Đề tài Nguồn vốn trong doanh nghiệp: Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước

MỤC LỤC

 

MỤC LỤC 2

LỜI NÓI ĐẦU 5

Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN 6

1. Khái niệm, bản chất của nguồn vốn đầu tư 6

1.1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn 6

1.2. Bản chất của của nguồn vốn đầu tư 6

2 .Vai trò của nguồn vốn đầu tư 7

3. Phân loại nguồn vốn đầu tư 8

3.1. Nguồn vốn trong nước 8

3.2. Nguồn vốn nước ngoài. 9

4. Nội dung nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp. 10

4.1. Nguồn vốn chủ sở hữu 10

4.1.1. Vốn ban đầu: 10

4.1.2. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: 10

4.1.3. Phát hành cổ phiếu: 11

4.2. Nguồn vốn nợ: 11

4.2.1. Phát hành trái phiếu công ty. 11

4.2.2. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng 12

4.2.3. Nguồn vốn tín dụng thương mại 13

5. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước. 13

5.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước. 13

5.2. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước. 14

5.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước. 14

6. Các nhân tố tác động tới nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước 15

6.1. Cơ sở huy động nguồn vốn đầu tư phát triển trong các DNNN 15

6.2. Các nhân tố vĩ mô. 15

6.2.1. Năng lực tăng trưởng kinh tế 15

6.2.2. Tình hình chính trị trong nước, chủ trương của nhà nước 16

6.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô. 16

6.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp nhà nước 17

6.3.1. Ngân sách nhà nước 17

6.3.2. Khấu hao hàng năm 18

6.3.3. Lợi nhuận giữ lại 18

6.3.4. Thực hiện cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu trái phiếu 18

6.3.5. Bất động sản. 20

6.4. Các nhân tố khác. 20

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 22

1. Thực trạng huy động vốn 22

1.1. Nguồn vốn từ NSNN 22

1.2. Nguồn vốn từ các ngân hàng thuơng mại 23

1.3. Quỷ đầu tư mạo hiểm 23

1.4. Huy động vốn từ thị trường chứng khoán 26

2. Thực trạng sử dụng vốn. 26

2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản 26

2.2. Vốn lưu động bổ sung 26

2.3. Vốn đầu tư phát triển khác. 27

2.3.1. Đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học công nghệ 27

2.3.2. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 27

2.3.3. Đầu tư phát triển tài sản vô hình 27

2.3.4. Đầu tư ra ngoài doanh nghiệp 27

3. Những vướng mắc. khó khăn còn tồn tại và nguyên nhân. 27

3.1. Những khó khăn đối với hoạt động huy động vốn ở các DNNN. 27

3.1.1. Những vướng mắc trong việc đa dạng hóa hình thức huy động vốn 27

3.1.2. Những khó khăn về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. 28

3.1.3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước. 28

3.1.4. Là những khó khăn từ phía doanh nghiệp Nhà nước. 29

3.2. Những vướng mắc trong việc huy động và sử dụng vốn. 29

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 31

1. Các giải pháp cho việc huy động vốn 31

1.1. Các giải pháp và tầm vĩ mô. 31

1.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý tài chính ở DNNN. 31

1.1.2. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. 31

1.1.3. Các giải pháp về tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. 32

1.2. Giải pháp cụ thể về phía các doanh nghiệp Nhà nước. 32

2. Các giải pháp nhằm tăng tích luỹ vốn cho doanh nghiệp 32

2.1. Thực hành chính sách tiết kiệm để tăng tích luỹ vốn 32

2.2. Tiếp tục đổi mới và quản lý có hiệu quả các DNNN 32

2.2.1. Cần đẩy nhanh sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước. 32

2.2.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu DNNN 32

2.3. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện ngân sách Nhà nước 33

2.3.1. Huy động đầu tư cho phát triển qua ngân sách Nhà nước bằng cách tăng thu ngân sách. 33

2.3.2. Tăng quy mô đầu tư từ NS và sử dụng đúng hướng vốn vay 33

2.3.3. Nâng cao chất lượng quản lý cấp và phát kiểm soát chi NSNN 33

2.4. Tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả. 33

2.5. Đổi mới, phát triển,nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN 33

