PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 2
PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 3
2.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái 3
2.1.1. Nguồn gốc 3
2.1.2. Đặc điểm sinh học của lợn Móng Cái 3
2.2. Tính trạng số lượng 4
2.2.1. Khái niệm tính trạng số lượng 4
2.2.2. Tính trạng số lượng 4
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng 5
2.3.1. Giá trị kiểu gene (G- Genotypic Value) 6
2.3.2. Sai lệch môi trường (E- Environmental Deviation) 8
2.4. Các yếu tố di truyền và ngoại cảnh ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản 8
2.4.1. Các yếu tố di truyền ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản 8
2.4.2. Các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến năng suất sinh sản 9
57 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1125 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu xác định đặc điểm di truyền một số tính trạng cơ bản về sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công tác chọn lọc.
Hệ số tương quan kiểu hình (rp). Hệ số tương quan kiểu hình biểu thị mối quan hệ giữa các giá trị kiểu hình của các tính trạng. Ví dụ lợn đẻ nhiều con thì khối lượng sơ sinh thấp, khối lượng sơ sinh/con cao thì khối lượng cai sũa/con cũng cao.
Hệ số tương quan di truyền (rG). Hệ số tương quan di truyền là mối tương quan do các gen quy định đồng thời hai hoặc nhiều tính trạng gây ra. Mối quan hệ này do tác động đa hiệu gene, nghĩa là một gene đồng thời điều khiển cả hai tính trạng mà cũng có thể là do hai hệ thống gene liên kết điều khiển cả hai tính trạng. Như vậy, nguyên nhân chủ yếu của tương quan di truyền là hiện tượng tính đa hiệu gene. Một gene có thể làm tăng hoặc giảm đồng thời cả hai tính trạng tương quan (+), một số gene có thể làm tăng tính trạng này nhưng lại giảm tính trạng khác tương quan (-) (Falconer d.S.,1993, Trần Đình miên và cộng sự, 1994 ; Nguyễn Văn Thiện, 1995; Kiều Minh Lực, 1999).
Tương quan di truyền và tương quan kiểu hình cá thể khác nhau về độ lớn và chiều. Giữa hai tính trạng có thể có hệ số tương quan kiểu hình cao, trong lúc đó tương quan di truyền lại thấp và ngược lại. Mặt khác, có thể gặp tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng là âm nhưng tương quan di truyền lại dương và ngược lại.
Công thức tính hệ số tương quan như sau :
rxy : Hệ số tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng
δxy : Hiệp phương sai giữa hai tính trạng x và y
δx: Độ lệch chuẩn của tính trạng x
δy: Độ lệch chuẩn của tính trạng y
2.6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.6.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm di truyền của các giống lợn như Rydhmer L. và cộng sự (1995); McPhee C.P. và cộng sự (1995) ; Kerr J.C. và Cameron N. D (1996).
Bidanel J. P và cộng sự (1996) đã xác định được tính trạng di truyền của các tính trạng kinh tế quan trọng như số con sơ sinh sống/ổ, tăng trọng, tiêu tốn thức ăn, tỷ lệ nạc... Estany J. và Sorensen D. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu đánh giá các thông số di truyền cho số con/ổ ở lợn Landrace (LR) và Yorkshire ở Đan Mạch.
Haley C.S. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu so sánh khả năng sinh sản giữa các giống lợn Meishan và Yorkshier với tổ hợp lai của chúng. Tholen E và cộng sự (1996) đã nghiên cứu mối tương quan giữa cai sữa lợn con với khoảng cách lứa đẻ, năng suất sinh sản lợn nái nuôi tại Autralia.
Hermesch S. và cộng sự (1995) đã nghiên cứu mối tương quan giữa tính trạng số con sơ sinh với các tính trạng khác. Bass T J. và cộng sự (1992) đã áp dụng chọn lọc và xác định hệ số lặp lại trong chương trình chọn giống lợn và thu được kết quả đáng kể.
