Đề tài Ngoại thương Việt Nam từ năm 2000 đến nay

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương 1: KHÁI NIÊM NGOẠI THƯƠNG 2

1.1. Khái niệm 2

1.2. Vì sao lại có ngoại thương 3

1.3. Vai trò của NT đối với nền kinh tế 3

Chương 2: KHÁI QUÁT VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 6

2.1. Lợi thế về vị trí địa lý 6

2.2. Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên 6

2.3. Lợi thế về lao động 7

2.4. Những hạn chế 7

2.5. Tổng quan kinh tế Việt Nam 7

Chương 3: SƠ LƯỢC NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM

TRƯỚC NĂM 2000 9

3.1. Ngoại thương VN trước CMT8 – 1945 9

3.1.1. Dưới chế độ phong kiến 9

3.1.2. Dưới thời Pháp thuộc 9

3.2. Ngoại thương VN 1945 đến 1975 10

3.3. Ngoại thương VN 1975 đến 1986 11

3.4. Ngoại thương VN 1986 đến 2000 12

Chương 4: NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM TỪ 2000 ĐẾN NAY 16

4.1. Chiến lược ngoại thương giai đoạn 2000-2010 16

4.2. Thực tiễn 17

4.2.1. Giai đoạn 2000-2002 18

4.2.2 Giai đoạn 2003-2005 24

4.2.3 Giai đoạn 2006-2008 37

4.2.3.4Giai đạon 2009—nay 53

Tài liệu tham khảo 63

 

