Đề tài Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Mục lục

Mở đầu

Nội dung

1.Những vấn đề lý luận chung

1.1.Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước mac

1.2.Quan điểm về lợi nhuận của mac

1.3.Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới

2.Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt nam giai đoạn hiện nay

2.1.Vài nét về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở VN

2.2.Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

2.2.1.Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN

2.2.2.Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay

2.2.3.Lợi nhuận trong nền kinh tế VN giai đoạn hiện nay

3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận

3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá và dịch vụ

3.2.Tổ chức tiêu thụ có lợi nhuận

3.3.Tổ chức hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp

Kết luận

 

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1818 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá trị của nó thì số lượng p thu được bằng số lượng giá trị thặng dư .Nếu cung nhỏ hơn hoặc lớn hơn cầu thì giá cả hàng hoá lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị của nó thì từng tư bản cá biệt có thể thu được một lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn m.Nhưng trong toàn xã hội tổng giá cả bằng tổng giá trị hàng hoá, tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư . ² Về chất: m là bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuất dôi ra ngoài phần bù lại giá trị tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho công nhân, còn p là hình thức biểu hiện bên ngoài của m, là m khi nó được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. C.Mac viết “giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được lao động chứa đựng trong hàng hoá”. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa tư bản và lao động, vì nó làm cho người ta tưởng rằng m không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.Thực chất, p và m cũng là một.Lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Tóm lại p là hình thái chuyển hoá của m do lao động sống làm ra , được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. ê Khi m chuyển hoá thành p thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành chi phí sản xuất TBCN cộng p : w=c+v+m w=k+p ê Khi m chuyển hoá thành p thì tỷ xuất giá trị thặng dư cũng chuyển hoá thành tỷ xuất lợi nhuận p’ : m’ = m/v x 100% => p’ = p/(c+v) x 100% p’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư bản ứng ra để sản xuất kinh doanh. p’ hàng năm = p/k x 100% P’ và m’ có sự khác nhau về lượng và về chất : ỹ Về lượng : p’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’ . ỹ Về chất : m’ biểu hiện mức độ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động còn p’ chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản . m’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống, còn p’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn đầu tư hàng năm của một đơn vị sản xuất kinh doanh . v Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận F Tỷ suất giá trị thặng dư m’ : Theo công thức: p’= m/(c+v) x 100% Mà m’= m/v x 100% do đó p’= m’ x v/(c+v) x 100% (*) p’ là hình thái chuyển hoá của m’ nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc. Theo (*) nếu v/(c+v) không đổi thì p’ tỷ lệ với m’ do đó những biện pháp nâng cao m’ cũng là những biện pháp nâng cao p’. F Tốc độ chu chuyển tư bản n : nếu n tăng thì khối lượng tư bản hoạt động trong năm sẽ lớn làm cho khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng do đó p’ hàng năm tăng. Như vậy, p’ tỷ lệ với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, để nâng cao p’, các nhà tư bản đều tìm mọi biện pháp rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hoá của mình. F Tiết kiệm tư bản bất biến c : Vì p’= m/(c+v) nếu m, v không đổi thì p’ vận động ngược chiều với c.Vì thế, để nâng cao p’, các nhà tư bản tìm mọi cách tiết kiệm tư bản bất biến như : sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất ; thay nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền ; giảm chi tiêu để bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng, tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hoá. F Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) : là tỷ số giữa giá trị tư bản bất biến c với tư bản khả biến v. Sự thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản có ảnh hưởng đến p’: Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng làm cho p’ giảm đồng thời làm khối lượng lợi nhuận tăng . CacMac gọi đó là hình thức biểu hiện tính chất hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Để ngăn trở sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận p’ : +) tăng mức độ bóc lột sức lao động làm cho các nhà tư bản nâng cao được tỷ suất giá trị thặng dư và do đó sẽ cản trở sự giảm p’ do đó cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng. +) hạ thấp tiền công xuống dưới giá