một quá trình phức tạp. Bão được hình thành từ một nhiễu động nhiệt đới tương đối nhỏ, mở đầu từ một xoáy khép kín với gió yếu và khí áp ở tâm chưa xuống dưới 1000mb. Xoáy đó nếu tiếp tục khơi sâu thì trong khoảng vài ngày thậm chí chỉ cần 12 giờ sẽ hình thành một hệ gió xoáy rõ rệt. Nếu gió xoáy tiếp tục mạnh lên, khí áp xuống dưới 1000mb, nó sẽ hình thành hệ thống mây bão theo hình xoắn đi với những dải mưa rào, gió mạnh. Tốc độ di chuyển của một cơn bão từ 10 -15 km/h. Tuy nhiên, có những cơn bão di chuyển rất chậm hoặc cũng có những cơn bão di chuyển rất nhanh, đường đi rất phức tạp. Qũy đạo của một cơn bão được hiểu là đường nối các vị trí liên tiếp của cơn bão qua các giai đoạn tồn tại của nó. Vị trí của bão được xác định theo trường áp, trường gió và theo ảnh mây vệ tinh. Dạng parabol là đặc trưng của quỹ đạo bão quy định bởi cơ chế bão di chuyển theo dòng dẫn đường, dòng không chịu ảnh hưởng nhiễu động của bão ở rìa hướng về phía tây nam cực tây và tây bắc của cao áp cận nhiệt. Tuy nhiên nhiều cơn bão chỉ đi theo dòng dẫn trong một thời gian sau đó đổ bộ vào đất liền và tan đi. Một số cơn bão mạnh có nội lực lớn chúng có thể di chuyển theo nhiều dạng quỹ đạo khác nhau có khi thắt nút một hay nhiều lần. Đường đi của bão Parma (dạng thắt nút) Đường đi của bão Xangsane (dạng đường thẳng) Đường đi của bão Ike (dạng parabol) Hình 6: Các dạng đường đi của bão II.4. Đặt tên cho bão Trong vùng nhiệt đới bão là một hiện tượng thiên tai phổ biến và xuất hiện với tần suất lớn. Ở Việt Nam trong mùa bão hàng năm có thể có tới 9 – 10 cơn bão nên rất khó khăn cho việc dự báo. Do đó, để tạo thuận lợi cho việc liên lạc giữa các nhà dự báo thời tiết và công chúng trong việc theo dõi và cảnh báo, tránh nhầm lẫn giữa các cơn bão người ta đã đặt tên cho các cơn bão. Việc đặt tên cho các cơn bão có lịch sử cách đây từ nhiều thế kỉ. Người ta cho rằng tên của các bão lần đầu tiên xuất hiện là do một nhà dự báo thời tiết của Australia. Ông đặt tên bão theo tên “của những chính trị gia mà ông ghét nhất”. Trong Thế chiến II, các cơn bão nhiệt đới ở Thái Bình Dương được đặt tên không chính thức theo tên của phụ nữ. Nguyên tắc bất thành văn này do đoàn dự báo thời tiết của Lục và Hải quân Mỹ đề ra và thường lấy tên vợ hoặc bạn gái của các nhà dự báo. Từ năm 1950 đến 1952, các cơn bão ở bắc Đại Tây Dương được đặt tên theo thứ tự bảng chữ cái (A, B, C ...), nhưng từ năm 1953, cơ quan khí tượng Mỹ lại chuyển sang dùng hệ tên phụ nữ. Năm 1979, tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) và Cơ quan khí tượng Mỹ (NWS) thống nhất sử dụng tên bão gồm cả tên nữ và nam giới. Mỗi năm tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) sử dụng danh sách gồm 21 tên gọi thông dụng (xếp theo thứ tự abc và bỏ 5 mẫu tự q, u, x, y và z) tương ứng với số trận bão trung bình xuất hiện trong mùa giông bão kéo dài từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 