doc67 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 7490 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ngoại thương Việt Nam từ năm 2000 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g xuất khẩu chủ yếu: + Năm 2004, ngoài 4 mặt hàng là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản có kim ngạch trên 2 tỷ USD còn có thêm 2 mặt hàng mới là hàng điện tử, máy tính và sản phẩm gỗ đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD và các mặt hàng nông sản truyền thống có kim ngạch xuất khẩu khá như gạo, cà phê, cao su và hạt điều là những mặt hàng đóng góp quyết định cho tăng trưởng xuất khẩu. + Dầu thô: nhờ biến động giá dầu thế giới, nên sản lượng của mặt hàng vốn chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu quốc gia (chiếm 21,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước) đạt mức kỷ lục cao trong năm nay .Xuất khẩu dầu thô, ước tính cả năm đạt 19,6 triệu tấn với trị giá 5,67 tỷ USD, tăng 14,1% về lượng nhưng tăng 48,3% về trị giá so với năm 2003. Đây là năm có khối lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu dầu thô cao nhất từ trước tới nay. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô chiếm tới hơn 1/5 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2004 và mức giá bình quân là 290 USD/tấn + Đồ gỗ chế biến và nội thất vượt lên đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu về tốc độ tăng trưởng trong năm. Sản phẩm gỗ từ vị trí thứ 9 năm 2001 về kim ngạch đến 11 tháng năm nay đã vươn lên vị trí thứ 5 về xuất khẩu của nước ta. Uớc tính cả năm đạt kim ngạch 1,05 tỷ USD, tăng 85,9%, trong đó xuất khẩu vào một số thị trường tăng cao như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức, Đài Loan, Pháp. + Than đá: Xuất khẩu trong tháng 11 đạt 842,8 nghìn tấn, nâng khối lượng than xuất khẩu của Việt Nam lên con số 9,8 triệu tấn, tăng 51,7 % so với cùng kỳ năm 2003. Thị trường tiêu thụ than của Việt Nam lớn nhất là Trung Quốc: 4,96 triệu tấn, Nhật Bản: 2,47 triệu tấn, Thái Lan: 568 nghìn tấn, Hàn Quốc: 415 nghìn tấn. Đây là mặt hàng Việt Nam có lợi thế trong xuất khẩu do vị trí địa lý gần các thị trường tiêu thụ, mặt khác do nguồn nhiên liệu khác như xăng dầu tăng giá cao nên nhiều nước quay lại sử dụng nguồn nhiên liệu truyền thống như than đá. Thực tế, mức giá than xuất khẩu hiện tại vẫn chưa cao nhưng khối lượng xuất khẩu đang tăng lên rất nhiều. Vì vậy cần có những chiến lược phát triển bền vững nguồn tài nguyên của đất nước để mang lại hiệu quả kinh tế cao. + Hàng dệt may: Kim ngạch trong năm 2004 là 4,39 tỷ USD, tăng 17,2%. Việc EU bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam trong năm 2005 là một cơ hội lớn cho ngành công nghiệp này khi Việt Nam chưa là thành viên của WTO và xuất khẩu vào Mỹ đang chịu hạn ngạch. Tuy vậy, trên thực tế, Việt nam xuất khẩu sang thị trường này 11 tháng qua mới đạt con số 676 triệu USD (tính cả cho EU mở rộng) nên cả năm ước tính chỉ bằng khoảng 3/4 mục tiêu xuất khẩu vào thị trường này trong năm. Ba thị trường trọng tâm của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam chiếm tỷ trọng gần 94% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Đó là Mỹ (chiếm 56,6%) tăng 22%, các nước Châu á khác (chiếm 21,4%) và EU (chiếm 15,7%) tăng 32%.. Xuất khẩu vào hai thị trường Mỹ và EU có tốc độ tăng trưởng khá cao đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, nhất là từ sau khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết. Hơn nữa việc EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may với Việt Nam bắt đầu từ năm 2005 đang mở ra một triển vọng mới cho ngành công nghiệp dệt may nhưng đồng thời cũng gặp thách thức lớn trong cạnh tranh với