Đề tài Nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận

Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất và tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung sản xuất do đó ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng mạnh hơn. Khi sự tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ cao sẽ hình thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển thì lợi nhuận của độc quyền ngày càng nhiều, nhưng hậu quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại trút xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp càng trở nên sâu sắc.

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2735 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc, bản chất và vai trò của lợi nhuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xã hội cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền. Phương pháp này sản xuất m siêu ngạch. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào. Vì công thức chung của tư bản là T-H-T’ nên mục đích cuối cùng là thu được T’ còn m chỉ là tiền đề là nền tảng để thu được T’ ( T’>T). Mac đã giúp ta giải quyết vấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P). Vởy : “Giá trị thặng dư khi được đem so sánhvới tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận” từ đó ta có thể thấy P chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c+v. Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị của hàng hoá c+v+m. Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí cho mua tư liệu sản xuất c gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Đứng trên quan điểm toàn xã hội, quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (c+v+m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết. Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được Mac gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là k (k=c+v). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế. Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng đắn bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận. Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận : giá trị = k + P Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Về mặt chất P xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó P che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó. Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá . Nừu nhà tư bản bán hàng với giá trị bằng giá trị của nó thì P = m. Nếu bán hàng với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P > m, với bán với giá trị nhỏ hơn giá trị của nó thì P<m.Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này dẫn đế sự che giấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nhưng lòng tham của nhà tư bản là vô đáy vì thế sau khi đã có lợi nhuận rồi thì họ không dừng lại tại đó mà họ còn muốn tìm ra số tiền mà họ đầu tư đó thì họ đầu tư vào đâu để thu được P lớn nhất. Từ đây nảy sinh khái niệm về tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận (P)là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. P = Tỉ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu P và theo đuổi P là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mac phân chia thành hai loại : cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để th lợi nhuận siêu ngạch. Do bản chất của cạnh tranh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nhằm dành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp phải tìm cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để dành thắng lợi trong cạnh tranh. Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn, ở các ngành sản xuất khác nhau có những điều kiện khác nhau, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư. C.Mac viết : “Do ảnh hưởng của cạnh tranh những tỉ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung, đó là con số bình quân của tất cả những tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được, theo tỉ suất lợi nhuận chung đó, không kể cấu tạo hiện có đó như thế nào gọi là lợi nhuận bình quân”. Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. sự hoạt động của tỉ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P’ và P không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản, trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn. Sự chuyển hoá từ giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất và sự che dấu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa của phạm trù sản xuất. Cùng với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng, còn bộ phận khác lại bán thấp hơn giá trị của chúng cũng theo một tỉ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỉ suất lợi nhuận trong các công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất”. Vậy : Giá cả sản xuất = k+P Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điều kiện để giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có : đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển; sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất ; quan hệ tín dụng phát triển, tư bản tự do chuyển từ ngành này sang ngành khác. Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường. Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Lợi nhuận được biểu hiện dưới dạng P công nghiệp , P thương nghiệp, P ngân hàng, lợi tức cho vay. Trong công nghiệp để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh họ mong muốn chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Còn tối đa hoá lợi nhuận hoặc giảm chi phí sản xuất, tức là phải làm gì để đạt được lợi nhuận cực đại cho doanh nghiệp. Tổng doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà doanh nghiệp đó kiếm được nhờ bán hàng hoá, dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. Và quá trình bán này cũng được tư bản công nghiệp chia cho một phần lợi nhuận. Lợi nhuận đó sau này được gọi là lợi nhuận thương nghiệp. Chúng ta đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, ở đó họ cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự không ngang giá. Họ coi thương nghiệp là lừa gạt “không một người nào thu được lợi nhuận mà không làm thiệt kẻ khác”. Quan điểm sai lệch này là do họ tách rời quá trình sản xuất. Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán, nó không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nó chỉ làm nhiệm vụ thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ, bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất “ Lợi nhuận thương nghiệp là một phần nhường cho nhà tư bản thương nghiệp”. Nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần bởi vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu, một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản xuất không thể tiếp diễn được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp cũng không phải là hoạt động không công mà họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuận. Điều này bắt buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho tư bản thương nghiệp. Vậy “lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá”. Nhưng điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hoá cao hơn giá trị của nó, mà là nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì anh ta bán đúng giá trị của nó. Vì nhà tư bản thương nghiệp tham gia vào việc phân chia m nên đời sống của xã hội tư bản hình thành hai loại giá cả sản xuất : giá cả sản xuất thương nghiệp và giá cả sản xuất thực tế. Sự hình thành P thương nghiệp đã che dấu thêm một bước quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa. Do việc phân phối P giữa tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp diễn ra theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân thông qua cạnh tranh. Lợi tức và tỉ suất lợi tức Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi ví dụ như tiền lương quỹ khấu hao của tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên liệu vật liệu nhưng chưa đến kỳ mua, bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ (dưới dạng tiền) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng... số tiền nhàn rỗi như thế không mang lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản thì tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Vì trong cùng một thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. “Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để được một số lời lãi nào đó. Số lời lãi đó gọi là lợi tức”. Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng. Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức che dấu mất thực chất bóc lột của tư bản chủ nghĩa. Dựa vào công thức tư bản vận động cho vay, chúng ta hoàn toàn vạch trần được điều đó. Lợi tức vận động theo quy luật tỉ suất lợi tức. Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỉ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay. Lợi nhuận ngân hàng. Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của m. nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi ,con số chênh lệch này là nguồn gốc của lợi nhuận ngân hàng. Tuy vậy, không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận ngân hàng mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng(lương nhân viên, sổ sách,...) Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp) hoặc thực hiên giá trị thặng dư (tư bản công nghiệp), sau đó đem một phần m thu được làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư. Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do ngân hàng bằng lợi nhuận bình quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh ngành khác. Thị trường trái khoán, vốn cổ phần: Muốn mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp lớn phải hợp nhất nhiều tư bản cá nhân lại thành những công ty cổ phần. Công ty cổ phần là những xí nghiệp mà vốn của nó do những người tham gia gọi là cổ đông đóng góp vào. Cổ đông là người mua cổ phiếu, căn cứ vào số tiền ghi trên cổ phiếu cổ đông sẽ được lĩnh một phần thu nhập của xí nghiệp gọi là lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần không cố định mà phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của công ty. Cổ phiếu được mua bán trên thị trường gọi là trị giá cổ phiếu.Thị giá cổ phiếu không phải là số tiền ghi trên mặt phiếu, mà là một số tiền đem gửi ngân hàng sẽ thu được một số lợi tức bằng lợi tức cổ phần. Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán. Người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội lợi tức cổ đông. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị. Giao dịch theo hình thức tín dụng người mua chứng khoán chi trả một phần, phần còn lại do người môi giới của số dịch vụ ứng trước và hưởng lợi tức về số tiền ứng trước cho người mua. Địa tô: Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất và công nhân để tiến hành sản xuất, do đó tư bản phải trích ra một phần do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Địa tô=m-P. Cơ chế kinh tế của tư bản độc quền từ đó suy ra lợi nhuận độc quyền. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị của tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh càng trở nên gay gắt . Cạnh tranh dẫn đến độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Độc quền chiếm giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế thể hiện ở sự độc chiếm các nguồn nguyên liệu, phương tiện vận tải ,thị trường vốn ,nhân công, quy luật kinh tế cơ bản vẫn là quy luật giá trị thặng dư, song biểu hiện bên ngoài là quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Chương II Vai trò của lợi nhuận Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế nó ảnh hưởng cả đến chính trị- xã hội và len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường. Như ta đã biết mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt : mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vấn đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy được vai trò của nó. I. Lợi nhuận trong nền kinh tế : a. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Với mục đích P các nhà tư bản để tạo ra P ngày càng nhiều. Trước đây họ có thể tạo ra P bằng cách kéo dài ngày lao động của người công nhân nhưng phương pháp đó gặp sự chống cự của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang phương pháp bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. Những phát minh khoa học lần lượt ra đời đặc biệt là trong thế kỷ 19-20. Nó đã được lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng . Yếu tố này đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành các công nghệ mới vì vậy để quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ,nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng hết được chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ trở thành yêu cầu cấp tất yếu của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những lao động có tay nghề cao nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo những nhà khoa học, những công nhân giỏi về phía mình bằng các biện pháp kinh tế, tinh thần. Điều này dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển và trở thành một tình trạng báo động cần ngăn chặn. b. P thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau tức là khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phải phát triển và ngược lại. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển . Quan hệ sở hữu ngày càng được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó mục đích P luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu “hiệu quả”. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực lượng lao động hợp lý, cân đối trong nền kinh tế tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra trên đều từ lợi nhuận và chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm ít hưởng ít, làm nhiều hưởng nhiều. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội... Trong thời quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... P làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị trường . Theo quá trình phát triển của lịch sử, nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hoá rồi đến kinh tế thị trường quá trình này phát triển song song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao. Nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc sống. Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên đó là nền kinh tế tự cung tự cấp, sản phẩm lao động sản xuất ra dều thoã mãn nhu cầu con người thì luôn phát triển và quá trình phát triển luôn hướng tới những gì phù hợp hơn. Họ không chỉ muốn có những cái mà họ làm ra mà còn muốn những cái mà người khác có, họ không chỉ muốn các sản phẩm vừa đủ mà còn muốn có dư để dự trữ điều đó dẫn đến quá trình trao đổi sản phẩm đơn thuần diễn ra. Cùng với những nhược điểm của nó con người ta đã qua quá trình quy đổi và cuối cùng quá trình mua bán với đồng tiền chung được quy định. Kinh tế hàng hoá xuất hiện. Với nền sản xuất hàng hoá sản phẩm sản xuất ra để bán trên thị trường mọi người được tự do buôn bán trên thị trường, thị trường được mở rộng ngày càng nhiều. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh tế luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông, lợi nhuận đã làm cho họ cố gắng đạt được bằng nhiều hình thức khác nhau. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ lại trở nên rất cần thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong quá trình hoạt động sẽ làm gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ sẽ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lý vi mô của Nhà nước. Với sự phát triển phong phú của thị trường thì Nhà nước không thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vĩ mô. Nhưng nhà nước phải quản lý ở tầm vĩ mô vì cũng do P mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn đến sự mất an toàn cho những nhà kinh doanh với nhau, sự bất ổn định về mặt chính trị và xã hội. Nhà nước cần đưa ra các chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để xử lý những tranh chấp trong kinh doanh và những vi phạm luật kinh tế. Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà kinh tế, tạo điều kiện cho họ thu được lợi nhuận ngày càng nhiều. Với nền kinh tế thị trường như trên sẽ thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. c. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội. Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội ta cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì ? Như ta đã biết, muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hoá thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra làm thành vốn phụ thêm để mở rộng sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất ( nhờ tăng cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và thực hiện được trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất hoặc tư nhân hoặc Nhà nước tiến hành. Như vậy dù ở dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá trị thặng dư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho quá trình tái sản xuất xã hội. d. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế. P là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng trao đổi hàng hoá và khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. e. Vai trò của P đối với mọi mặt đời sống xã hội. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong quá quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự cân bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khách không thể tham gia lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình này họ hoặc xã hội bảo đảm. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, của xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. áp dụng hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động nhưng cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà Mac đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. ở một số nước phát triển, Nhà nước có chú ý đến tiền lương, trợ cấp thất nghiệp phúc lợi xã hội, nhất là các nước Châu âu đặc biệt là ở Thuỵ Sĩ và Pháp ... quy định mức lương tối thiểu. Khi nền kinh tế phát triển là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục... bởi vì với sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện nay. Quốc phòng trang bị bằng những vũ khí hiện đại tối tân (có nhiều nước có vũ khí hạt nhân). Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng, nghiên cứu trong quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao trong ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển nhân tố con người cả mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC160.DOC
Tài liệu liên quan