Người bảo hiểm sẽ căn cứ vào giấy yêu cầu bảo hiểm để cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Sau khi HĐBH được ký kết mà có bất kỳ thay đổi nào về những thông tin đã cung cấp có liên quan đến lô hàng được bảo hiểm thì người được bảo hiểm có trách nhiệm thông báo cho người bảo hiểm biết ngay khi họ biết đựơc sự thay đổi đó. Khi nhận được thông báo này, người bảo hiểm sẽ cấp giấy sửa đổi bổ sung và có thể yêu cầu người được bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm.
86 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 2006
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
KH 2006 được giao
Thực hiện 2006
Tỷ lệ đạt so với KH giao (%)
1
Tổng doanh thu phí bảo hiểm
Triệu đồng
45000
49217
110
2
Doanh thu phí thuần
Triệu đồng
31500
32489
103
3
Thu từ hoạt động đầu tư
Triệu đồng
9370
19983
213
4
Lợi nhuận trước thuế
Triệu đồng
8180
12460
153
5
ROE
%
2,90%
4,71%
162
6
Lợi nhuận sau thuế bình quân đầu người
Triệu đồng
70
125
178
Bảng 1: Tổng hợp kết quả kinh doanh của BIC đến 31/12/2006
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của BIC trong năm 2006)
Tổng quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đến 31/12/2006 đạt 38620 triệu đồng.
Phân tích các chỉ tiêu hoạt động chính:
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
+ Tổng doanh thu phí đạt 49.2 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2005. Với việc mất đi nhiều lợi thế sau chuyển giao, doanh thu khai thác chủ yếu từ bảo hiểm gốc thì kết quả này đã khẳng định sự nỗ lực rất lớn của BIC trong việc không để mất thị phần. Nếu so sánh trên chỉ tiêu bảo hiểm gốc thì thị phần của BIC đã tăng từ 0,45% năm 2005 lên 0,75% vào cuối năm 2006.
+ Tỷ lệ nhượng tái bảo hiểm năm 2006 là 53%, năm 2005 là 21% nhưng tỷ lệ doanh thu phí thuần trên tổng doanh thu năm 2006 đạt 71%, cao hơn nhiều so với 2005 là 21%. Nguyên nhân chính là do một lượng lớn dự phòng phí chưa được hưởng của các đơn cấp vào cuối năm 2005 nay được chuyển vào phí được hưởng của năm 2006.
+ Khiếu nại, bồi thường: do có các quy định khai thác, quy trình giải quyết bồi thường chặt chẽ nên chất lượng rủi ro của công ty khá tốt so với các công ty khác trên thị trường. Tỷ lệ bồi thường của công ty chiếm 41,26% tổng phí giữ lại ròng.
- Hoạt động đầu tư:
Sau khi chuyển giao và giao nhận vốn, công ty đã chú trọng công tác đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi để gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, vì mất 4 tháng đầu năm chờ chuyển đổi ngoại tệ và giao vốn chính thức, và là năm đầu hoạt động nên BIC đã tập trung cho các kênh đầu tư an toàn (tiền gửi, trái phiếu) nên kết quả đạt được còn khiêm tốn so với cơ hội của thị trường. Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính 2006 đạt 19983 triệu đồng. Ngoài ra chênh lệch giá trị trên danh mục đầu tư tại thời điểm 31/12/2006 là 19926 triệu đồng.
Bảng 2: Doanh thu theo khu vực của BIC đến 31/12/2006
STT
Đơn vị khai thác
Doanh thu thực hiện 31/12/2006
(Triệu đổng)
Tỷ trọng
(%)
1
Trụ sở chính tại Hà Nội
32365
65,75
2
Chi nhánh Hồ Chí Minh
10308
21
3
Chi nhánh Đà Nẵng
2090
4,46
4
Chi nhánh Nghệ An
2011
4,29
5
Chi nhánh Hải Phòng
1284
2,74
6
Chi nhánh Tây Nguyên
505
1,08
7
Chi nhánh Vũng Tàu
313
0,67
8
Chi nhánh Bình Định
194
0,41
9
Chi nhánh Cần Thơ
148
0,32
Toàn công ty
49218
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của BIC trong năm 2006)
Mặc dù mạng lưới khai thác đã được mở rộng, nhưng những chi nhánh mới được thành lập của BIC chưa có kết quả kinh doanh do phải tập trung cho việc ổn định tổ chức nhân sự, thiết lập quan hệ, nghiên cứu học hỏi nghiệp vụ… Khu vực có doanh thu cao nhất vẫn là trụ sở chính tại Hà Nội và BIC – HCM.