Trung Quốc, ấn Độ... khi WTO bãi bỏ hạn ngạch dệt may với các nước thành viên. + Giày dép: Kim ngạch xuất khẩu cả năm 2004 là 2,69 tỷ USD( tăng 19% so với năm 2003). Đối với mặt hàng này, cơ cấu thị trường xuất khẩu nghiêng mạnh về EU (chiếm 66%), cạnh đó thị trường Mỹ mặc dù kim ngạch thấp hơn EU và chỉ chiếm 15,5% tổng kim ngạch giầy dép nhưng đang có tốc độ tăng khá tốt và trở thành nước lớn thứ hai về nhập khẩu giầy dép của Việt Nam. + Hải sản: Kim ngạch xuất khẩu cả năm 2004 là 2,408 tỷ USD(Tăng 9,48% so với năm 2003). Trong 11 tháng đầu năm 2004, xuất khẩu hải sản sang Nhật đạt 698 triệu USD, Mỹ: 530 triệu USD, Hàn Quốc: 129 triệu USD, Đài Loan: 98 triệu USD, Hồng Kông: 78 triệu USD. Trong năm vừa qua Việt-Nam bị hai vụ kiện bán phá giá về tôm đông lạnh ở thị trường Hoa Kỳ và xe đạp ở thị trường Liên Hiệp Âu châu (LHAC). Hậu quả là trị giá tôm của Việt Nam xuất cảng qua Mỹ giảm 30% trong năm 2004 so với 2003. Vào cuối năm 2004, Bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã chính thức quyết định giảm thuế chống phá giá đối với tôm Việt Nam từ đề nghị đầu tiên là 12,1-93,1% xuống còn 4,1-25,8%. + Gạo: Kim ngạch xuất khẩu cả năm là 4,063 tỷ USD (tăng 6,64% so với năm 2003) . Khu vực Châu Á chiếm hơn khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, trong đó Philippin là nước nhập khẩu gạo lớn nhất với 716 nghìn tấn, tiếp đến là Irắc 347 với nghìn tấn, Malaysia với 455 nghìn tấn, Singapore 113 với nghìn tấn. Khu vực Châu Phi chiếm 27,5% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong đó, Senegal dẫn đầu với 267 nghìn tấn, tiếp theo là Bờ Biển ngà với 146 nghìn tấn, Ghana với 117 nghìn tấn, Angola với 98 nghìn tấn, Tanzania với 91 nghìn tấn, Nam Phi với 80 nghìn tấn. Trong năm nay, Việt Nam vẫn tiếp tục ổn định được sản lượng gạo xuất khẩu, bởi vựa lúa lớn nhất của Việt Nam là vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ít bị ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi bất thường như nhiều vùng sản xuất lúa gạo khác trên thế giới. Và đến nay, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có uy tín nhất định trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nhiều khu vực có nhu cầu nhập khẩu gạo với khối lượng lớn như các nước ở châu Phi, châu Mỹ đang quan tâm nhiều hơn đến gạo xuất khẩu của Việt Nam vì giá rẻ hơn so với gạo cùng loại của Thái Lan và các nước khác. +Cà phê: xuất khẩu năm 2004 đạt 976,2 nghìn tấn, tăng 30,26% so với năm 2003. Thị trường EU nhập khẩu 483 nghìn tấn cà phê của Việt Nam, trong đó Đức là 152 nghìn tấn, Anh là 90 nghìn tấn... Thị trường Mỹ là 112 nghìn tấn. + Cao su: trong 2004 xuất khẩu được 513,4 nghìn tấn tăng 18,76% so với năm 2003 +Hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện: Đây là nhóm hàng đạt được tốc độ tăng trưởng cũng khá cao, kim ngạch xuất khẩu 2004 đạt 1,062 tỷ USD tăng 24,3 % so với năm 2003 Bên cạnh những thành công của xuất khẩu năm 2004, trong năm nay chúng ta cũng cần phải hết sức quan tâm đến hiệu quả xuất khẩu. Nhiều mặt hàng có sự gia tăng vượt bậc nhưng hiệu quả thực tế còn rất thấp. ● Thị trường xuất khẩu chủ yếu : +Có 2 thị trường xuất khẩu của Việt Nam đạt được trên 1 tỷ USD trong năm nay là : Anh(1,01 tỷ USD) và Đức (1,064 tỷ USD) + Nhật Bàn, Trung Quốc và Úc vẫn là những thị trưởng xuất khẩu lớn. + Riêng thị trưởng Mỹ đã có sự tăng mạnh : tăng 27,6% so với năm 2003, đạt mức 5,024 tỷ USD. + Thị trường Châu Á chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy vậy, xuất khẩu vào thị trường châu Á vẫn còn một số vấn đề đáng quan tâm. Trước hết là tỷ lệ hàng xuất khẩu vào khu vực Trung Nam Á, Tây Á còn rất nhỏ. Xuất khẩu của Việt Nam vào Tây á chỉ chiếm 