2.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản, hệ số di truyền, tương quan di truyền. Phần lớn các tác giả tập trung vào nghiên cứu đặc điểm sinh học, quy trình nuôi dưỡng, các công thức lai kinh tế giữa lợn nội với lợn ngoại ở các cơ sở giống nhà nước.
Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2001); Nguyễn Văn Nhiệm và cộng sự (2002); Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) đã nghiên cứu sâu sắc về các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản và sản xuất cơ bản trên các giống lợn Móng Cái, Landrace, LargeWhite và con lai của chúng, đã rút ra những kết luận quan trọng trong quá trình phục vụ sản xuất. Ngoài ra, Trần Thị Minh Hoàng và cộng sự (2003) còn xác định ảnh hưởng của các yếu tố cố định đến các tính trạng sản xuất của 3 tổ hợp lai giữa Móng Cái, Landrace, Pientrai.
Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2002) đã công bố một số kết quả về hệ số di truyền, hệ số lặp lại và tương quan di truyền giữa các tính trạng sinh sản cơ bản của các giống lợn hiện có tại Việt Nam.
Nguyễn Văn Đức và Giang Hồng Tuyến (2001) đã nêu được kỹ thuật chăn nuôi lợn Móng Cái, cách phòng trị bệnh cũng như việc hoạch toán hiệu quả trong việc chăn nuôi lợn Móng Cái.
Nghiên cứu xác định đàn lợn hạt nhân giống Landrace và Yorkshire dòng mẹ có năng suất cao tại xí nghiệp giống vật nuôi Đoàn Xuân Trúc, Tăng Vĩnh Linh (2000) Trần Xuân Hảo (2002) xác định một số chỉ tiêu sinh sản, năng suất chất lượng thịt Landrace và Yorkshire có các kiểu gene Halothan khác nhau.
Vũ Đình Tôn, Phan Văn Chung, Nguyễn Văn Duy, Nguyễn Công Oánh (2008) nghiên cứu khả năng sinh sản của một số tổ hợp lai PietraiDuroc và LandraceYorkshre với đực Landrace.
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trong nghiên cứu này là 2 nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 đã được chọn lọc từ năm 1999, tại công ty chăn nuôi Hải Phòng.
Hai nhóm huyết thống lợn MC là MC3000 và MC15 thuần chủng được bộ môn di truyền - Giống vật nuôi, Viện Chăn Nuôi lựa chọn từ năm 1997 dựa trên tổng số 7 nhóm huyết thống của giống Móng Cái hiện có với đầy đủ thông tin (Công ty chăn nuôi Hải Phòng trại lợn giống Tràng Dụê có 4 nhóm).
Mỗi nhóm có một đực đầu nhóm, tên của con đực được đặt tên cho nhóm. Sau khi phân tích số liệu, sử dụng chương trình PROC GLM (SAS, 1993) và DEREML (Meyer K, 1993) để xác định giá trị di truyền. Năm 1999 Bộ môn Di Truyền Giống vật nuôi đã chọn được 2 nhóm lợn Móng Cái cao sản MC3000 và MC15 là 2 nhóm tốt hơn hẳn 5 nhóm còn lại.
Các kết quả nghiên cứu bước đầu đã được đánh giá xuất sắc tại Hội đồng khoa học Viện Chăn Nuôi năm 2000 và hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 4 năm 2001. Hai nhóm lợn MC3000 và MC15 này đã được chọn để chọn lọc nghiên cứu nâng cao chất lượng.
Với những kết quả đạt được trong quá trình chọn lọc, năm 2003, hai nhóm lợn MC3000 và MC15 đã đươc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đánh giá là một trong những giống cây con đạt chuẩn quốc gia .
Hai nhóm lợn Móng Cái này cũng được Nguyễn Văn Đức lựa chọn nghiên cứu (1999).
Bước đầu thu được kết quả như sau: Nhóm lợn MC3000 có số con sơ sinh sống/ổ cao nhất là 11,46 con so với trung bình nhóm lợn khác là 10,56con/ổ. Vì vậy, chúng tiếp tục được lựa chọn làm nguyên liệu để tiếp tục nghiên cứu nhằm chọn lọc ra giống lợn Móng Cái có khả năng sinh sản tốt nhất trong hệ thống giống lợn Việt Nam.