trị sức lao động sẽ giảm bớt phần lao động được trả công do đó làm tăng phần lao động không công và giảm được lượng tư bản khả biến ứng trước v. +) hạ giá cả các yếu tố tư bản bất biến c. Giá tư liệu sản xuất giảm làm cho cấu tạo giá trị của tư bản tăng với mức thấp hơn mức tăng của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Do đó, p’giảm ít hơn mức tăng của (c/v). +) nhân khẩu thừa tương đối tận dụng được lượng nhân công rẻ mạt hoặc thu hút số lao động dư thừa ở các ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ tư bản cao. Nhờ đó mà một số xí nghiệp cũ hay có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp hơn mức trung bình có thể thu được tỷ suất lợi nhuận cao. +) hoạt động ngoại thương có thể mua được tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt rẻ làm giảm tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Các nhà tư bản có thể thu lợi nhuận cao hơn kinh doanh trong nước, nhờ đó tăng được tỷ suất lợi nhuận. +) tư bản cổ phần : là tư bản được đem đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất lớn dưới hình thức tư bản cổ phần và chỉ đọc hưởng lợi tức cổ phần. Các tư bản cổ phần này không tham gia vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chung, vì lợi tức cổ phần của họ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm giành giật nơi đầu tư có lợi nhất đã hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Do trong các ngành sản xuất khác nhau, những nhân tố ảnh hưởng đến p’ mỗi ngành không giống nhau, kết quả là p’ thu được không bằng nhau. Các nhà tư bản theo đó mà sẽ kinh doanh ở những ngành có p’ cao làm thay đổi p’ cá biệt vốn có của các ngành. Do đó, trong một thời gian nhất định, p’ các ngành xấp xỉ bằng nhau, hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành sản xuất khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó : P’ bình quân = (p1’+….+pn’)/n Sau khi xác định được p’ bình quân có thể tính được p bình quân : pbình quân = P bình quân che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, vì bất cứ tư bản đầu tư vào ngành nào, nếu có khối lượng ngang nhau, rốt cuộc cũng thu được lợi nhuận bằng nhau. Nó không có quan hệ gì với khối lượng giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Trên thực tế, p bình quân chỉ là giá trị thặng dư được phân phối giữa các ngành sản xuất khác nhau tương ứng với số tư bản đầu tư của mỗi nhà tư bản một cách tự phát. Xét chung trong toàn xã hội : tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Theo Mac : lợi nhuận bình quân phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Nó vạch rõ toàn bộ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân. Khi lợi nhuận chuyển hoá thành p bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất : W = c+v+m chuyển thành gcsx = k+pbình quân Khi đó quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả sản xuất, còn quy luật giá trị thặng dư có hình thức biểu hiện là quy luật lợi nhuận bình quân. Chúng ta đã biết m và p không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Đứng về một góc cạnh nào đó thì chính m biểu hiện cho sự bóc lột và chứng minh công thức mâu thuẫn của tư bản một cách chính xác, khoa học nhưng nó lại được che dấu bởi phạm trù lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản dưới các hình thức sau: ảLợi nhuận công nghiệp : về bản chất lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị do người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất.Đây là hình thái dễ thấy nhất, gần nhất với m.Lợi nhuận công nghiệp là hình thức chung nhất của các hình thức p, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất . ả Lợi nhuận thương nghiệp : trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp chính là thực hiện khâu trên của tư bản chủ nghĩa, chính vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà tư bản công nghiệp kiếm được.Về thực chất thì tư bản thương nghiệp là một phần m dược sáng tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp. ả Lợi tức cho vay : đây là hình thức nhà tư bản này cho nhà tư bản khác vay một số tiền tạm thời nhàn rỗi của mình . Lợi tức là cái giá mà nhà tư bản hoạt động phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được sử dụng tạm thời khoản tư bản tiền tệ của người đó. Bản chất của lợi tức là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ tư bản cho vay trả cho nhà tư bản cho vay vốn , tức là một phần lợi nhuận bình quân . Xét ở một góc cạnh nào đó , nhà tư bản cho vay cũng là nhà tư bản kinh doanh hàng hoá nhưng là hàng hoá đặc biệt : tiền tệ . Lợi tức ở đây được hiểu chính là lợi nhuận của tư bản cho vay. ả Lợi nhuận ngân hàng : lợi nhuận ngân hàng là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức tiền gửi của ngân hàng sau khi khấu trừ các chi phí hoạt động . Về bản chất , tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , vì vậy phần lợi nhuận do tư bản ngân hàng tạo ra cũng tham ra vào quá trình cạnh tranh với các ngành sản xuất khác . Vì vậy khoản lợi nhuận mà tư bản ngân hàng nhận được cũng là lợi nhuận bình quân. ả Địa tô : địa tô TBCN là khoản tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ- người sở hữu ruộng đất - để được sử dụng trong một thời gian nhất định. Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu nghạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (là bộ phận m sau khi trừ đi lợi nhuận bình quân) và do nhà tư bản thuê đất trả cho người sở hữu ruộng đất. 1.3. Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới A.Marshall : lợi nhuận là thứ tiền lương cao. J.Keynes : lợi nhuận là hiệu quả của đầu tư tư bản. Samellson : lợi nhuận là kết quả của doanh thu- chi phí . Theo ông, lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích, lợi nhuận sẽ lôi kéo người kinh doanh vào những mặt hàng có lợi nhuận cao bỏ trống những hàng hoá cho lợi nhuận thấp hoặc không lợi nhuận . Cách duy nhất để những nhà kinh doanh cạnh tranh được giá cả và thu lợi nhuận cao là giảm mức chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất có hiệu quả , công nghệ hiện đại . Hạn chế chung đó là các nhà kinh tế học mới mới chỉ dừng lại phân tích lợi nhuận về mặt lượng . 2. Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay 2.1.Vài nét về kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Từ đại hội đảng VI (12/1986) đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, từng bước hình thành một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông, cung cầu cân đối, giá cả ổn định…Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường là nền kinh tế trong đó những vấn đề : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? được giải quyết thông qua thị trường . Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản trong cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Cạnh tranh là môi trường, lợi nhuận là động lực. Đảng ta chủ trương cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tế qua hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể . Mặc dù bên cạnh đó vẫn có nhiều hạn chế song cùng với sự quản lý của nhà nước, kinh tế chính trị xã hội dần dần được ổn định. 2.2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Xã hội loài người đã chuyển từ hình thái kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá và từ kinh tế hàng hoá chuyển lên hình thái kinh tế thị trường . Đó là những quá trình mang tính tất yếu lịch sử, bởi con người luôn luôn mong muốn thoả mãn một cách cao nhất nhu cầu của mình, trong đó có nhu cầu lợi nhuận trong kinh doanh. Tuy nhiên, cùng một hành vi tối đa hoá lợi nhuận nhưng không hoàn toàn giống nhau trong XHCN và TBCN. 2.2.1. Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN Đ Nếu như trong nền kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ công hữu.Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường . Cơ chế thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhưng do có sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thị trường : kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN nên cùng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nhưng ở tính chất và mức độ khác nhau. Đ Mục tiêu của nền kinh tế thị trường XHCN là vì nhân dân lao động, do dân vì dân và thực hiện xã hội mọi người đều giàu có. Cho nên song song với việc phát triển kinh tế là thực hiện chính sách phân phối khác, kết hợp với việc các chính sách xã hội. Do đó khắc phục được sự phân hoá giàu nghèo, giảm dần được tỷ lệ nhân dân nghèo đói, mức sống trung bình của nhân dân ngày càng tăng. Đ Do chịu sự tác động của các quy luật kinh tế (quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh…) các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn vận động cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên không vì thế mà họ có thể làm những việc trái với pháp luật, trái với tình người. Cạnh tranh trong môi trường XHCN không dã man tàn ác như trong môi trường TBCN, mà cạnh tranh để phát triển, phát triển vì mục tiêu con người . Lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN không phải là kết quả của sự bóc lột sức lao động, không phải là quan hệ người bóc lột người mà là do tư liệu sản xuất thuộc về xã hội, lợi nhuận ở đây là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá thành sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó, trong điều kiện giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp phản ánh sự biến động của giá thành sản phẩm. Và cũng như đối với các doanh nghiệp trong các nền kinh tế thị trường khác nhau, lợi nhuận cũng là thước đo hoàn hảo nhất để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nó là công cụ bình tuyển tự nhiên và rất công bằng : doanh nghiệp nào làm ăn có lãi sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và phát triển, còn doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Đối với các doanh nghiệp, một phần lợi nhuận sẽ được giữ lại để mở rộng sản xuất, đầu tư cải thiện sinh hoạt, làm việc của công nhân viên, trả tiền thưởng, trợ cấp… còn lại sẽ nộp cho nhà nước để phục vụ cho các mục đích công cộng như xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội… Đ Lợi nhuận trong CNXH là mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh tế, kích thích các nhà kinh tế mở rộng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng nó không phải là mục tiêu cao nhất. Mục tiêu cao nhất là một mức lợi nhuận cao nhất trong khả năng cố gắng nỗ lực, đi kèm với bảo vệ môi trường, bảo vệ con người, bảo vệ chế độ, bảo vệ truyền thống dân tộc, bản sắc văn hoá và hơn hết là tình người. 