Trong năm 2006, thu từ nhận tái bảo hiểm tạm thời của BIC chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 21%) vì năng lực nhận tái bảo hiểm do nhà tái bảo hiểm cho phép nhỏ, điều khoản, điều kiện hạn chế. BIC nhận nguồn dịch vụ này từ nhiều công ty và chủ yếu là các công ty trong nước do có sự trao đổi và chia sẻ dịch vụ. Các công ty có tỷ trọng nhượng tái cao sang BIC chủ yếu từ PVI (21,8%), Bảo Việt (20,4%) và Bảo Minh (16,9%).
Doanh thu từ hoạt động môi giới chỉ chiếm 8.24% tổng doanh thu phí của công ty. Thu từ hoạt động môi giới có được chủ yếu là dịch vụ nhỏ hoặc một số dịch vụ từ những năm trước tái tục.
Bảng 3: Phân chia phí bảo hiểm theo loại hình nghiệp vụ của BIC đến 31/12/2006.
(chỉ tính phí bảo hiểm gốc).
STT
Loại nghiệp vụ
Số phí bảo hiểm (Triệu đồng)
Phần trăm tổng phí thu (%)
1
Kỹ thuật
15167
32,37
2
Cháy/Mọi rủi ro tài sản
10754
22,95
3
Tiền
8938
19,07
4
Xe cơ giới
6347
13,54
5
Hàng hoá vận chuyển
1918
4,09
6
Tai nạn, sức khỏe
1323
2,82
7
Thân tàu và trách nhiệm chủ tàu
973
2,08
8
Trách nhiệm
395
0,84
9
Thiệt hại kinh doanh
215
0,46
10
Các loại hình khác
829
1,77
Tổng cộng
46859
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của BIC trong năm 2006)
Doanh thu phí từ loại hình bảo hiểm kỹ thuật chiếm tỷ trọng lớn nhất (32,37%), sau đó đến loại hình bảo hiểm cháy / mọi rủi ro tài sản (22,95%), bảo hiểm tiền (19,07%). Doanh thu phí từ bảo hiểm trách nhiệm (0,84%) và bảo hiểm thiệt hại kinh doanh (0,46%) chiếm tỷ trọng không đáng kể vì đây là loại hình không phải là thế mạnh khai thác của BIC. So với năm 2005, BIC đẩy mạnh khai thác mảng dịch vụ bảo hiểm xe cơ giới (13,54%) và mở rộng khai thác bảo hiểm tàu (2,08%)
2.8. Đánh giá sau một năm hoạt động
- Công ty chuyển đổi từ mô hình liên doanh sang mô hình công ty Nhà nước nên cũng có những thay đổi, ảnh hưởng đáng kể đến tỷ trọng doanh thu. Định hướng khai thác là lựa chọn khách hàng, lựa chọn rủi ro, doanh thu chủ yếu từ kênh khai thác qua môi giới và nhận tái. Khi chuyển sang hình thức sở hữu Nhà nước, mô hình kinh doanh tương đối giống như các công ty bảo hiểm nội địa khác, doanh thu phí bảo hiểm khai thác trực tiếp và thông qua hệ thống BIDV ngày càng chiếm tỷ trọng nhiều hơn. Điều này đòi hỏi lực lượng cán bộ khai thác phải gia tăng cả về số lượng và chất lượng, loại hình sản phẩm bảo hiểm đa dạng, mạng lưới kênh phân phối phải phát triển.