2.6. Thực hiện sáp nhập hay liên kết các doanh nghiệp 33

KẾT LUẬN 34

TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 6260 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn vốn trong doanh nghiệp: Phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. 6.2.3. Các chính sách kinh tế vĩ mô. Bất kỳ doanh nghiệp nào vừa ra đời hoặc đang tồn tại cũng đều thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự quản lý giám sát của cơ quan nhà nước có chức năng, do đó các mỗi chính sách kinh tế được ban hành đều có ảnh hưởng tới tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước. Chính sách tài chính: chính sách tài chính là chính sách thông qua chế độ thuế và đầu tư công cộng để tác động đến nền kinh tế. Các chính sách về thuế có ổn định thì các doanh nghiệp nhà nước cũng mới ổn định sản xuất, tạo tăng trưởng, có lợi nhuận và tăng thêm vốn huy động vào sản xuất. Ví dụ như từ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cùng với việc cam kết phải đi đôi với thực hiện giảm thuế theo lộ trình đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Thuế suất của các mặt hàng nhập khẩu giảm thúc đẩy nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường non trẻ Việt Nam làm gia tăng sức cạnh tranh. Để tồn tại và phát triển buộc doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước phải có giải pháp huy động và sử dụng vốn thực sự hiệu quả, để đổi mới công nghệ, nâng cao sản xuất, tăng chất lượng và số lượng sản phẩm, giảm giá thành tăng sức cạnh tranh. Do đó chính sách này tác động không nhỏ tới việc sử dụng vốn của Doanh nghiệp nhà nước. Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ là quá trình kiểm soát lượng cung tiền của nền kinh tế để đạt được những mục đích như kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái. Thông qua nhân tố: yếu tố lãi suất, lạm phát, hoạt động của ngân hàng trung ương, thu chi ngân sách nhà nước, tỷ giá hối đoái đều ảnh hưởng tới DNNN. Lãi suất là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới một dự án đầu tư trong việc huy động và sử dụng vốn. Lãi suất quá cao gây khó khăn trong quá trình huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước, và khiến chi phí sử dụng vốn bị đội lên cao do đó lợi nhuận thực của doanh nghiệp giảm Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực hàng xuất khẩu như các mặt hàng dệt may, da giày, hải sản .. đặc biệt quan tâm tới tỷ giá hối đoái. Sự lên xuống của đồng nội tệ luôn là mối quan tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu. Giá trị đồng nội tệ càng giảm hoặc thấp so với những ngoại tệ mạnh, tức đồng nội tệ mất giá thì các doanh nghiệp xuất khẩu càng có lợi, xuất khẩu số lượng hàng hóa nhiều hơn, thu được lợi nhuận cao. Lợi nhuận cao thì khả năng quay vòng vốn của các doanh nghiệp cũng nhanh hơn. Ngược lai nếu nền kinh tế nước ngoài suy thoái, khủng hoảng thì giá trị đồng ngoại tệ giảm làm đồng nội tệ tăng giá, hàng hóa xuất khẩu giảm làm lợi nhuận giảm, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các DNNN. Các chính sách khác của nhà nước. Các vấn đề về quản lý, quản trị doanh nghiệp, sử dụng vốn tài sản nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong các luật sử dụng vốn và tài sản nhà nước trong đầu tư kinh doanh. Một chính sách của nhà nước, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn, nghị định 59/CP ngày 03/10/1996 cho phép doanh nghiệp nhà nước co quyền huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu,vay vốn từ các tổ chức Tín dụng, các doanh nghiệp khác, các cá nhân( kể cả CBCNV trong doanh nghiệp), nhận góp vốn liên kết với các hình thức khác nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước Chính sách mới của Chính phủ về việc quy định một số khoản mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không được tính vào chi ngân sách khiến các doanh nghiệp nhà nước cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi mua sắm vì đó được tính vào chi phí của doanh nghiệp, do đó việc sử dụng vốn cũng không bị lãng phí như trước. Như chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát của chính phủ hai tháng đầu năm 2008 được xem như sự hi sinh thị trường chứng khoán cho tăng trưởng. Lãi suất nâng cao cùng với việc ban hành chỉ thị 03 hạn chế các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng để đầu tư chứng khoán đã khiến lượng vốn huy động trên thị trường chứng khoán bị khủng hoảng, quá trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng (IPO) của một số doanh nghiệp nhà nước lớn như Vietcombank với mục đích huy động vốn bị chậm lại do vào thời điểm đó trên thị trường chưa đủ vốn. 6.