2.2.2. Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay v Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi hoạt động kinh tế. Cho nên lợi nhuận ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và có thể kể đến một số ảnh hưởng tích cực sau: ỹ Trên thị trường, quy luật cung cầu quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ, do đó quyết định lượng lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy, để thu được lượng lợi nhuận cao, các doanh nghiệp phải phát triển công nghệ thông tin, nắm bắt chính xác mọi thay đổi của thị trường và xử lý thông tin đó nhanh chóng, có hiệu quả, gây những ảnh hưởng có tính chất quyết định lên toàn bộ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Lịch sử hoạt động kinh tế của một số nước phát triển trên thế giới, đặc biệt là trong 20 năm qua cho thấy sự tăng trưởng của công nghệ thông tin đã giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Đến lượt nó, nền kinh tế phát triển tác động trở lại công nghệ thông tin, thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hơn. ỹ Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà kinh doanh có thể có mặt ở mọi nơi mọi lúc, nếu ở đó có thể kiếm được nhiều tiền. Cũng vì mục đích đó, các doanh nghiệp có thể chuyển từ kinh doanh mặt hàng này sang kinh doanh mặt hàng khác nếu ngành mới có lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Do đó doanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời hơn, chất lượng hơn, đầy đủ hơn các nhu cầu của người tiêu dùng. ỹ Để thu hút được khách hàng và chiếm được thị trường, những người sản xuất luôn phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải đổi mới được sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất nhiều hơn chất lượng hơn, giá thành sản xuất rẻ hơn. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cố gắng một cách tối đa trong giới hạn cho phép của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về loại mặt hàng.Tuy theo đuổi mục đích lợi nhuận cá nhân, song vô hình chung, họ đã đem lại hiệu quả xã hội cao : tạo việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm cho người tiêu dùng… ỹ Lợi nhuận doanh nghiệp quyết định sự tồn tại hay sa thải các doanh nghiệp ra khỏi vũ đài kinh tế. Có nghĩa là nhà kinh tế làm ăn có lãi tiếp tục tồn tại trên thị trường đồng thời sẽ loại bỏ những cơ sở kinh doanh thua lỗ ra khỏi thị trường. Có thể nói, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp để phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả xử lý các nguồn lực, nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao. Đồng thời việc thu được lợi nhuận cao sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phục vụ tốt hơn nhu cầu của thị trường. Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy với mục tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất chung của xã hội. Ngoài ra, nhà nước, chính phủ phải tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ỹ Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế . Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển của nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế, nhằm mở rộng việc trao đổi hàng hoá, trao đổi khoa học kỹ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong làm thay đổi mạnh mẽ trình độ kỹ thuật trong nước. Đồng thời đầu tư ra nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn trong nước. Như vậy, để thu hút được lợi nhuận cao hơn, đòi hỏi các nước phải tăng cường liên doanh liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. ỹ Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội . Muốn mở rộng sản xuất ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ nhiều vốn. Như đã biết, quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lặp lại quá trình tái sản xuất cũ với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất phải tạo ra được lợ nhuận. Lợi nhuận tạo ra càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn và với quy mô lớn hơn. Ngược lại, việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất thu được lợi nhuận cao hơn. Bên cạnh những mặt tích cực, lợi nhuận cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản do mục đích theo đuổi tối đa hoá lợi nhuận. Do đó dẫn đến sự tích tụ tập trung tư bản mức độ cao hình thành nên các tổ chức độc quyền . Và cạnh tranh giữa các nhà độc quyền đã gây ra những thiệt hại lớn không những cho nền kinh tế thế giới mà cho cả môi trường tự nhiên như ô nhiễm môi trường, thủng tầng ô zôn, hàng triệu tấn rác thải chưa được xử lý… Trong xã hội và nền kinh tế luôn luôn có