3.2. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 2/2009 - 7/2009
3.3. Địa điểm nghiên cứu:
Công ty Chăn nuôi Hải Phòng - Một trong những cơ sở giống được nhà nước công nhận và giao trách nhiệm giữ giống gốc lợn Móng Cái.
3.4. Nội dung nghiên cứu
3.4.1. Phân tích một yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng sinh sản của 2 nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
- Tuổi phối giống lần đầu (TPLĐ)
- Tuổi đẻ lứa đầu (TĐLĐ)
- Khoảng cánh giữa hai lứa đẻ (KCLĐ)
- Số con sơ sinh sống/ổ (SCSSS)
- Số con cai sữa/ổ (SCCS)
- Khối lượng sơ sinh/con (PSS)
- Khối lượng cai sữa/con (Pcs)
3.4.2. Xác định năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
3.4.3. Xác định hệ số di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
3.4.3. Xác định hệ số tương quan di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
3.4.4. Xác định hệ số di truyền của các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
3.5. Phương pháp nghiên cứu
3.5.1. Bố trí thí nghiệm và thu thập số liệu theo dõi các chỉ tiêu về năng suất sinh sản
Sử dụng số liệu 100 con lợn nái và 6 con lợn đực giống của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 để nghiên cứu thu thập các tính trạng sinh sản cơ bản qua các lứa đẻ:
- Ngày tháng năm của từng lợn nái được sinh ra và đẻ ra qua các lứa.
- Tuổi phối lần đầu
- Tuổi đẻ lứa đầu
- Khoảng cách giữa hai lứa đẻ - Số con sơ sinh sống/ổ
- Số con cai sữa/ổ
- Khối lượng sơ sinh/con
- Khối lượng cai sữa/con
3.5.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản
Mô hình toán học để phân tích các tính trạng sinh sản :
Yijkl= μijkl + NGi + ĐPj + LĐk +
Trong đó :
- Yijkl là năng suất sinh sản của lợn nái thứ l, nhóm giống thứ i, đực phối thứ j, lứa đẻ thứ k .
- μijkl là giá trị trung bình của quần thể
- NGi là ảnh hưởng của nhóm giống thứ i
- LĐk là ảnh hưởng của lứa đẻ thứ k
- ĐPj là ảnh hưởng của đực phối thứ j
- là sai số ngẫu nhiên
3.5.3. Tính toán tham số thống kê một số tính trạng sinh sản
- Số trung bình bình phương nhỏ nhất (LSM)
- Sai số chuẩn ( SE).
3.5.4. Ước tính hệ số di truyền, hệ số tương quan di truyền
3.5.4.1. Hệ số di truyền
Sử dụng mô hình thống kê hỗn hợp phân tích tính trạng riêng rẽ để ước tính hệ số di truyền như sau:
Yijkl = + Đi + Mej + Lk+
Trong đó :
- Yijkl là năng suất sinh sản của lợn nái thứ l.
- là giá trị trung bình của quần thể.
- Đi là ảnh hưởng của đực phối thứ i.
- Mej là ảnh hưởng của mẹ thứ j.
- Lk là ảnh hưởng của lứa đẻ thứ k.
- là sai số ngẫu nhiên
Sau đó hệ số di truyền được tính theo công thức:
3.5.4.2. Hệ số tương quan di truyền
Phương pháp phân tích phương sai: phương pháp này căn cứ vào phân tích phương sai của các gia đình có bố mẹ (tức là anh chị em có cùng bố khác mẹ) để tính các hệ số tương quan, đây là phương pháp thích hợp nhất để tính các hệ số tương quan. Trong thực tế người ta thường tính các hệ số tương quan theo phương pháp quan hệ tương quan và phân tích phương sai thành phần theo mô hình động vật đa tính trạng.
rxy : Hệ số tương quan kiểu hình giữa hai tính trạng
δxy : Hiệp phương sai giữa hai tính trạng x và y
δx: Độ lệch chuẩn của tính trạng x
δy: Độ lệch chuẩn của tính trạng y
3.6. Công cụ xử lý
- Các tham số thống kê và các yếu tố ảnh hưởng được xác định bằng phương trình SAS (1999).