11. Ví dụ Rita là cơn bão thứ 17 ở Đại Tây Dương trong năm nay. Nếu số cơn bão vượt quá 21, tổ chức WMO sẽ chuyển sang dùng các mẫu tự trong bảng chữ cái Hy Lạp. Nghĩa là Wilma được dùng để gọi tên cơn bão thứ 21 (nếu có trong năm nay) thì tiếp theo đó sẽ là bão Alpha và Beta... Danh sách các tên bão được tái sử dụng 6 năm một lần (chẳng hạn, năm 2011, WMO sẽ trở lại sử dụng danh sách tên bão năm 2005). WMO có thể loại một số tên bão ra khỏi danh sách để các cơn bão mới không gợi lại những ký ức buồn. Người ta gọi đó là “cho về hưu”, Nanette Lomarda - Trưởng ban bão nhiệt đới ở WMO nói: “Khi bão gây ra tổn thất lớn về người và kinh tế, chúng tôi phải xóa tên gọi đó”. Khi cho một tên bão về hưu WMO sẽ thay thế bằng một tên khác thuộc cùng phái và bắt đầu bằng chữ cái của tên đã bị cho nghỉ hưu. Vừa qua, ủy ban quốc tế thuộc tổ chức Khí tượng thế giới đã quyết định rút tên năm cơn bão xoáy có sức tàn phá mạnh nhất trong năm 2005 nhằm tôn trọng các nạn nhân đã thiệt mạng trong cơn bão này. Quyết định được đưa ra trong cuộc họp hàng năm của tổ chức này tại San Juan (Puerto Rico). Năm tên gọi bão Dennis, Katrina, Rita, Stan và Wilma đã được đặt cho năm trong số 27 cơn bão nhiệt đới và 15 cơn bão xoáy đã quét qua bờ biển Đại Tây Dương trong năm 2005. Những cái tên này sẽ không còn được sử dụng nữa, nhằm tôn trọng các nạn nhân thiệt mạng trong các cơn bão này. Năm tên cơn bão này sẽ được thay thế bằng tên Don, Katia, Rina, Seanet Whitney trong năm 2011. Năm 2005 đã trở thành năm có số tên bão kỷ lục bị rút chỉ trong một mùa mưa bão duy nhất, đến nay có 67 tên được rút ra khỏi danh sách. Các cơn bão ở lòng chảo đông bắc Thái Bình Dương được đặt theo tên phụ nữ từ năm 1959 - 1960. Năm 1978, cả hai loại tên đều được sử dụng. Từ ngày 1/1/2000, các cơn bão ở lòng chảo tây bắc Thái Bình Dương (khu vực mà Việt Nam nằm trong đó) được đặt theo một danh sách các tên mới lạ. Những tên mới bổ sung bao gồm các tên châu Á, được lấy từ các nước và vùng lãnh thổ là thành viên của WMO trong khu vực. Một trong số 14 thành viên cung cấp 10 tên tạo thành danh sách 140 tên bão. Những tên này có hai điều khác biệt so với tên bão ở các nơi trên thế giới. Thứ nhất, hầu hết chúng không phải là tên riêng của người mà thường là tên hoa, động vật, chim, cây cỏ hay thậm chí tên món ăn. Thứ hai, các tên này không được đặt tuần tự theo thứ tự chữ cái mà theo thứ tự chữ cái của tên các nước. Các cơn bão đang hình thành ở khu vực này sẽ được trung tâm bão nhiệt đới Tokyo thuộc cơ quan Khí tượng Nhật Bản đặt tên. Ví dụ: Trước bão Damrey (Việt Nam gọi là bão số 7), cơn bão Saola, lấy tên của một loài động vật quý hiếm của Việt Nam, đã tràn vào Nhật Bản. Dưới đây là các tên được dùng để đặt cho bão ở tây bắc Thái Bình Dương: Nước/Lãnh thổ Tên bão Campuchia Damrey Kong-rey Nakri Krovanh Sarika Trung Quốc Longwang Yutu Fengshen Dujuan Haima Bắc Triều