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp nhà nước 6.3.1. Ngân sách nhà nước Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước Ngân sách nhà nước là nguồn huy động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước, đây là nguồn vốn quan trọng thứ hai đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân sách nhà nước cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước dưới dạng đầu tư xây dựng cơ bản, cấp vốn lưu động, bù lỗ, trợ giá…. Trước đổi mới, nền kinh tế còn mang nặng tư tưởng tập trung bao cấp, do đó việc huy động và sử dụng vốn mang đặc trưng là Nhà nước bao cấp vốn và bao cấp tín dụng. Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng trên cơ sở tính toán các nhu cầu vốn cần thiết để đảm bảo các chỉ tiêu pháp lệnh mà nhà nước giao cho doanh nghiệp, do đó các DNNN không phải quan tâm tới yếu tố đầu vào và tiêu thụ đầu ra, khiến các doanh nghiệp đình trệ trong sản xuất, điều này tạo ra ảnh hưởng không nhỏ về tư tưởng bao cấp mà vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nguồn huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước lúc đó là từ ngân sách nhà nước nên không tạo cho doanh nghiệp tính chủ động trong huy động và tính trách nhiệm trong sử dụng sao cho có hiệu quả. Sau đổi mới, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cổ phần hoá nhằm đa dạng hoá cơ cấu chủ sở hữu vốn. Đối với những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì hiện nay nhà nước chỉ nắm từ 51% vốn trở lên. Quá trình cổ phần hoá không những giúp doanh nghiệp nhà nước huy động được nguồn vốn trong dân mà còn giúp các doanh nghiệp năng động hơn trong việc quản lý việc sử dụng vốn. Các doanh nghiệp nhà nước đã chủ động hơn khi có sự tham gia góp vốn của tư nhân. Như vậy việc giảm dần cơ cấu nguồn vốn ngân sách cho doanh nghiệp nhà nước lại đem lại tín hiệu tích cực cho nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả, có lợi nhuận lại góp phần tăng ngân sách nhà nước, cụ thể: Năm 2008, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã nộp ngân sách 225.251 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2007, chiếm 44% tổng số thu ngân sách nhà nước. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đóng góp 110.071 tỷ đồng, tăng 32% so với năm 2007; Tổng công ty Xăng dầu đóng góp 17.050 tỷ đồng, tăng 32%; Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông đóng góp 7.222 tỷ đồng, tăng 8%; Tổng công ty Viễn thông quân đội đóng góp 4.717 tỷ đồng, tăng khoảng 104% so với năm 2007... ( Theo báo cáo của Bộ Tài chính, nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đóng góp vào ngân sách nhà nước thấp không phải do hoạt động kinh doanh kém hiệu quả mà do phải thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định xã hội, ngăn ngừa sự suy giảm kinh tế, giữ vững tăng trưởng kinh tế ). 