- Các tham số di truyền tính bằng phương trình DFREML của Meyer (1999).
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
Như chúng ta đã biết, có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng năng suất sinh sản ở lợn gọi chung là yếu tố về di truyền và yếu tố về ngoại cảnh. Các yếu tố di truyền và ngoại cảnh hầu hết đều gây ảnh hưởng đến các tính trạng về năng suất sinh sản của lợn song ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào giống và điều kiện môi trường.Với việc lựa chọn 3 yếu tố nhóm giống, đực phối, lứa đẻ thì mức độ ảnh hưởng đến những yếu tố này đến các tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 được trình bày ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hai nhóm lợn Móng Cái
MC3000 và MC15
Tính trạng
n
R2
Các yếu tố
Nhóm giống
Đực phối
Lứa đẻ
Tuổi phối lần đầu
100
0,45
***
-
-
Tuổi đẻ lứa đầu
100
0,48
***
*
-
Khoảng cách lứa đẻ
661
0,26
***
**
**
Số con sơ sinh sống/ổ
761
0,37
***
***
***
Số con cai sữa/ổ
761
0,25
***
**
***
Khối lượng sơ sinh/con
599
0,32
***
***
**
Khối lượng cai sữa/con
761
0,60
***
***
**
*: P < 0,05; **: P <0,01; ***: P <0,001
Kết quả ở bảng 4.1 cho thấy hầu hết các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 đều bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cố định ở các mức độ khác nhau từ P <0,05 đến P <0,001.
Yếu tố nhóm giống
Nhóm giống là một yếu tố về mặt di truyền, xét trên bảng kết quả 4.1: Yếu tố nhóm giống có ảnh hưởng rõ rệt đến tất cả các tính trạng sinh sản (P <0.001). Như vậy, rõ ràng việc lựa chọn các nhóm giống khác nhau thì năng suất sinh sản của lợn nái cũng chịu ảnh hưởng khác nhau.
Mức độ ảnh hưởng của yếu tố di truyền nhóm giống trong nghiên cứu này phù hợp với các kết quả của Nguyễn Văn Đức (1997) phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản của lợn Móng Cái nuôi tại các tỉnh trong cả nước (P <0.001).
Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cố định đến số con sơ sinh sống/ổ của lợn nái Móng Cái, Large White, Landrace và các tổ hợp lai của chúng (P <0,001).
Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2004) cho biết yếu tố giống ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng số con sơ sinh sống/ổ của hai nhóm lợn Large White và Yorkshire máu tươi tại Công ty Chăn nuôi Hải Phòng (P <0.001).
Tạ Thị Bích Duyên (2003) nghiên cứu trên hai giống lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại An Khánh, Thụy Phương và Đông Á cho biết các yếu tố cố định giống có ảnh hưởng rõ rệt đến tính trạng năng suất sinh sản.
Yếu tố đực phối
Nhìn vào bảng 4.1 nhận thấy yếu tố đực phối gây ảnh hưởng lớn đến tất cả các tính trạng sinh sản cơ bản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 nuôi tại Công ty Chăn nuôi Hải Phòng (P <0,05 đến P <0,001). Như vậy, lợn nái được phối với các đực giống khác nhau cho năng suất sinh sản khác nhau.
Các kết quả trong nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây của một số tác giả phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15. Nguyễn Văn Đức (1997) phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng năng suất sinh sản của lợn Móng Cái nuôi tại các tỉnh (P <0,001).
Nguyễn Văn Nhiệm và cộng sự (2002) phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến năng suất sinh sản của lợn Móng Cái nuôi tại Quảng Bình.
Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến số con sơ sinh sống/ổ của lợn nái Móng Cái, Large White, Landrace và các tổ hợp lai của chúng.