- Lực lượng cán bộ được bổ sung nhanh từ thị trường nên việc xây dựng văn hoá công ty và văn hoá kinh doanh phải được đặt ra và kiên quyết duy trì. Hiện tại, lực lượng cán bộ tâm huyết, làm việc vì sự phát triển chung của công ty còn chưa nhiều.
- Quan hệ với các đơn vị thành viên BIDV còn chưa chặt chẽ, hình thức liên kết, hợp tác nhiều nơi còn mang tính chất văn bản, giấy tờ; vì vậy hiệu quả hợp tác chưa cao. Thực tế chỉ còn 1/3 doanh thu khai thác năm 2006 của BIC là từ các chi nhánh BIDV, phần còn lại là do BIC tự khai thác. Kết quả này chưa thực sự thể hiện lợi thế, tiềm năng và hiệu quả chỉ đạo của ban lãnh đạo.
- Cơ chế làm việc chưa khuyến khích được cán bộ công ty, lương và các chính sách khác chưa thu hút được nguồn nhân lực tốt từ thị trường, chưa cạnh tranh, kết quả khai thác chưa thực sự tác động trực tiếp và tích cực tới lợi ích của người lao động. Trong năm tới, BIC cần phải xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế lương theo kết quả kinh doanh để thúc đẩy hoạt động khai thác nhưng vẫn phải quan tâm đến chất lượng dịch vụ.
- Hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của công ty còn đang trong giai đoạn xây dựng bước đầu. Trong thời gian tới, BIC sẽ phải xây dựng chương trình quảng bá hình ảnh và thương hiệu mang tính chuyên nghiệp hơn.
- Mạng lưới đại lý khai thác là các chi nhánh BIDV trong những năm qua chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, hoạt động đại lý chỉ mang tính chất giới thiệu khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty chứ chưa có tính chuyên nghiệp. Hạn chế này xuất phát từ mô hình tổ chức, cơ chế, chính sách đại lý chưa phù hợp. BIC đang nghiên cứu để đưa ra được chính sách hấp dẫn hơn nhằm tăng số lượng dịch vụ và doanh thu phí bảo hiểm từ kênh phân phối này.
- Một số sản phẩm mới, cao cấp (như bảo hiểm trách nhiệm), BIC còn lúng túng trong cách xử lý kỹ thuật và không hấp dẫn khách hàng vì đây không phải là thế mạnh khai thác của công ty. Tuy nhiên xét về lâu dài, đây là những sản phẩm sẽ có nhu cầu lớn trong những năm tới khi thị trường bảo hiểm Việt Nam hội nhập và phát triển, BIC sẽ có kế hoạch để nghiên cứu và đào tạo cho cán bộ tiếp cận.
- Khâu giải quyết khiếu nại còn nhiều bất cập, mạng lưới mỏng, dẫn đến việc chậm trễ thanh toán bồi thường nên đã xảy ra tình trạng khách hàng không hài lòng với chất lượng dịch vụ và cũng có trường hợp khách hàng từ chối tái tục bảo hiểm sau đó.
- Chương trình quản lý dữ liệu lạc hậu, chưa đồng bộ vì vậy còn nhiều khó khăn trong công tác quản lý dữ liệu, theo dõi việc thanh toán phí bảo hiểm, chi trả hoa hồng…
- Hoạt động đầu tư có kết quả khá tốt. Khả năng cạnh tranh về lĩnh vực này là tốt và sẽ hỗ trợ rất nhiều cho chiến lược phát triển của công ty.
- Sau thời gian hoạt động, khối lượng khách hàng có sự thay đổi, tuy nhiên BIC đang hình thành cho mình một khối lượng khách hàng nhất định, cơ cấu khách hàng cũng bắt đầu ổn định, tạo sự thuận lợi cho công ty khai thác và quản lý.
Kết quả hoạt động năm 2006 còn rất nhiều khiêm tốn nhưng có thể nói, BIC đã vượt qua được giai đoạn khó khăn ban đầu. Đây là năm được BIC xác định là thời kỳ “củng cố”, chuẩn bị hành tranh, tiền đề cho sự phát triển lâu dài, đặc biệt là năm hoạt động thứ 2 – năm 2007 sẽ được BIC xác định là năm “tăng tốc”.