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; Các Tiểu Vương quốc ả Rập Thống nhất mới nhập khẩu của Việt Nam 93,6 triệu USD, các nước khác nhập khẩu còn ít hơn. Xuất khẩu vào Trung Nam Á còn thấp, chỉ chiếm 0,4% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu năm 2004 tăng cao do: +Kinh tế thế giới phục hồi và sự tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đã tăng cầu nhập khẩu của các nước về lượng và kéo theo tăng giá có lợi cho các nước xuất khẩu. Tính chung kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng thống kê được về lượng năm 2004 tăng 2,7 tỷ USD thì tăng do giá khoảng 1,7 tỷ USD (riêng dầu thô tăng 1,3 tỷ USD do giá). +Sản xuất các mặt hàng công nghiệp và nông sản xuất khẩu tăng cao so với năm trước. + Kết quả tích cực của các hoạt động mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu của Chính phủ và các cơ quan liên quan, đặc biệt là công tác xúc tiến thương mại. q Nhập khẩu Kim ngạch nhập khẩu năm 2004 ước tính đạt 31,52 tỷ USD, tăng 25% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập khẩu 20,55 tỷ USD, tăng 25,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 10,97 tỷ USD, tăng 24,4%. Nhìn chung, nhập khẩu hàng hoá có cơ cấu tích cực, nhập chủ yếu để phục vụ sản xuất trong nước. ●Mặt hàng nhập khẩu : Trong tổng kim ngạch nhập khẩu, hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 29,8 tỷ USD, (chiếm tỷ trọng 94,6%), tăng 26,3% so với 2003; riêng nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu ước tính đạt 21,4 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 68%, tăng tới 38,8%; nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ lệ nhỏ và chỉ tăng 5,3%. Tuy nhiên, nhập khẩu năm nay tăng cao chủ yếu do yếu tố giá. Chỉ tính riêng 8 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu có thống kê về lượng, kim ngạch khoảng 8,7 tỷ USD, tăng 2,8 tỷ USD so với 2003, trong đó riêng do tăng giá là 2,3 tỷ USD. ● Thị trườngng nhập khẩu chủ yếu: Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam tăng 46,4% so với năm 2003: Hàn Quốc tăng 27,96%; Đài Loan tăng 26,85%; Singapore tăng 25,82 % và Nhật Bản tăng 19,1%. Như vậy, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta Nhập siêu cả năm 2004 là 5,52 tỷ USD, bằng 21,2% kim ngạch xuất khẩu (tỷ lệ này năm 2003 là 25%). 4.2.2.3. Năm 2005 Năm 2004 vừa kết thúc với những thành tựu ngoạn mục của nền kinh tế Việt Nam, tạo đà tăng trưởng quan trọng cho năm 2005, năm đặc biệt quan trọng quyết định thành công của kế hoạch 5 năm 2001-2005. Sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao. Xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng khá, nhập siêu liên tục giảm. Đầu tư nước ngoài tăng khá, tập trung chủ yếu trong dịch vụ và công nghiệp. q Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2005 có tốc độ tăng trưởng cao nhờ cả giá và khối lượng xuất khẩu tăng. Xuất khẩu hàng hóa đạt 32,44 tỉ USD, tăng 22.4% so với 2004. Xuất khẩu dịch vụ đạt 5,65 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2004, bằng 12% GDP Bảng 8 :Kim ngạch xuất khẩu hai năm gần đây (%) KNXK tăng (triệu USD) Trong đó Do tăng giá XK Do tăng lượng XK KN (triệu USD) Tỷ trọng (%) KN (triệu USD) Tỷ trọng (%) Năm 2004 6,327.0 1,973.4 31.2 4,353.6 68.8 Năm 2005 5,730 3,294.1 57.5 2,436.2 42.5 (Nguồn: Bộ Thương mại) ● Các mặt hàng xuất khẩu chính: + % tổng kim ngạch : Dầu thô (23%), hàng dệt may (15 %), giày dép (9,3%), hải sản (8,5%), điện tử máy tính (4,5%), gạo (4,3%), cao su (2,4%), cà phê (2,2%). + Các mặt hàng có giá xuất khẩu tăng mạnh là dầu thô (40,7%), cà phê (24,7%), than đá (20,7%), cao su (17,9%), chè (15,9%), gạo (14,5%) và hạt điều (12,5%). Các mặt hàng có khối lượng xuất khẩu tăng mạnh bao gồm