Yếu tố lứa đẻ
Yếu tố lứa đẻ là yếu tố gây ảnh hưởng rất rõ rệt đến các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 (P <0,01 đến P <0,001) điều đó nói nên rằng lợn nái đẻ các lứa khác nhau cho năng suất sinh sản khác nhau.
Các kết quả trong nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của yếu tố lứa đẻ phù hợp với các nghiên cứu trước đây của các tác giả như Nguyễn Văn Đức (1997) phân tích yếu tố ảnh hưởng đến tính trạng năng suất sinh sản của lợn Móng Cái nuôi tại các tỉnh.
Nguyễn Văn Nhiệm và cộng sự (2002) phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cố định đến năng suất sinh sản của lợn Móng Cái nuôi tại Quảng Bình.
Nguyễn Văn Đức và Trần Thị Minh Hoàng (2002) phân tích mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cố định đến số con sơ sinh sống/ổ của lợn nái Móng Cái, Large White, Landrace và các tổ hợp lai của chúng.
Nhiều nghiên cứu liên quan tới yếu tố lứa đẻ cũng đều đưa ra kết luận chung là số con/ổ tăng từ lứa đẻ thứ nhất đến lứa đẻ thứ 4 và 5 và sau đó giảm dần đến lứa đẻ thứ 10 phù hợp với kết quả nghiên Nguyễn Văn Đức (1997) và Tạ Thị Bích Duyên (2003).
Theo Koketsu và Annor (1997), lợn nái đẻ từ lứa thứ 2 đến lứa thứ 5 có số con/ổ nhiều hơn so với đẻ lứa 1 và từ lứa 8 trở đi (P <0,05), khối lượng trung bình của lợn con sơ sinh thấp hơn so với các lứa khác (P <0.05) (Koketsu và cộng sự, 1998).
Dan và Summer (1995) cho rằng khi tuổi thụ thai lần đầu tăng thì số con ở lứa đầu cũng tăng.
Lợn nái đẻ lứa thứ nhất có số con/ổ ít hơn lứa thứ 2 trở đi (Rydhmer và cộng sư, 1995) (Phùng Thị Vân và cộng sự, 1999), điều này có thể là do số lượng trứng rụng tăng lên từ lứa thứ 2 (Đặng Vũ Bình, 1993; Dan và Summer, 1995).
Nhìn chung, hệ số xác định đối với các tính trạng sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 đều ở mức thấp, phù hợp quy luật chung trên các nghiên cứu về lợn. Các yếu tố trong nghiên cứu này xác định 25% - 60%. Các tính trạng về tuổi phối lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu và khoảng cách lứa đẻ biến động từ 26% - 48% trong tổng biến đổi, các tính trạng số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ biến động từ 25% - 37%. Các tính trạng khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con biến động từ 32% - 60%.
Trong đó tính trạng số con sơ sinh/ổ ít bị tác động bởi các yếu tố nhất (25 %) và tính trạng khối lượng cai sữa/con bị tác động lớn nhất (60%).
4.2. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15
Nghiên cứu năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 ở hai vấn đề cơ bản đó là năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái ở tất cả các lứa đẻ (bảng 4.2.) và số con sơ sinh sống/ổ qua các lứa đẻ (bảng 4.3.).
Bảng 4.2. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 ở tất cả các lứa đẻ
TÝnh tr¹ng
§¬n vÞ
Nhãm MC3000
Nhãm MC15
P
n
LSM
SELSM
n
LSM
SELSM
Tuæi phèi lÇn ®Çu
ngµy
50
239,68
1,58
50
247,51
1,58
<0,001
Tuæi ®Î løa ®Çu
ngµy
50
357,33
1,62
50
368,17
1,62
<0,001
Kho¶ng c¸ch løa ®Î
ngµy
339
173,44
0,36
322
179,35
0,36
<0,001
Sè con s¬ sinh sèng/æ
con
389
12,39
0,05
372
11,78
0,05
<0,001
Sè con cai s÷a/æ
con
389
9,57
0,03
372
9,31
0,03
<0,01
Khèi lîng s¬ sinh/con
kg
323
0,51
0,003
276
0,53
0,003
<0,05
Khèi lîng cai s÷a/con
kg
389
6,03
0,01
372
6,38
0,01
<0,001
4.2.1. Năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 ở tất cả các lứa đẻ
Nhìn chung, nghiên cứu về năng suất sinh sản của lợn nái thì tuổi phối lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách lứa đẻ, số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa sống/ổ, khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con được coi là những tính trạng quan trọng nhất quyết định hiệu quả kinh tế ngành chăn nuôi lợn nái. Vì vậy các tính trạng được chúng tôi chọn làm mục tiêu nghiên cứu trong đề tài này.