3.1. Kế hoạch kinh doanh 2007
3.1.1. Mục tiêu chung
- Mở rộng mạng lưới hoạt động để tăng thị phần. Phấn đấu đến cuối năm 2007, BIC trở thành 1 trong 10 công ty bảo hiểm phi nhân thọ lớn nhất thị trường Việt Nam theo cả 3 tiêu chí: thị phần, vốn, lợi nhuận.
- Hoạt động hiệu quả để cổ phần hoá thành công vào cuối năm 2007, niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán vào 2008. Tổ chức tốt kênh phân phối sản phẩm thông qua BIDV và hệ thống chi nhánh, văn phòng khu vực, đại lý bảo hiểm. Tận dụng tối đa nguồn khách hàng từ BIDV, xác định đây là khách hàng mục tiêu lớn nhất của BIC và dùng các dịch vụ có lợi thế để trao đổi trên thị trường, mở rộng khách hàng bên ngoài.
- Xây dựng và hoàn thiện bộ máy quản trị điều hành công ty. Xây dựng Văn hoá kinh doanh BIC – Văn hoá 4P (Professional – Chuyên nghiệp, People Focus - Tập trung vào con người, Products Innovative - Cải tiến sản phẩm, Profit Tardeted - Hướng tới lợi nhuận). Xây dựng Văn hoá công ty dựa trên các nguyên tắc/tiêu chí cơ bản: Trung thực, Năng động, Đồng đội.
- Xây dựng BIC trở thành thương hiệu: Tin cậy, Đẳng cấp trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
- Phát triển hệ thống thông tin bảo hiểm để đảm bảo cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng doanh thu và quản lý chất lượng danh mục bảo hiểm và coi đây là yếu tố then chốt tạo nên sức cạnh tranh, hướng tới sự chuyên nghiệp trong hoạt động và quản trị điều hành.
- Chuẩn hoá các quy trình tác nghiệp, hướng dẫn nghiệp vụ tạo ra hệ thống quy chuẩn/giá trị riêng cho BIC. Triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001 để được cấp chứng chỉ vào cuối năm 2007.
- Tuyển dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ, nhiệt huyết, tận tâm với công việc và kinh nghiệm gắn liền với việc chuyên môn hoá các bộ phận trong công ty. Xây dựng chế độ đãi ngộ tốt cho cán bộ công nhân viên, gắn thu nhập với kết quả kinh doanh.
- Tổ chức và hoàn thiện hệ thống mạng lưới giám định bồi thường trên toàn quốc, đảm bảo thực hiện chất lượng dịch vụ, khả năng thực hiện cam kết, gây dựng thương hiệu và uy tín của BIC.
Xây dựng hệ thống sản phẩm cơ bản, trọng yếu; tổ chức triển khai các sản phẩm bảo hiểm kết hợp ngân hàng – bảo hiểm (Bancassurance); nghiên cứu phát triển sản phẩm mới để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, thị trường.
3.1.2. Các chỉ tiêu chính:
Bảng 4: Mục tiêu kết quả kinh doanh tổng hợp của BIC trong năm 2007
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
2007
1
Tổng tài sản
Triệu đồng
500
2
Vốn điều lệ
Triệu đồng
300
3
Tổng doanh thu phí
Triệu đồng
150
4
Lợi nhuận trước thuế
Triệu đồng
42,5
5
ROE
%
11,13
6
Thị phần
%
2,10
7
Số lượng chi nhánh
chi nhánh
15
8
Số lượng Phòng DVKH khu vực
Phòng
30
9
Số lượng đại lý bảo hiểm
Đại lý
1000
(Nguồn: Phòng kinh doanh của BIC)
3.1.3. Giải pháp cụ thể từng lĩnh vực:
Tài chính
- Tăng vốn: đầu năm 2007 đề nghị BIDV duyệt tăng vốn điều lệ thêm 100 tỷ đồng để đạt 300 tỷ đồng trước khi cổ phần hóa vào cuối năm 2007.