than đá (53,8%), gạo (28,1%), lạc nhân (26,1%) và cao su (11,9%). + Nhóm hàng nhiên liệu thô, sơ chế và gia công vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây là những nhóm mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp và có giá xuất khẩu dễ bị giảm sút mạnh theo biến động của thị trường thế giới. Các điều kiện hỗ trợ xuất khẩu cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu còn thiếu và chưa đảm bảo chất lượng; công tác thông tin, dự báo giá cả, phân tích nguồn hàng, thị trường còn yếu và chưa kịp thời; hoạt động XTTM tuy tiến bộ nhiều song còn thiếu tính chuyên nghiệp cao. Khả năng liên kết, xâu chuỗi, hỗ trợ nhau trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa các doanh nghiệp trong nước còn yếu; vai trò các hiệp hội ngành hàng còn chưa thật sự được phát huy. ● Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng tiếp tục được mở rộng + Năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu vào 16 thị trường với kim ngạch trên 500 triệu USD, trong đó có tới 6 thị trường với kim ngạch ước đạt trên 1 tỷ USD: Mỹ (5,82 tỷ USD), Nhật Bản (4,46 tỷ USD), Trung Quốc (2,99 tỷ USD), Úc (2,59 tỷ USD), Singapo (1,66 tỷ USD) và Đức (1,05 tỷ USD). Tính chung kim ngạch xuất khẩu vào 16 thị trường lớn nhất ước đạt 24,91 tỷ USD, chiếm tới 77,3% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2005. Hình 1 :Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam theo thị trường, 2004-2005 (%) (Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan.) + Hầu hết thị trường xuất khẩu vào các khu vực, lãnh thổ đều có sự tăng trưởng kim ngạch khá cao, từ 15% đến 65%, trong đó Châu Á tăng 21,3% (riêng các nước ASEAN tăng 42,6%), Châu Âu tăng 6,7% (riêng EU tăng 8,1%), Châu Mỹ tăng 21,7%, Châu Đại Dương tăng 51% và Châu Phi tăng 83,9%. Cơ cấu thị trường xuất khẩu năm 2005 có sự chuyển dịch tương đối rõ nét với thị phần tăng tại các khu vực/nước như ASEAN, Úc, Nhật Bản, giảm mạnh tại EU, và giảm nhẹ tại thị trường Mỹ, Trung Quốc q Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2005 ước tính là 36,98 tỉ USD, tăng 15,4% so với 2004 Tuy nhiên, đây là năm có tốc độ tăng nhập khẩu hàng hóa thấp nhất kể từ năm 2002, thấp hơn nhiều mức tăng trung bình 19,1%/năm trong giai đoạn 2001-2005. ●Các mặt hàng nhập khẩu chính (2005, % tổng kim ngạch): + nhóm hàng máy móc - thiết bị - phụ tùng :kim ngạch nhập khẩu năm 2005 ước đạt 13,28 tỷ USD, chiếm 36,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 28,5% so với 2004. + nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu: kim ngạch nhập khẩu đạt gần 22,5 tỷ USD, chiếm 61,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 14,7%. + Lưu ý là một số mặt hàng là đầu vào sản xuất có kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh so với năm 2004 là urê (giảm 40%), phân bón các loại (giảm 21,7%), bông (giảm 14,7%). + nhóm hàng tiêu dung: kim ngạch nhập khẩu ước đạt 994 triệu USD, giảm tới 50,5% so với năm 2004 và chỉ chiếm tỷ trọng là 2,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. + Riêng đối với mặt hàng xăng dầu, mặc dù khối lượng nhập khẩu chỉ tăng 2,6%, song do giá tăng mạnh, nên kim ngạch nhập khẩu đã tăng tới 35,6% (xấp xỉ 1,4 tỷ USD, chiếm 28,4% phần kim ngach nhập khẩu tăng). Tuy nhiên, cũng có 2 mặt hàng quan trọng có giá nhập khẩu giảm là phôi thép (giá giảm 1,5%) và bông (giá giảm 20,6%). ● Cơ cấu thị trường nhập khẩu theo châu lục: có sự chuyển dịch ngược lại so với năm 2004. + Năm 2005, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Châu Á, khoảng 29,7 tỷ USD, tăng 17,6%, trong đó, chỉ riêng thị trường ASEAN đã chiếm tới 25,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 20,7%. Tỷ trọng nhập