tình trạng bất ổn định như các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng dầu mỏ… gây ra lạm phát, thất nghiệp… Đồng thời với những quá trình đó là thu nhập tập trung phần lớn vào một số ít người trong xã hội, những người lao động chỉ được hưởng một phần nhỏ, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Các nhà tư bản thu được lợi nhuận thì cứ tiếp tục giàu lên. Mặt khác, các nhà tư bản chỉ đầu tư vào nơi nào họ đảm bảo thu được lợi nhuận cao còn không họ sẽ không đâù tư vào. Sự phân phối bất hợp lý có thể là nguyên nhân gây mất ồn định trong tương lai. Ngoài ra trong xã hội còn có tình trạng đầu cơ tích trữ, làm hàng giả. Thay vì đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất, đã không ít những người tham lam hám lợi đã đầu cơ tích trữ hàng hoá tạo nên cơn sốt giả tạo, đẩy giá hàng hoá lên cao, sau đó bán ra thu lợi nhuận… Tệ hại hơn, đó là việc chạy theo lợi nhuận, chạy theo những lợi ích trước mắt mà có người có thể đang tâm làm những việc thất đức, vi phạm đạo đức, lối sống…là những hiện tượng phổ biến, mà người ta thường gọi là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Đó là lời cảnh báo hết sức nguy cấp cho toàn xã hội, cần có những biện pháp thiết thực để cải tạo xã hội tốt đẹp hơn. 2.2.3. Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1996) Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vấn đề lợi nhuận. Đảng ta đã khẳng định rằng lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất.Trong cơ chế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển, không còn con đường nào khác là doanh nghiệp phải đạt lợi nhuận càng cao càng tốt, mới có điều kiện hơn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng lẫn chiều sâu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường với các đối thủ của mình. Mười năm qua và nhất là năm năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Đó là kết quả của quá trình đổi mới của đảng, sự nỗ lực của những người nông dân, công nhân, trí thức, của các gia đình, của bộ máy quản lý nhà nước và sự đầu tư của nước ngoài. Cùng với sự thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi về diện mạo và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh bên trong của doanh nghiệp. Doanh nghiệp từ chỗ trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ là cơ cấu chấp hành : nhận vốn, vật tư, chỉ thị mệnh lệnh sản xuất từ cấp trên, ngày nay trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh. Việc mở cửa nền kinh tế, hàng hoá từ nước ngoài tràn vào rất nhiều, mẫu mã và chủng loại rất đa dạng, với giá cả thấp nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Đứng trước tình hình đó, các đơn vị, doanh nghiệp tổ chức sản xuất trong nước đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất. Cùng với nó là quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên chức. Với mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu thì từ sau cải cách đến nay, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng cao. Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp có sự đổi mới theo hướng gắn với thị trường, tinh giảm bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý. Cùng với việc mở cửa nền kinh tế chúng ta cũng đồng thời mở rộng quan hệ với các nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Những thay đổi trên đã làm cho đời sống của toàn dân tăng lên rõ rệt, mức thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, cơ sở hạ tầng ngày càng được củng cố, tạo tiền đề vững chắc cho những bước đi vững chắc của dân tộc ta. Với những phân tích trên, đến đây chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng to lớn của lợi nhuận đối với một doanh nghiệp hay nói một cách khác: vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như : tình hình thị trường, các chế độ chính sách của nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng nguồn lực doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lý kinh doanh, năng lực con người và đặc biệt là đội ngũ quản trị gia, việc lựa chọn và thực thi các chiến lược của doanh nghiệp, hiểu biết về đối thủ cạnh tranh… 3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận Để làm tăng lợi nhuận ta phải tác động trực tiếp đến các nhân tố ảnh hưởng đến mức lợi nhuận. Đó là : 3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá dịch vụ Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả là doanh nghiệp giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ? â Sản xuất cái gì ? là quyết định của doanh nghiệp sản xuất hàng hoá dịch vụ với số lượng bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất, cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trên cơ sở nhu cầu của thị trường, các nhà kinh tế cân đối với khả năng sản xuất của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định cung ứng cái gì để đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đạt được thu nhập quốc dân cao nhất. Gía cả trên thị trường là bàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50669.doc
Tài liệu liên quan