Các giá trị trung bình bình phương nhỏ nhất và sai số chuẩn tương ứng của chúng đối với tính trạng năng suất sinh sản của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 được trình bày ở bảng 4.2
Tuổi phối lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách lứa đẻ
Tuổi phối lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách lứa đẻ được biểu thị ở biểu đồ 4.1 như sau:
4.1. Biểu đồ biểu thị tuổi phối lứa đầu, tuổi đẻ lứa đầu, khoảng cách lứa đẻ
Tuổi phối lần đầu
Tuổi phối lứa đầu đây là một chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái hậu bị, chỉ tiêu này giúp cho việc đề ra lịch khai thác đúng tiềm năng sinh sản của lợn nái trong quá trình sản xuất, từ đó nâng cao sức sản xuất của lợn nái trong một đời sinh sản.
Tuổi phối giống lần đầu sớm hay muộn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả chăn nuôi. Theo bảng 4.2 và đồ thị 4.1 thì thấy nhóm lợn nái Móng Cái MC3000 có tuổi phối lần đầu 239,68 ngày và nhóm lợn Móng Cái MC15 247,51 ngày với mức độ sai khác P <0,001. Nhìn mức độ sai khác giữa hai nhóm lợn Móng Cái (P <0,001) khẳng định lợn Móng Cái MC3000 chóng thành thục hơn MC15.
Các giá trị tính toán này với Móng Cái MC3000 nó cũng tương đương kết quả 6 - 8 tháng tuổi tại nghiên cứu của Lê Viết Ly (1999).
Jang Hyung Lee (1993) đã thông báo kết quả nghiên cứu các tính trạng sinh sản của lợn lái hậu bị cho thấy lợn có thể động dục sớm từ lúc 4 - 5 tháng tuổi nhưng tuổi phối giống thích hợp vẫn là 7 - 8 tháng tuổi. Đây là thời kỳ mà lợn nái đạt tới độ thành thục về tính, đảm bảo thể trạng và các yếu tố cần thiết để nuôi con.
Tuổi đẻ lứa đầu
Cũng tương tự như tuổi phối giống lần đầu, tuổi đẻ lứa đầu của nhóm lợn Móng Cái MC3000 (357,33 ngày) thấp hơn so với lợn Móng Cái MC15 (368,17 ngày) với mức độ sai khác P <0,001. Tuổi phối lần đầu của lợn Móng Cái MC3000 thấp hơn MC15 dẫn tới tuổi đẻ lứa đầu của Móng Cái MC3000 thấp hơn MC15. Kết quả nghiên cứu này cho thấy tuổi đẻ lứa đầu của Móng Cái MC3000 thấp hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu cùng giống lợn Móng Cái của Nguyễn Văn Đức (1997) là 388,10 ngày với lợn Móng Cái MC3000 và MC15 ; Nguyễn Văn Thiện và cộng sự (1999) là 374,06 ngày.
Kết quả nghiên cứu Móng Cái MC15 tương ứng kết quả (363 - 376,2 ngày) của Phùng Thị Vân và cộng sự (2000) nghiên cứu trên đàn lợn nuôi tại trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương.