- Góp vốn vào các công ty có tiềm năng phát triển: Công ty Cổ phần thẻ, Công ty Cổ phần Đầu tư Tài chính BIDV (BFC), Công ty Cổ phần Đầu tư Kinh doanh bất động sản, Công ty Chứng khoán, …
- Từng bước nâng cao tính tự chủ cho bộ phận đầu tư trong thẩm định và xét duyệt phương án đầu tư, đảm bảo lựa chọn đầu tư đúng thời điểm.
- Thực hiện triệt để việc quản lý nguồn vốn tập trung thông qua dịch vụ Smart Account để tăng hiệu quả hoạt động.
Nguồn nhân lực
- Tập trung cho công tác tuyển dụng, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ. Bố trí, sắp xếp vị trí công tác phù hợp với trình độ, năng lực của từng cán bộ trong công ty.
- Chú trọng đào tạo cho các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cả trong chuyên môn và quản trị điều hành.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại các chi nhánh BIC. Đẩy mạnh hình thức tự đào tạo.
Quản lý rủi ro và kiểm tra nội bộ:
- Tiêu chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ theo tiêu chuẩn.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, lập kế hoạch kiểm tra định kỳ.
- Xây dựng chỉ số đo lường, chương trình quản lý và đánh giá rủi ro.
- Thường xuyên tiến hành kiểm tra chéo giữa các bộ phận để có biện pháp điều chỉnh, sửa dổi cho phù hợp với thực tiễn kinh doanh.
Quản trị doanh nghiệp:
- Tiếp tục chuyển đổi mô hình tổ chức theo phê duyệt của HĐQT phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển.
- Giao quyền chủ động cho các cấp lãnh đạo trên nguyên tắc gắn quyền lợi với trách nhiệm.
Thị trường, khách hàng mục tiêu:
- Trong ngắn hạn tập trung vào các đối tượng khách hàng của hệ thống BIDV vì có lợi thế khai thác (các dự án do BIDV cho vay đầu tư, các tài sản bảo đảm tiền vay…). Dựa trên nền tảng khách hàng này để trao đổi dịch vụ, tăng cường tiếp cận với các khách hàng khác để chuyển dần sang chủ động kinh doanh dựa trên khối lượng khách hàng đã gây dựng và tạo được uy tín.
- Tập trung vào các dịch vụ vừa và lớn, khách hàng là tổ chức – doanh nghiệp. Các dịch vụ nhỏ và khách hàng cá nhân sẽ triển khai thông qua dự án Bancassurance.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động cung cấp các sản phẩm phổ thông, dễ triển khai, đơn giản về thủ tục khai thác cho tất cả các khách hàng không thuộc đối tượng khách hàng tập trung.
Sản phẩm mục tiêu:
+ Định hướng:
- Tập trung cung cấp sản phẩm mang tính thương mại, tận dụng lợi thế khách hàng, sản phẩm để trao đổi dịch vụ.
Phát triển các sản phẩm dịch vụ liên kết, tích hợp với các sản phẩm của ngân hàng (Bancasurance) làm tăng khả năng cung cấp tiên ích trọn gói cho khách hàng, là công cụ hữu hiệu để tăng quản lý rủi ro.
Phát triển sản phẩm mới kết hợp sản phẩm dịch vụ ngân hàng như: Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tiền vay…
+ Sản phẩm cụ thể:
Trong thời gian đầu tập trung khai thác các sản phẩm bảo hiểm truyền thống, có lợi thế, đã có kinh nghiệm, dễ thuyết phục khách hàng và thường gắn với các dự án, tài sản bảo đảm tiền vay của BIDV theo thứ tự ưu tiên như sau:
Bảo hiểm xây dựng lắp đặt;
Bảo hiểm cháy, nổ/Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản;
Bảo hiểm tiền tại cơ sở kinh doanh/Bảo hiểm tiền vận chuyển;
Bảo hiểm máy móc, thiết bị thi công;
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển;
Bảo hiểm tàu;
Bảo hiểm kết hợp xe cơ giới;
Bảo hiểm tai nạn con người/Bảo hiểm bồi thường cho người lao động
Mạng lưới và kênh phân phối:
- Xây dựng và mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh, kênh phân phối đồng bộ, liên kết chặt chẽ trong toàn quốc với đội ngũ cán bộ năng động, chuyên nghiệp.
- Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá định kỳ hoạt động của chi nhánh, các văn phòng khu vực, mạng lưới đại lý và các điểm giao dịch.
- Tận dụng tối đa kênh phân phối là hệ thống BIDV để giảm chi phí, xây dựng mô hình khai thác tại các điểm, phòng giao dịch bảo hiểm ở mỗi địa bàn của BIDV.
- Triển khai và đưa kênh phân phối Bancassurance vào hoạt động trong năm 2007.
Hiện đại hoá hệ thống thông tin:
- Đầu tư phần mềm quản lý dữ liệu theo hướng tập trung để phục vụ công tác kinh doanh, đào tạo và chuẩn bị lực lượng cán bộ tiếp thu công nghệ mới.
- Chuẩn hoá hệ thống báo cáo tại trụ sở chính và chi nhánh trên cơ sở khai thác tối đa nguồn thông tin từ hệ thống quản lý.
- Xây dựng và phát triển trang Web riêng của Công ty nhằm tạo thành một kênh trao đổi thông tin chính thức và quản lý đại lý. Phát triển để bán sản phẩm bảo hiểm thông qua Internet và ATM.
II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BHHHXNKVCBĐB
2.1.Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
2.1.1. Hoạt động XNK của Việt Nam trong những năm qua.
Xuất khẩu hàng hoá năm 2006 đạt 39,98 tỷ USD và đã vượt 4,9% so với kế hoạch cả năm, trong đó khu vực kinh tế trong 16,7 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm trước, đóng góp 39,8% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô 14,5 tỷ USD, tăng 30,1%, đóng góp 46,9% và dầu thô 8,3 tỷ USD, tăng 12,9%, đóng góp 13,3%. Năm nay, có thêm cao su và cà phê đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên là 9, trong đó 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3,3 tỷ USD. Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm nay tăng mạnh, do phát triển nông nghiệp đúng hướng, đồng thời giá thế giới tăng cao, trong đó kim ngạch cao su tăng cao nhất (+58,3%); cà phê tăng tới 49,9% (hoàn toàn do được lợi về giá); riêng gạo giảm cả kim ngạch và lượng, chủ yếu do nguồn cung không tăng.
Nhập khẩu hàng hoá năm 2006 đạt 45,48 tỷ USD, vượt 4,5% so với kế hoạch năm 2006 và tăng 20,1% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 27,99 tỷ USD, tăng 19,9% và đóng góp 62,6% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 16,42 tỷ USD, tăng 20,4%, đóng góp 37,4%.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị và hầu hết các vật tư, nguyên liệu cho sản xuất trong nước đều tăng so với năm trước, đặc biệt là nhiều loại vật tư chủ yếu (trừ xăng dầu, phôi thép và phân u rê)
2.1.2.Thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam
Từ 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu nước ta tăng nhanh, trung bình khoảng 19,6%. Nếu năm 1991 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2,087 tỷ USD thì năm 2003 đạt hơn 17,1 tỷ USD, gấp 7 lần so với 1991. Riêng năm 2002, kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người của nước ta đạt khoảng 200 USD, bằng chuẩn của các nước có nền ngoại thương phát triển ổn định.Tuy tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta tăng nhanh, nhưng đến nay hoạt động bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu do các công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn rất ít, tốc độ tăng trưởng không cao. Tính hết năm 2006, các hãng bảo hiểm Việt Nam mới bảo hiểm được khoảng 16,7% kim ngạch hàng xuất khẩu và 35,3% kim ngạch hàng nhập khẩu. Có thể nói đây là con số bảo hiểm nhỏ bé chưa tương xứng với tiềm năng xuất nhập khẩu của nước ta.