6.3.2. Khấu hao hàng năm Trước năm 1986 nguồn vốn được chia thành nhiều nguồn trong đó có khấu hao tài sản cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn. Các doanh nghiệp nhà nước trước đây được cấp vốn cố định để mua sắm xây dựng cơ sở vật chất (tài sản cố định ) ban đầu, khi đi vào hoạt động thì được cấp vốn lưu động để hoạt động. Mục đích của việc quản lý nguồn vốn khấu hao trước đây là nhằm bảo toàn vốn cố định được cấp tại doanh nghiệp trong việc quản lý vốn của doanh nghiệp. Theo thông tư của Bộ Tài Chính quyết định về khấu hao tài sản cố định (10/5/1990): Tất cả các Tài sản cố định hiện có ở các tổ chức kinh tế, các xí nghiệp quốc doanh, hạch toán kinh tế độc lập, có tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ nghiên cứu khoa học... đều phải thực hiện việc khấu hao và trích khấu hao vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông (dưới đây gọi chung là giá thành) để hình thành nguồn vốn đáp ứng nhu cầu sửa chữa lớn TSCĐ và mua sắm, đổi mới thay thế TSCĐ. Tốc độ khấu hao tài sản cố định nhanh chóng thì tốc độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp càng nhanh nên thời gian quay vòng vốn cũng diễn ra với chu kỳ ngắn. Bên cạnh đó tốc độ khấu hao tài sản cố định cũng cho thấy khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả hay không. 6.3.3. Lợi nhuận giữ lại Đây là một trong những nguồn vốn bên trong đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước muốn tồn tại và phát triển phải có lợi nhuận giữ lại sau khi lấy doanh thu trừ các khoản chi phí. Một số chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận của doanh nghiệp như tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận sau thuế. Thông thường mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp dương nhưng một số doanh nghiệp nhà nước vẫn có tỷ suất lợi nhuận trên vốn âm. Đó là những doanh nghiệp làm ăn không có lãi hoặc những doanh nghiệp không hoạt động vì mục tiêu sinh lời mà nhằm đảm bảo các mục tiêu dân sinh xã hội như giải quyết công ăn việc làm, đảm bảo cơ cấu kinh tế của ngành hoặc địa phương. Với một số doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất lợi nhuận âm thì không có lợi nhuận giữ lại, các doanh nghiệp này hoạt động nhờ các khoản vốn ngân sách và vay nợ ngân hàng. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận trên vốn âm không nhiều. Khá nhiều tổng công ty nhà nước làm ăn có hiệu quả như Tổng công ty xây dựng, tổng công ty công nghiệp môtô Việt Nam, Tập đoàn bưu chính viễn thông, Tập đoàn điện lực Việt Nam... Lợi nhuận giữ lại của các tổng công ty này đóng vai trò quan trọng trong nguồn vốn kinh doanh. Ví dụ, trước đây hiệu quả hoạt động sản xuất của các tổng công ty 91là rất thấp : năm 2006: vốn chủ sở hữu 180.000 – 200.000 ( tỷ đồng ); tài sản khoảng 500.000 – 550.000 ( tỷ đồng ); doanh thu 320.000 – 360.000 ( tỷ đồng ); lợi nhuận trước thuế 38.000 – 40.000 ( tỷ đồng ); nộp ngân sách 50.000 – 55.000 ( tỷ đồng ). Nhưng đến năm 2008, vốn chủ sở hữu tăng 95% so với trước năm 2006; tổng tài sản đạt 955.000 tỷ đồng, tăng 73%; doanh thu tăng 48%; lợi nhuận tăng 70%; nộp ngân sách tăng 248% so với trước năm 2006. 6.3.4. Thực hiện cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu trái phiếu * Cổ phần hoá Mục tiêu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được quán triệt trong Nghị quyết Hội nghị TW 3 khoá IX (tháng 8/2001) là “Tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản  lý năng động, có hiệu quả cho DNNN, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường giám sát của xã hội đối với DN, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, DN và người lao động. Nhờ cổ phần hóa, phần lớn các DNNN đã khắc phục tình trạng DNNN nhỏ lẻ, phân tán, dàn trải trong tất cả các ngành, lĩnh vực đã tập trung hơn vào 39 ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. CPH đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm ăn có lãi , lợi nhuận tăng cao. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để thu hút vốn, tập trung vốn vào các ngành quan trọng của quốc gia. Và các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô ngày càng lớn và mở rộng sang các lĩnh vực mà trước đây Nhà nước nắm giữ 100% vốn như điện lực, viễn thông, hàng hải, dầu khí, tài chính và bảo hiểm. Tình hình vốn chủ sở hữu nhà nước tại các DNNN cổ phần hoá 2000 2001 2002 2003 2004 2005 SốDN hoàn thành cổ phần hóa 211 203 185 537 805 744 DNcó vốn NN năm giữ >51% 21 27 29 250 371 246 DN có vốn NN nắm giữ từ 35%-49% 30 25 22 38 217 126 DN có vốn NN nắm giữ <35% 160 151 134 249 217 372 Nguồn: Đánh giá chính sách và thực trạng đầu