Tiên Kirogi Toraji Kalmaegi Maemi Meari HK, Trung Quốc Kai-Tak Man-yi Fung-wong Choi-wan Ma-on Nhật Bản Tenbin Usagi Kanmuri Koppu Tokage Lào Bolaven Pabuk Phanfone Ketsana Nock-ten Macau Chanchu Wutip Vongfong Parma Muifa Malaysia Jelawat Sepat Rusa Melor Merbok Micronesia Ewinlar Fitow Sinlaku Nepartak Nanmadol Philippines Bilis Danas Hagupit Lupit Talas Hàn Quốc Gaemi Nari Changmi Sudal Noru Thailand Prapiroon Wipha Mekkhala Nida Kulap Mỹ Maria Francisco Higos Omais Roke Việt Nam Saomai Lekima Bavi Conson Sonca Campuchia Bopha Krosa Maysak Chanthu Nesat Trung Quốc Wukong Haiyan Haishen Dianmu Haitang Bắc Triều Tiên Sonamu Podul Pongsona Mindule Nalgae HK, Trung Quốc Shanshan Lingling Yanyan Tingting Banyan Nhật Bản Yagi Kaziki Kujira Kompasu Washi Lào Xangsane Faxai Chan-hom Namtheun Matsa Macau Bebinca Vamei Linfa Malou Sanvu Malaysia Rumbia Tapah Nangka Meranti Mawar Micronesia Soulik Mitag Soudelor Rananin Guchol Philippines Cimaron Hagibis Imbudo Malakas Talim Hàn Quốc Chebi Noguri Koni Megi Nabi Thailand Durian Rammasun Morakot Chaba Khanun Hoa Kì Utor Chataan Etau Aere Vicete Việt Nam Trami Halong Vamco Songda Saola Ở vùng bắc Ấn Độ Dương, các bão nhiệt đới không được đặt tên. Tại tây nam Ấn Độ Dương, bão lần đầu có tên vào mùa 1960 - 1961. Vùng Australia và nam Thái Bình Dương, tên phụ nữ được lấy làm tên bão từ năm 1964 và 10 năm sau thì tên của nam cũng được dùng. II.5. Công tác dự báo bão Các cơn bão nhiệt đới thường gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với các quốc gia mà nó đi qua, cả một khu vực rộng lớn có thể trở thành những đống đổ nát hoang tàn chỉ sau một đêm cơn bão đổ bộ. Nó không chỉ gây tổn thất lớn về kinh tế, làm thiệt hại tính mạng con người mà còn gây ô nhiễm môi trường, bệnh dịch ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của nhân dân. Chính vì những lí do đó nên việc phát hiện, theo dõi và dự báo bão có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. II.5.1. Phát hiện và theo dõi bão     Bão là một thiên tai nguy hiểm nên qua hàng ngàn năm lao động sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và giao thông đường biển con người đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm nhận biết, phán đoán sự phát sinh của bão. Đến nay, nhiều kinh nghiệm đã được giải thích bằng các kiến thức khoa học, những kinh nghiệm này chủ yếu dựa vào những thay đổi trạng thái của bầu trời, mặt biển và những biểu hiện khác thường trong hoạt động sống của một số sinh vật... * Trạng thái bầu trời Bầu trời quang đãng, không khí oi bức, ngột ngạt, lặng gió kéo dài vài ba ngày, sau đó xuất hiện mây ti tích (một loại mây tầng cao ở độ cao khoảng 7km trở lên, gồm các đám, màn hoặc lớp mây mỏng không có bóng, cấu thành từ những phần tử rất nhỏ có hình dạng trông như những hạt hay nếp nhăn) hội tụ về một hướng chân trời. Sau mây tầng cao xuất hiện mây vũ tích (một loại mây lớn