Tuổi đẻ lứa đầu trong nghiên cứu này có giá trị nhỏ hơn là do trong những năm gần đây nhà nước đã đưa giống lợn Móng Cái là một trong những giống cây con chuẩn quốc gia, cùng chủ trương Móng Cái hoá đàn lợn lợn Móng Cái được quan tâm nhiều hơn, được chọn lọc cùng chế độ chăm sóc tốt hơn nhằm bảo tồn và phát triển những tính trạng quý của giống lợn truyền thống này.
Khoảng cách lứa đẻ
Khoảng cách lứa đẻ của lợn nái Móng Cái MC3000 và MC15 là rất tốt lần lượt là 173,44 ngày và 179,35 ngày với mức độ sai khác rõ rệt P <0,001.
Các giá trị này cho thấy tương đương kết quả nghiên cứu của Lê Viết Ly (1999) 5,5 - 6 tháng và cao hơn kết quả 169,02 ngày tìm được của Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2000) nghiên cứu trên lợn Móng Cái MC3000 và MC15. Trong các công trình nghiên cứu cùng giống lợn Móng Cái các kết quả này cao hơn 170,06 ngày trên nái ngoại của Phùng Thị Vân và cộng sự (1999) 153,3 ngày trên đàn lợn nuôi ở Pháp của Perrro Cheau (1994).
Nguyên nhân khoảng cách lứa đẻ của lợn Móng Cái cao hơn lợn ngoại là do khối lượng sơ sinh/con nhỏ hơn lợn ngoại nên thời gian cai sữa kéo dài hơn (60 ngày).
Từ kết quả về khoảng cách lứa đẻ cho thấy lợn nái Móng Cái MC3000 và MC15 có số lứa đẻ/nái/năm là 2,1 lứa và 1,85 lứa. Kết quả này thấp hơn kết quả của Nguyễn Văn Thiện và cộng sự (1999); tương đương kết quả 1,5 - 2 lứa của Lê Viết Ly (1999) và 1,75 lứa của Lê Hồng Minh (2000) cùng nghiên cứu trên giống lợn Móng Cái.
Các kết quả trên cho thấy khoảng cách lứa đẻ của Móng Cái MC3000 thấp hơn MC15 điều đó chứng tỏ Móng Cái MC3000 mắn đẻ hơn lợn MC15. Điều đó là căn cứ khẳng định có sự khác nhau rõ rệt về đặc điểm của nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 .
Từ kết quả phân tích trên của chúng tôi trong nghiên cứu này cho thấy sự khác nhau giữa hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 đối với tính trạng tuổi phối lần đầu; tuổi đẻ lứa đầu; khoảng cách lứa đẻ là rất rõ rệt (P <0,001).
Số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa
Số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ cũng là những tính trạng quan trọng để đánh giá năng suất sinh sản của lợn Móng Cái vì nó quyết định năng suất kinh tế trong chăn nuôi. Dựa vào bảng số liệu 4.2 có đồ thị số con sơ sinh sống/ổ và số con cai sữa/ổ như sau:
4.2. Biểu đồ biểu thị số con sơ sinh/ổ và số con cai sữa/ổ
Số con sơ sinh sống /ổ
Đối với chăn nuôi lợn nái, số con sơ sinh sống/ổ là tính trạng quan trọng nhất là chìa khoá quyết định năng suất chất lượng và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái.
Kết quả phân tích cho thấy số con sơ sinh sống/ổ của lợn Móng Cái MC3000 là 12,39 con/ổ và của MC15 là 11,78 con/ổ.
Khi so sánh lợn Móng Cái MC3000 và MC15 thì nhận thấy số con sơ sinh sống/ổ của lợn Móng Cái MC3000 cao hơn MC15 là 0,61 con/ổ sự sai khác này có ý nghĩa thống kê rõ rệt (P <0,001).
Điều này chứng tỏ số con sơ sinh sống trên ổ là cao, thông qua kết quả nghiên cứu có thể khẳng định mục tiêu chọn lọc với nhóm lợn Móng Cái MC3000 qua các năm đạt kết quả tốt, nâng cao hẳn so với Móng Cái MC15.