Thực tế bảo hiểm hàng hoá XNK của Việt Nam chưa xứng tầm với tiềm năng cũng xuất phát từ những nguyên nhân nội tại của nó. Thứ nhất đây là một nghề non trẻ, ngoại trừ Công ty bảo hiểm Bảo Việt được thành lập từ năm 1965 thì các công ty bảo hiểm khác mới được “khai sinh” sau Nghị định 100/CP của Chính phủ ngày 18-12-1993. Thêm nữa, vốn kinh doanh của các Công ty bảo hiểm Việt Nam còn rất khiêm tốn nếu không muốn nói rằng quá nhỏ bé. Vốn thường dao động phổ biến từ 20-50 tỷ đồng. Chẳng hạn Công ty Bảo Minh thành lập cuối 1994, với vốn khoảng 45 tỷ đồng. Công ty Bảo Long ra đời tháng 7-1995 với số vốn 22 tỷ đồng... Đấy là chưa kể tới việc tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của ta trong những năm qua luôn ở mức cao, từ 60-70%. Điều này đặt cho các công ty bảo hiểm Việt Nam trước những nguy cơ tiềm ẩn khó lường. Thêm vào đó, công nghệ bảo hiểm của ta còn lạc hậu. Việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm qua các khâu như đánh giá rủi ro, giám định, thu phí bảo hiểm, bồi thường... phần lớn còn thủ công. Trình độ cán bộ bảo hiểm chưa đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe nhưng cũng rất linh hoạt của cơ chế thị trường. Vừa qua, ý kiến đánh giá của giới chuyên môn cũng cho rằng: Các nhà xuất nhập khẩu thực sự chưa yên tâm khi tham gia mua bảo hiểm của Việt Nam.
Như vậy là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm tới đặt ra cho ngành bảo hiểm Việt Nam nhiều thách thức mới. Vấn đề này đòi hỏi phải nâng cao năng lực, chất lượng bảo hiểm của Việt Nam ngang tầm với các nước, tương xứng với những điều kiện đặt ra của hội nhập. Muốn vậy nhất thiết phải có chiến lược đào tạo một đội ngũ cán bộ bảo hiểm am hiểu nghiệp vụ, tinh thông luật pháp trong nước và quốc tế. Về phía các công ty bảo hiểm Việt Nam, cần khai thác triệt để thị trường trong nước, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời phải có những chiến lược để nâng cao năng lực tài chính. Nhờ đó có khả năng, uy tín tham gia các hợp đồng bảo hiểm trong và ngoài nước có giá trị cao, đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Qua đó nâng cao tỷ trọng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam tham gia bảo hiểm trong nước.
2.2. Những mặt thuận lợi và khó khăn đối với BIC
2.2.1. Thuận lợi đối BIC
- BIC là công ty bảo hiểm non trẻ mới gia nhập thị trường, tiền thân là từ công ty bảo hiểm QBE (công ty bảo hiểm liên doanh Việt – Úc giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Úc). Tuy mới chính thức gia nhập thị trường với thương hiệu BIC vào 1/1/2006 nhưng thực chất đã hoạt động được một thời gian khá dài trước đó với thương hiệu QBE. Và hiện nay BIC là một Công ty trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nên được rất nhiều ưu đãi cho những bước đi khởi điểm ban đầu, được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cung cấp các cơ sở vật chất ban đầu như máy vi tính, trang thiết bị văn phòng…Đồng thời họ còn được cử các lãnh đạo chủ chốt có khả năng lãnh đạo từ lĩnh vực ngân hàng sang làm việc, hướng dẫn, chỉ đạo tại BIC.