và đặc, phát triển dữ dội theo chiều thẳng đứng trông như những dãy núi đồ sộ, giới hạn trên thường nhẵn lì hay dạng tơ sợi, hình dẹt như cái đe, chân mây đen và có kèm theo mây thấp rách xác xơ), gió tăng dần. Đây là dấu hiệu cho thấy bão có thể đang di chuyển từ hướng đó tới. Hình 7: Mây ti tích (trái) và mây vũ tích (phải) Chớp xa xuất hiện liên tục, đều đặn, gây nhiễu âm, cản trở hoạt động của máy thu thanh. Hướng có chớp sáng nhất là hướng đang có bão hoạt động. Đối với vùng ven nước ta, trước khi bão tới thường xuất hiện chớp ở hướng đông nam. Kinh nghiệm này đã được đúc kết thành ca dao: “Đông nam có chớp chéo nhau Thấp sát mặt biển hôm sau bão về” Ngư dân vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ có kinh nghiệm: sáng sớm nhìn về phía đông thấy mây ti tích dạng “vẩy tê tê” di chuyển từ phía đông về phía tây là dấu hiệu cho thấy có khả năng một vài ngày tới sẽ có bão, biển sẽ động mạnh. Kinh nghiệm này khá phù hợp với thực tiễn của mây bão, vì mây ti tích ở tầng cao thường tỏa rất xa về phía trước bão. * Trạng thái mặt biển Sự xuất hiện của sóng lừng, hướng lan truyền của sóng không trùng với hướng gió là dấu hiệu cho thấy có bão hoạt động ở cách xa hàng trăm km. Nhìn chung, hướng lan truyền của sóng gần trùng với hướng di chuyển của bão. Tuy nhiên, sóng lừng có thể không xuất hiện ở những vùng biển quá gần bờ hoặc có nhiều đảo. Mặt biển từ trạng thái lặng chuyển dần sang trạng thái động, mức độ tăng dần. * Dấu hiệu khác thường của gió và sinh vật Nhiều kinh nghiệm đã được đúc kết thành các câu ca dao, tục ngữ về bão lưu truyền từ bao đời nay, chẳng hạn như: "Tháng bẩy heo may Chuồn chuồn bay thì bão" Hoặc: "Kiến đắp thành thì bão Kiến ẵm con chạy ráo thì mưa". Tháng bẩy trong câu ca dao trên là tháng bẩy âm lịch, thường là tháng tám dương lịch, là một trong những tháng chính của mùa bão ở miền Bắc nước ta. Trong tháng này, “gió bắc heo may”, tức là gió ở vùng phía trước của bão đang hoạt động ở ngoài biển khơi và có khả năng ảnh hưởng đến đất liền trong vài ba ngày tới. Kinh nghiệm dân gian tuy có rất nhiều, song không phải mọi kinh nghiệm đều đúng và sử dụng được. Hiện nay, dưới sự phát triển của khoa học kĩ thuật thì việc phát hiện, theo dõi bão đã được tiến hành một cách khoa học và chính xác tạo rất nhiều thuận lợi cho công tác phòng chống bão. Từ những năm đầu của thế kỷ XX, bão được phát hiện và theo dõi thông qua việc phân tích các bản đồ thời tiết dựa trên các số liệu khí áp, mây, mưa… thu nhận được từ lưới trạm quan trắc khí tượng ven bờ biển, trên các hải đảo và tàu biển trên các khu vực rộng lớn hoặc toàn cầu. Đến nay, các trạm quan trắc khí tượng không ngừng hoàn thiện và các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là các vệ tinh khí tượng cung cấp thường xuyên các ảnh mây đen trắng hoặc ảnh mầu có độ phân giải cao bao trùm toàn bộ trái đất, các cơn bão có thể được phát hiện ngay từ khi chúng mới hình thành ở giữa đại dương cách xa đất liền hàng ngàn km. Ngoài ra, khi bão cách bờ biển vài trăm km, rađa thời tiết cũng là phương tiện hữu để theo dõi bão. Hiện nay, các cơn bão được các cơ quan khí tượng quốc tế, khu vực (trong đó có Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia) theo dõi sát sao từ khi bắt đầu hình thành, trong suổt quá trình di chuyển, phát triển đến khi hoàn toàn tan rã. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bão phát sinh ngay sát bờ biển nước ta, di chuyển về hướng tây và đổ bộ vào đất liền chỉ trong khoảng từ vài giờ tới nửa ngày kể từ khi hình thành. Trong trường hợp này, thời gian dự báo sớm nhất cũng chỉ được từ vài giờ đến nửa ngày. Ví dụ như ở nước ta các mạng lưới quan trắc khí tượng cũng rất phát triển. Hiện có 6 trạm ra đa thời tiết gồm 8 ra đa phục vụ phát hiện, theo dõi bão và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm khác, trong đó có 03 ra đa thời tiết TRS - 2730 do Pháp chế tạo đặt tại Phù Liễn (Hải Phòng), Vinh (Nghệ An) và Việt Trì (Phú Thọ), 03 ra đa thời tiết DOPPLER do Hoa Kỳ chế tạo đặt tại Tam Kỳ (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hoà) và Nhà Bè (Tp. Hồ Chí Minh), 02 ra đa thời tiết MRL - 5 do Liên Xô (cũ) chế tạo, đặt tại Phủ Liễn (Hải Phòng) và Vinh (Nghệ An). Mặt khác, ở nước ta hiện còn có 17 trạm khí tượng thủy văn biển quan trắc các yếu tố khí tượng và các yếu tố hải dương: sóng, mực nước biển, thủy triều v.v... Ngoài ra, còn có 1 tàu nghiên cứu biển phục vụ điều tra khảo sát biển và1 trạm thu số liệu vệ tinh địa tĩnh GMS và vệ tinh quỹ đạo cực NOOA với độ phân giải cao ở Hà Nội. Đài Khí tượng thuỷ văn khu vực Đông Bắc Một trạm khí tượng ở Việt Nam Hình 8: Các địa điểm quan trắc khí tượng II.5.2. Dự báo bão II.5.2.1. Trên thế giới Để phục vụ cho công tác dự báo thời tiết người ta sử dụng thang đo sức gió, hiện nay chủ yếu thường sử dụng thang sức gió Beaufort và thang bão Saffir - Simpson. Thang sức gió Beaufort là thang đo kinh nghiệm về sức gió, chủ yếu dựa vào tình trạng của mặt biển hay trạng thái của sóng. Thang này được tạo ra bởi sĩ quan hải quân người Ailen - Sir Francis Beaufort vào năm 1805. Sau đây là bảng mô tả cụ thể thang cấp gió Beaufort: Thang độ và miêu tả thang sức gió Beaufort Cấp Beaufort Vận tốc gió ở 10 m trên mực nước biển (hải lý/km/h/mph) Mô tả Độ cao sóng (m) Tình trạng mặt biển Tình trạng đất liền 0 Nhỏ hơn 1/1 Êm đềm 0 Phẳng lặng Êm đềm 1 2/1 - 6/2 Gió rất nhẹ 0,1 Sóng lăn tăn, không có ngọn. Chuyển động của gió thấy được trong khói. 2 5/7 - 11/6 Gió thổi nhẹ vừa phải 0,2 Sóng lăn tăn. Cảm thấy gió trên da trần. Tiếng lá xào xạc. 3 9/12 - 19/11 Gió nhẹ nhàng 0,6 Sóng lăn tăn lớn. Lá và cọng nhỏ chuyển động theo gió. 4 13/20 - 29/15 Gió vừa phải 1 Sóng nhỏ. Bụi và giấy rời bay lên. Những cành cây nhỏ chuyển động. 5 19/30 - 39/22 Gió mạnh vừa phải 2 Sóng dài vừa phải (1,2 m). Có