Đây là căn cứ khoa học và thực tiễn để khẳng định có sự sai khác rõ rệt về số con sơ sinh sống/ổ của hai nhóm lợn Móng Cái MC3000 và MC15 theo định hướng khác nhau (Nguyễn Văn Đức, chọn giống lợn Móng Cái, 2000).
Giá trị số con sơ sinh sống/ổ ở nhóm Móng Cái MC3000 và MC15 trong nghiên cứu này phù hợp với giá trị công bố của Lê Viết Ly (1999) nghiên cứu trên lợn Móng Cái là 10 - 14 con. Kết quả này cao hơn so kết quả trên giống của các tác giả trong nước; cao hơn từ 0,84 - 1,45 con so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức (1997) là 10,94 con, cao hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Đức và Giang Hồng Tuyến (2000) (11,31 con).
Cao hơn từ 0,68 - 1,29 con so kết quả nghiên cứu của Lê Hồng Minh (2000) (11,10 con) cao hơn từ 2,3 - 2,34 con và so với kết quả nghiên cứu của NguyễnVăn Nhiệm và cộng sự (2002) (9,48 - 10,05 con) và cũng cao hơn từ 0,93 - 1,54 con so với kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng (2002) trên lợn nái Móng cái phối đực Pietrain (10,85 con).
Và kết quả nghiên cứu này cao hơn trên các giống lợn ngoại của tác giả Nguyễn Văn Thiện và cộng sự (1995) (9,38 con); Trần Thế Thông và cộng sự (1995) (9,0 - 9,8 con); Đoàn Xuân Trúc và cộng sự (2000) (9,76 con); Phùng Thị Vân và cộng sự (2001) (10,04 con); Tạ Thị Bích Duyên (2003) (9,49 - 9,9 con).
Năng suất sinh sản của lợn nái Móng Cái cao hơn năng suất sinh sản của lợn nái ngoại vì bản chất di truyền của lợn Móng Cái có năng suất sinh sản cao hơn đặc biệt là số con sơ sinh sống/ổ.
Số con cai sữa/ổ
Đối với giống lợn Móng Cái do khối lượng sơ sinh nhỏ nên thời gian nuôi con dài (60 ngày) cao hơn lợn ngoại (45 ngày). Kết quả cho thấy số con cai sữa/ổ của nhóm MC3000 là 9,57 con/ổ và MC15 9,31 con/ổ với mức độ sai khác P <0,01. Mặc dù số con sơ sinh sống/ổ cao nhưng mục tiêu của chọn giống là để tăng số lượng lợn cái làm nái. Vì vậy, đây là mục tiêu chính của sử dụng nguồn gene Móng Cái; khai thác năng suất sinh sản cao đồng thời vẫn bảo đảm nuôi con của lợn mẹ cho nên chúng tôi giữ lại trung bình 10 lợn con sơ sinh sống/ổ với sự ưu tiên cho lợn cái. Tính trạng số lợn con cai sữa phụ thuộc vào số lợn con để lại nuôi.
Nhận thấy, vì số lợn con cai sữa/ổ có sự sai khác 9,57 con với MC3000 và 9,31 con với MC15 sự sai khác giữa hai nhóm lợn này về mặt thống kê là không rõ rệt (P <0,01) đối với tính trạng số con cai sữa/ổ. Nguyên nhân cũng có thể do số con để nuôi trung bình cho hai nhóm lợn trên cùng là 10 con/ổ. Và số con cai sữa/ổ của Móng Cái MC3000 cao hơn MC15 chỉ chứng tỏ rằng lợn MC3000 có khả năng nuôi con tốt hơn MC15 .
Các giá trị xác định về tính trạng số con sơ sinh sống/ổ của hai nhóm lợn MC3000 và MC15 phù hợp với kết quả thông báo của Nguyễn Văn Đức (1997) (9,26 con) Đặng Vũ Bình và Nguyễn Văn Thắng (2002) (9,15 con). Cao hơn kết quả nghiên cứu trên lợn ngoại của Hammon (1994); Haley và cộng sự (1995); Hung ghens (1995); Đoàn Xuân Trúc và cộng sự (20
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tranthingoc_Kn901.doc