khẩu từ các châu lục còn lại, trừ Châu Phi, đều giảm đáng kể. Riêng 13 thị trường quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất (có kim ngạch nhập khẩu trên 600 triệu USD) đã chiếm tới 84,1% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước, với tổng kim ngạch là 31 tỷ USD. + Vị trí xếp hạng về thị phần nhập khẩu của 5 thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam về cơ bản vẫn như năm 2004, lần lượt là: Trung Quốc (15,4%), Xingapo (12,7%), Đài Loan (11,7%), Nhật Bản (11,1%) và Hàn Quốc (10%). Mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu năm 2005 chậm lại có phần đáng kể nhờ công tác điều hành xuất nhập khẩu đã có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là trong công tác quản lý nhập khẩu đối với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, phân bón. Tuy nhiên, xét theo cơ cấu nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị tiên tiến, công nghệ nguồn vẫn còn thấp. Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa, chất lượng thông tin, dự báo thị trường và diễn biến giá cả các loại hàng hoá nhập khẩu chưa cao, nên việc nhập khẩu còn bị động và nhiều khi có những tác động bất lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong nước. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2005 ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,6% so với năm 2004. Chi vận tải quốc tế cho hàng hoá nhập khẩu là nhập khẩu dịch vụ chủ yếu, ước khoảng 46% tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ. Ước tính kim ngạch chi trả nước ngoài cho du lịch là 900 triệu USD (tăng 16,5%); dịch vụ hàng không là 650 triệu USD; dịch vụ hàng hải là 170 triệu USD; và dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm là 330 triệu USD. Với mức nhập khẩu lớn hơn, năm 2005 Việt Nam nhập siêu thương mại dịch vụ trên 840 triệu USD. ▲ Thâm hụt thương mại: 4,65 tỉ USD (giảm từ mức thâm hụt 5,45 tỷ USD năm 2004). Tuy tốc độ tăng của xuất khẩu có xu hướng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu (năm 2005, tăng xuất khẩu là 21,6%, nhập khẩu là 15,7%), song kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn đang ở tình trạng thâm hụt. Cụ thể, năm 2005, trong khi xuất khẩu của Việt Nam đạt kim ngạch 32,44 tỷ USD thì nhập khẩu cũng tăng lên tới 36,97%. Xu hướng này không hoàn toàn có ý nghĩa tiêu cực, đây cũng là xu thế tất yếu của các nước đang trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần nhập nhiều thiết bị, công nghệ máy móc nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật cho sản xuất trong nước. Song bên cạnh đó cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại gây hạn chế khả năng đóng góp của xuất, nhập khẩu vào tăng trưởng. Ä Nhận xét chung về Giai đoạn 2001-2005: Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004 và 32,23 tỷ USD năm 2005. Như vậy sau 20 năm đổi mới, ngoại thương Việt Nam đã có mức phát triển vượt bậc với mức kim ngạch xuất nhập khẩu từ 113,439 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000 đã tăng lên hơn 2 lân vào 2001-2005, đạt 240,981 tỷ USD. Điều này cho thấy, việc Việt Nam gia nhập vào các tổ chức quốc tế như ASEAN(năm 1995), ký hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với EU(năm 1995), tham gia Chương trình Thuế quan ưu đãi có Hiệu lực chung (CEPT) từ năm 1996, gia nhập APEC (năm 1998) đã giúp nước ta ngày càng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, tạo điều kiện giao lưu , hợp tác, phát triển nền kinh tế- xã hội nói chung và của ngoại thương nói riêng. Hình 2: Tổng mức lưu chuyển ngoại thương Việt Nam theo thời kỳ 5 năm từ 1986-2005 Đơn vị tính: Triệu USD ( Số liệu : Tổng cục thống kê ) Tuy nhiên tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam trong giai đoạn này còn tồn tại một số khuyết điểm sau: Thứ nhất, mặc dù xuất khẩu đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, nhưng cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có nhiều thay đổi, chỉ thiên về xuất khẩu nông sản chưa chế biến (lúa gạo, cà phê, thủy sản,…) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô), những mặt hàng có hàm lượng công nghệ, chất lượng cao xuất khẩu còn ít. Tỷ trọng hàng hóa công nghệ cao xuất khẩu trên tổng giá trị chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chỉ khoảng 8,2%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, so với Malaixia là 67%; Trung Quốc là 39%; Thái Lan là 49%; Philippin 33% và Inđônêxia 18% (năm 1999). Thứ hai, nước ta hiện nay vẫn chưa xây dựng được mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu. Ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu để gia công như ngành da giày, may mặc,… Thứ ba, tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng và nguyên, vật liệu trong cơ cấu hàng nhập khẩu tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ còn khiêm tốn. - Xuất khẩu : + Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 2001-2005 đạt 110,83 tỷ USD, gấp hơn 2 lần giai đoạn 1996-2000, bình quân mỗi năm tăng 17,5% + Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến năm 2005, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử và gạo ® Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng các mặt hàng xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi một sự nỗ lực lớn hơn nữa để tăng nhanh các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Bảng 9: Trị giá xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam giai đoan 2000-2005 Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Dầu thô Nghìn tấn 15423.5 16731.6 16876.0 17142.5 19500.6 17966.6 Than đá " 3251.2 4291.6 6047.3 7261.9 11636.1 17987.8 Thiếc " 3.3 2.2 1.7 2.0 1.8 Hàng điện tử, máy tính và linh kiện Triệu USD 788.6 709.5 605.4 854.7 1062.4 1427.4 Giày, dép " 1471.7 1587.4 1875.2 2260.5 2691.1 3038.8 Hàng dệt, may " 1891.9 1975.4 2732.0 3609.1 4429.8 4772.4 Hàng rau, hoa, quả " 213.1 344.3 221.2 151.5 177.7 235.5 Hạt tiêu Nghìn tấn 36.4 57.0 78.4 73.9 110.5 109.9 Cà phê " 733.9 931.1 722.2 749.4 976.2 912.7 Cao su " 273.4 308.1 454.8 432.3 513.4 554.1 Gạo " 3476.7 3720.7 3236.2 3810.0 4063.1 5254.8 Hạt điều nhân " 34.2 43.6 61.9 82.2 104.6 109.0 Lạc nhân " 76.1 78.2 106.1 82.4 46.0 54.7 Chè Nghìn tấn 55.7 67.9 77.0 58.6 104.3 91.7 Gỗ và sản phẩm gỗ Triệu USD 311.4 343.6 460.2 608.9 1101.7 1561.4 Hàng thủy sản Triệu USD 1478.5 1816.4 2021.7 2199.6 2408.1 2732.5 (Nguồn : Tổng cục thống kê) - Nhập khẩu : + Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai đoạn 2001 – 2005. Tổng kim ngạch nhập khẩu trong giai đoạn này là 130,4 tỉ USD, tăng bình quân 19,1% so với cùng kì 5 năm trước. Trong đó, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt khoảng 129,6 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng khoảng 18,5%. Và tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước đạt trên 21 tỷ USD, bình quân mỗi năm tăng khoảng 10,3%. -Quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa bền vững, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa thực sự hợp lý, hạn chế về khả năng nắm bắt thông tin dự báo thị trường, năng lực cạnh tranh còn yếu kém ở cả 3 cấp độ nền kinh tế, doanh nghiệp và mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù tính riêng giai đoạn 2001-2005, nhập siêu đã giảm, cơ cấu mặt hàng chuyển biến theo hướng tích cực song tốc độ chậm và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp có vốn trong nước có tỷ trọng nhập