- Trong một môi trường diễn biến sôi động cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì một công ty bảo hiểm mới, quy mô nhỏ cũng có lợi thế riêng như dễ dàng thay đổi cơ chế, chính sách, số lượng nhân viên để có thể điều chỉnh theo diễn biến của thị trường. Hay nói cách khác, Nó là mô hình linh hoạt dễ thay đổi, thích nghi với thị trường hơn (một đặc tính không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường)
- Kênh khai thác chủ yếu của BIC hiện nay là khai thác trực tiếp của nhân viên phòng kinh doanh trong công ty. Vì là công ty con trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nên mọi chi nhánh của BIC được mở tương ứng với các chi nhánh mà BIDV đã mở. Khi có một khách hàng gửi tiền tại tại BIDV có tiềm năng tài chính, có nhu cầu bảo hiểm thì cán bộ ngân hàng sẽ thông báo cho BIC, thông qua đó BIC sẽ cử người đến tư vấn cho khách hàng và ký HĐBH trực tiếp. Đây là một điểm rất thuận lợi của BIC mà các công ty bảo hiểm khác không có được bởi vô hình chung BIC đã có được một kênh khai thác ổn định, và đem lại nguồn doanh thu đáng kể.
- Vì BIDV là một trong những ngân hàng nhà nước hoạt động hiệu quả nhất hiện nay nên BIC có thể sử dụng thương hiệu của BIDV trong những bước đi khởi đầu của mình tạo đà cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu của BIC sau này.
- Việt Nam đã là thành viên của WTO nên nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ngày một tăng lên, thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng sẽ kéo theo nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu phát triển theo bởi đây là quan hệ tất yếu. Nếu BIC tận dụng được vận hội mới thì nó sẽ là một nhân tố giúp BIC đạt được vị trí công ty bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu trong tổng số 16 công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam hiện nay.
- Đội ngũ cán bộ nhân viên của BIC đều là những cán bộ có năng lực được giữ lại từ QBE, những cán bộ có kinh nghiệm từ BIDV chuyển sang và những cán bộ mới đều là những cán bộ trẻ năng động, nhiệt tình tốt nghiệp loại xuất sắc của các trường đại học nổi tiếng.
2.2.2.Khó khăn đối với BIC
- BIC là công ty con của BIDV nên quan hệ giữa BIDV và BIC là quan hệ mẹ con, BIDV cấp gì thì BIC được hưởng đó, và hoạt động phải theo sự chỉ đạo của BIDV. Đặc biệt vì BIC là một công ty thuộc sở hữu nhà nước nên không thể tránh khỏi tình trạng quan liêu. Đây là vấn đề cần phải giải quyết hiện nay, bởi bảo hiểm là một ngành đòi hỏi phải có uy tính cao, hoạt động nhanh nhạy,độc lập.
- Việc chuyển từ QBE sang BIC đã có sự thay đổi nhân sự rất lớn. Sau khi BIC được thành lập thì có rất nhiều cán bộ chủ chốt của QBE rời bỏ công ty gây ra sự xáo trộn, hoang mang cho những nhân viên còn lại. Vì có sự khác biệt về cơ chế hoạt động từ Liên doanh khi chuyển thành DNNN nên đến cuối tháng 4/2006 BIC mới ký được Hợp đồng lao động với nhân viên, đến 5/2006 mới ban hành được cơ chế và thực hiện trả lương chính thức cho nhân viên. Điều này đã tạo sự không ổn định và gần như sáu tháng đầu năm 2006, hoạt động của BIC chỉ là cầm chừng. Đồng thời có tới 2/3 khách hàng bỏ không tiếp tục tham gia bảo hiểm tại BIC nữa bởi đây là đặc thù của ngành bảo hiểm.
- BIC là một công ty mới gia nhập thị trường bảo hiểm, một thị trường mà rào cản gia nhập thị trường rất cao, mức độ cạnh tranh rất khốc liệt nếu không có những bước đi ban đầu đúng đắn thì sẽ rất dễ bị loại khỏi thị trường.
- Hiện nay BIC đang đứng ở vị trí thứ 15 trong tổng số 16 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam, với thị phần chiếm được rất nhỏ bé 0,81%, uy tín trên thị trường mới tạo dựng được trong một thời gian ngắn trong khi đó ngành bảo hiểm là ngành kinh doanh lời hứa khách hàng chỉ có thể mua bảo hiểm khi họ đặt niềm tin vào uy tín của nhà bảo hiểm thông qua thời gian hoạt động lầu dài c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36646.doc