một chút bọt và bụi nước. Cây nhỏ đu đưa. 6 24/40 - 45/27 Gió mạnh 3 Sóng lớn với chỏm bọt và bụi nước. Cành lớn chuyển động. Sử dụng ô khó khăn. 7 30/51 - 62/35 Gió mạnh 4 Biển cuộn sóng và bọt bắt đầu có vệt. Cây to chuyển động. Phải có sự gắng sức khi đi ngược gió. 8 37/63 - 75/42 Gió mạnh hơn 5,5 Sóng cao vừa phải với ngọn sóng gẫy tạo ra nhiều bụi. Các vệt bọt nước. Cành nhỏ gẫy khỏi cây. 9 44/76 - 87/50 Gió rất mạnh 7 Sóng cao (2,75 m) với nhiều bọt hơn. Ngọn sóng bắt đầu cuộn lại. Nhiều bụi nước. Một số công trình xây dựng bị hư hại nhỏ. 10 52/88 - 102/60 Gió bão 9 Sóng rất cao. Mặt biển trắng xóa và xô mạnh vào bờ. Tầm nhìn bị giảm. Cây bật gốc. Một số công trình xây dựng hư hại vừa phải. 11 60/103 - 117/69 Gió bão dữ dội 11,5 Sóng cực cao. Nhiều công trình xây dựng hư hỏng. 12 64/118 - 132/73 và cao hơn Gió bão cực mạnh 14 Các con sóng khổng lồ. Không gian bị bao phủ bởi bọt và bụi nước. Biển hoàn toàn trắng với các bụi nước. Nhìn gần cũng không rõ. Nhiều công trình hư hỏng nặng. Thang sức gió Beaufort chỉ dừng lại ở cấp 12, ngày nay đôi khi các cơn bão mạnh được đánh số từ 12 đến 16. Chính vì vậy, người ta sử dụng thang bão Saffir -Simpson. Thang bão này có 5 loại ứng với bão loại 1 có số Beaufort là 12, bão loại 2 có số Beaufort là 13… Thang bão Saffir - Simpson là thang đo cấp bão của Hoa Kì, nó thường được dùng để mô tả bão ở vùng biển nhiệt đới Đại Tây Dương. Thang bão Saffir-Simpson được mô tả như sau: Cấp bão Sức gió Sóng cồn Áp suất tâm bão Khả năng gây thiệt hại 1 119 - 153 km/h 1,2 - 1,5 m 735 mm Hg Không có thiệt hại thực sự cho các cấu trúc xây dựng, chỉ thiệt hại cho nhà cửa di động không néo chặt, cây cối và bụi rậm. 2 154 - 177 km/h 1,8 - 2,4 m 724 - 734 mm Hg Làm hư hỏng một số mái nhà và cửa sổ, thiệt hại đáng kể cho cây trồng. Có thể gây ra hiện tượng ngập lụt. 3 178 - 209 km/h 2,7 - 3,7 m 709 - 723 mm Hg Gây thiệt hại cho các công trình xây dựng nhà cửa di động bị phá sập. Gây ngập lụt ven biển và có thể cả đất liền. 4 210 - 249 km/h 4,0 - 5,5 m 690 - 708 mm Hg Mái của những ngôi nhà nhỏ bị phá hỏng, xói mòn mạnh ven biển, ngập lụt trong đất liền. 5 > 70m/s >5,5 m <690 mm Hg Các công trình nhỏ bị cuốn bay, thiệt hại nặng nề cho các công trình lớn, có thể phải tản cư dân chúng. II.5.2.2. Ở Việt Nam Với trình độ khoa học và cơ sở khoa học kỹ thuật hiện nay người ta có thể phát hiện bão từ rất sớm. Song ở Việt Nam chúng ta chỉ dự báo những cơn bão hoạt động trên biển Đông, bởi vì đây là những cơn bão có nhiều khả năng đổ bộ vào đất liền nước ta. Thời gian dự báo trước hướng và tốc độ di chuyển của một cơn bão phụ thuộc vào khoảng cách từ tâm bão đến bờ biển đất liền và tốc độ di chuyển của nó. Khoảng cách đó càng lớn và tốc độ di chuyển của bão càng chậm thì thời gian báo trước được càng dài. Nguy hiểm nhất là các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBão nhiệt đới.doc
Tài liệu liên quan