siêu lớn lên tới 60% 4.2.3. Giai đoạn 2006-2008 Đây là giai đoạn đầy biến động của nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế của Việt Nam với 2 sự kiện chính là: Việt Nam gia nhập WTO(tháng 11 năm 2007) và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 . Năm 2007-2008, xuất khẩu tăng trưởng cao cả về thị trường, lượng hàng hoá, kim ngạch và giá cả. Theo các cam kết của WTO về mở cửa thị trường, hoạt động xuất khẩu theo hướng tăng chất lượng, ổn định giá, thực hiện đúng hợp đồng... để tăng sức cạnh tranh trên thị trường truyền thống đồng thời mở rộng thị trường mới, mặt hàng mới đi đôi với các chính sách xoá dần sự bảo hộ của Nhà nước trên một số mặt hàng. Năm 2008, trước những tác động của tình trạng lạm phát và cuộc khủng hoảng tiền tệ thế giới đã gây những ảnh hưởng bất lợi đối với nền ngoại thương VN, song nhìn chung, tình hình ngoại thương VN năm 2008 vẫn giữ được xu thế phát triển tốt. Chính phủ VN đã áp dụng những biện pháp có hiệu quả , tiến hành kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế trong suốt năm. Theo con số của Tổng cục thống kê VN, căn cứ theo tỷ giá của năm 1994, GDP của năm 2008 đã tăng 6,23%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lần lượt tăng 28,3% và 29,5. 4.2.3.1. Giá trị và tốc độ tăng trưởng của xuất nhập khẩu từ 2006 đến 2008 a) Năm 2006: Theo Bộ Thương mại :số liệu thống kê sơ bộ xuất nhập khẩu tháng 12 và cả năm 2006. : trong tháng cuối cùng của năm, xuất khẩu tiếp tục đà tăng trưởng và đạt 3,5 tỷ USD. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2006 đã đạt 39,6 tỷ USD, vượt 4,9% so với kế hoạch và tăng 22,1% so với năm 2005. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu năm 2006 ước tính đạt 84 tỷ USD, tăng 21% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 22,1%; nhập khẩu tăng 20,1%; nhập siêu là 4,8 tỷ USD, bằng 12,1% kim ngạch xuất khẩu (các con số tương ứng của năm trước là 4,54 tỷ USD và 14%). b) Năm 2007 Sau khi vào WTO, thực hiện các cam kết quốc tế, thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam được mở rộng cả về quy mô, đối tác, hàng hoá, dịch vụ. Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2007 đạt 109,2 tỉ USD, tăng 48,2% so năm 2006 Kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,7 tỉ USD, tăng 39,6% Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn tốc độ tăng chung(Khu vực kinh tế trong nước năm 2007 tăng 22,2% và chiếm 42%), chứng tỏ khu vực này đã tận dụng được cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế trong nước. =>Điều đó cho thấy, khu vực FDI đã tận dụng tốt hơn cơ hội WTO. c) Năm 2008 Tổng mức lưu chuyển ngoại thương năm 2008 đạt 143,1 tỉ USD 31,0% so năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 62,7 tỉ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 đạt 80,7 tỉ USD, tăng 28% so năm 2007 4.2.3.2. Các mặt hàng xuất-nhập khẩu chủ yếu q Xuất khẩu Bảng 10: Xuất khẩu hàng hoá năm 2006-2008 Đơn vị tính: Nghìn tấn- triệu USD năm 2006 năm 2007 năm 2008 Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá TỔNG TRỊ GIÁ 39605 48387 62906 Khu vực kinh tế trong nước 16740 20555 28001 Khu vực có vốn đầu tư NN 22865 27832 34905 Dầu thô 8323 8477 10450 Hàng hoá khác 14542 19355 24455 MẶT HÀNG CHỦ YẾU Dầu thô 16618 8323 15081 8477 13908 10450 Than đá 29783 927 32535 1018 19699 1444 Dệt, may 5802 7784 9108 Giày dép 3555 3963 4697 Điện tử, máy tính 1770 2178 2703 Sản phẩm đá quý và KL quý 169 201 767 Dây điện và cáp điện 701 884 1014 Sản phẩm nhựa 478 725 930 Xe đạp và phụ tùng xe đạp 110 79 91 Gạo 4749 1306 4500 1454 4720

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNgoại thương Việt Nam từ năm 2000 đến nay.doc
Tài liệu liên quan