tư vốn nhà nước vào kinh doanh-Bùi Văn Dũng, CIEM, 2006 *Phát hành cổ phiếu, trái phiếu. - Phát hành cổ phiếu ra công chúng là nguồn huy động vốn trong thị trường đáng kể từ khi Việt Nam mở cửa hội nhập với thế giới và cũng là những bước thay đổi đáng kể trong việc huy động sử dụng vốn và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. - Phát hành trái phiếu quốc tế: Sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam có thể được chia làm 2 giai đoạn, trước 2006 và từ 2006 đến nay. Trước năm 2006, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 120/CP ngày17/9/1994 của Chính Phủ về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Khi đó, thị trường này chưa phát triển, chỉ có các tổ chức tài chính tín dụng phát hành trái phiếu, còn trái phiếu doanh nghiệp thì có rất ít các doanh nghiệp phát hành. Tuy nhiên, kể từ năm 2006 trở lại đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có bước phát triển tích cực, đặc biệt là sau khi có Nghị định 52/CP về việc cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo hình thức riêng lẻ. Theo nguyên tắc, công ty có quyền huy động vốn dưới các phương thức khác nhau như vay, phát hành trái phiếu... để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do nhà nước chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động này nên có nhiều công ty nhà nước huy động vốn quá lớn, dư nợ phải trả lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu. Báo cáo mới nhất của Bộ Tài chính chỉ ra có 30/70 tập đoàn, tổng công ty có hệ số nợ phải trả trên vốn vượt trên ba lần, thậm chí nhiều đơn vị vượt trên 20 lần. Ví dụ như Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam gấp 21,8 lần... Để hạn chế tối đa rủi ro, đồng thời định hướng khuyến khích doanh nghiệp tập trung nguồn vốn huy động vào ngành nghề chính của mình, Bộ Tài chính đề xuất cơ chế huy động vốn được điều chỉnh. Theo tinh thần này thì nhà nước không hạn chế quyền huy động vốn của doanh nghiệp nhưng đối với các trường hợp có mức huy động vốn quá lớn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và độ an toàn tài chính của doanh nghiệp thì phải chịu sự giám sát của nhà nước. Mức độ an toàn về tài chính của doanh nghiệp là: hệ số nợ phải trả/vốn điều lệ không quá ba lần. Theo nguyên tắc thì công ty nhà nước được quyền chủ động huy động vốn. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đề xuất nếu hoạt động kinh doanh về đầu tư chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư không phải ngành nghề kinh doanh chính thì doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để đầu tư vào lĩnh vực này. Đồng thời, hội đồng quản trị có thẩm quyền quyết định các dự án huy động vốn trong phạm vi hệ số nợ phải trả trên vốn điều lệ của công ty không vượt quá ba lần. Trong trường hợp công ty có nhu cầu vay vốn vượt quá ba lần vốn điều lệ thì phải báo cáo đại diện chủ sở hữu. Sau khi quyết định, đại diện chủ sở hữu có trách nhiệm thông báo cho Bộ Tài chính để phối hợp theo dõi và giám sát. Hiện nay, chủ thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp không chỉ là doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngay cả nguyên tắc phát hành cũng thông thoáng hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp có quyền tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Điều này có nghĩa là Nhà nước không còn can thiệp quá sâu vào việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. 6.3.5. Bất động sản. Bất động sản là một trong những nguồn tài sản vô cùng quan trọng và có giá trị của các doanh nghiệp. Tuy nhiên phần lớn số bất động sản của doanh nghiệp nhà nước là do nhà nước cấp, vốn của nhà nước vì vậy không ít DN sử dụng nguồn này một cách lãng phí sai mục đích. Trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu đất và nhà xưởng để mở rộng sản xuất kinh doanh, phải đi thuê đất, thuê địa điểm thì nhiều doanh nghiệp nhà nước thừa đất, bỏ hoang gây lãng phí một phần tài sản lớn. Bất động sản còn là một sự đảm bảo, là thế chấp của doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn từ tổ chức tín dụng và các ngân hàng thương mại... Trong giai đoạn hiện nay giá bất động sản đang có những có biến động khó lường vì vậy các Ngân hàng thương mại đang giữ một khoảng cách với các khoản vay thế chấp bằng bất động sản để giảm thiểu rủi ro. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình thực hiện cổ phần hoá,trong đó việc xác định giá trị của các nguồn bất động sản đang gặp nhiều khó khăn.Các DNNN hầu như không thể xác định đúng giá trị ngồn vốn bất động sản của mình gây khó khăn trong việc định giá giá trị DN. 6.4. Các nhân tố khác. * Nguồn vốn từ ngân hàng thương mại Huy động từ các nguồn tín dụng: đây là nguồn vốn huy động quan trọng nhất của các doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất so với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước huy động được trên 50% tín dụng nội bộ và trên 70% tín dụng ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại Hiện nay, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đầu tư cho giáo dục và y tế nên việc trợ giúp cho các DNNN cũng rất hạn hẹp, vì vậy nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại là một trong những nguồn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp.Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng thương mại nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%. Chỉ cách đây một vài năm, doanh nghiệp Nhà nước vẫn là đối tượng khách hàng cạnh tranh của các ngân hàng. Lúc đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm đến 70%-80% tổng dư nợ cho vay của các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước nhưng từ năm 2004 đến nay tình hình đã khác. Hiện nay, còn nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả tình trạng nợ đọng triền miên, tuy nhiên nhà nước ta lại có những chính sách loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN, gây không ít khó khăn cho các ngân hàng. Hơn nữa, bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Không có ngân hàng nào đặt ưu tiên tín dụng vào doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian này. Phần nhiều các đơn vị xây dựng hiện nay là doanh nghiệp nhà nước và chịu sự quản lý trực tiếp của các tổng công ty. Khi vay vốn tại các ngân hàng, các tổng công ty thường đứng ra uỷ quyền và bảo lãnh cho đơn vị thành viên. Tuy nhiên, khi xảy ra việc mất khả năng thanh toán tại các đơn vị thành viên ngân hàng yêu cầu các tổng công ty thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng việc hợp tác của các đơn vị không mấy hiệu quả. Hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước thường gặp một số khó khăn như thường có nguồn vốn tự có thấp nên khả năng tự chủ về tài chính không cao. Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động các đơn vị này thường phải vay vốn ngân hàng có những phương án tỷ lệ vay vốn có thể lên đến 100% nhu cầu thanh toán. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước không có tài sản bảo đảm nên việc cho vay thường thực hiện theo hình thức tín chấp.Việc cho vay tín chấp mang nhiều rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. Tình hình các ngân hàng e ngại cho vay doanh nghiệp Nhà nước đang đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, tổ chức lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu không làm được như vậy, các doanh nghiệp Nhà nước khó lòng tìm kiếm được tài trợ về vốn từ các nhà đầu tư và định chế tài chính trung gian để đạt được mục tiêu giữ vị trí then chốt và nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta. * Ngoài ra hiện nay còn xuất hiện hình thức thuê mua tài chính, là một hình thức huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp thông qua việc đi thuê mua tài chính đối với tài sản. Thay vì trực tiếp mua thiết bị, doanh nghiệp yêu cầu một tổ chức tài chính mua thiết bị mình cần và thuê thiết bị đó. Sau khi hết thời hạn thuê, máy móc thiết bị đó có thể được bán lại cho doanh nghiệp với giá tượng trưng. Có thể nói mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng năm 1997 đến nay nhưng nhìn chung các công ty CTTC còn khá mới mẻ ở thị trường Việt Nam. Trên thị trường Việt Nam hiện nay rất nhiều DNNN cần vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị...nhưng thay vì đến các công ty tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các DN này lại tìm đến ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện để được vay vốn khó hơn rất nhiều.Thực trạng trên một mặt là do thói quen khó thay đổi của các DN Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh CTTC chưa được tuyên truyền phổ biến và quảng cáo rộng rãi ở Việt Nam. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY 1. Thực trạng huy động vốn 1.1. Nguồn vốn từ NSNN Đây là nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng thường xuyên của doanh nghiệp nhà nước. Có nguồn vốn ngân sách vừa là một thế mạnh nhưng cũng tạo không ít hạn chế trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) vì là người cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung cho doanh nghiệp. Như vậy, cho dù theo quy định của pháp luật, DNNN có quyền sử dụng, định đoạt vốn và tài sản trong kinh doanh để tạo ra lợi nhuận, nhưng vai trò chủ sở hữu đối với các tài sản trong doanh nghiệp vẫn thuộc về Nhà nước. Việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản trong DNNN liên quan trực tiếp đến nguyên tắc phân chia, sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn vốn do Nhà nước cấp và từ vốn của bản thân doanh nghiệp tự đầu tư, nhất là xác định tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp vào ngân sách Nhà nước (NSNN). Do đó, khi chưa có quy định cụ thể, rõ ràng làm căn cứ để phân định tài sản thuộc về sở hữu Nhà nước và tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động trong doanh nghiệp để xác định phạm vi trách nhiệm đối với từng tài sản đó, thì các nguyên tắc để bảo đảm quyền tự chủ về tài chính trong kinh doanh, bảo toàn vốn, ổn định nguồn thu cho NSNN sẽ khó thực hiện. Mặt khác, nếu vẫn quan niệm tài sản trong DNNN thuộc sở hữu Nhà nước và lợi nhuận làm ra đều phải nộp cho Nhà nước, thì sẽ không tạo ra động lực gắn bó người lao động với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khi họ đưa lợi nhuận thu được, tức tài sản thuộc sở hữu của tập thể người lao động để tái đầu tư sản xu t kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiện nay, chế định về sở hữu tài sản trong DNNN vẫn chưa quy định rõ các căn cứ để xác định chế độ sở hữu khác nhau đối với các nguồn vốn, tài sản trong DNNN và các nguyên tắc, chế độ phân phối lại lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đứng trước cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt thì sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước có khi làm giảm khả năng cạnh tranh trong phần đông các DNNN. làm ăn thua lỗ Một thực tế là, DNNN, đến cuối năm 2004 chỉ còn 25% DNNN đang hoạt động có hiệu quả, “cơ chế tái bao cấp” trở thành phổ biến, việc khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đã gây thiệt hại không nhỏ cho ngân sách Nhà nước, song không xác định được trách nhiệm thuộc về hoạt động kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp hay thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nước. Thực hiện chế độ phân cấp, uỷ quyền, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính là người thực hiện quyền và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu về vốn và tài sản trong DNNN (theo NĐ 34/CP). Song trên thực tế, UBND cấp tỉnh, các Bộ quản lý ngành cũng có một số quyền của đại diện chủ sở hữu như quyết định bổ sung vốn lưu động, quyết định phương án đầu tư vốn vào các dự án liên doanh, quyền phê duyệt các phương án thế chấp, cầm cố các tài sản có giá trị lớn... Như vậy, rõ ràng có sự chồng chéo trong việc thực hiện quyền của chủ sở hữu là Nhà nước với tư cách là người góp vốn đối với việc quản lý vốn, tài sản trong doanh nghiệp. Hiện nay, chúng ta đang có quá nhiều đại diện sở hữu, có quá nhiều cơ quan Nhà nước và thực hiện quyền quản lý Nhà nước, việc chỉ đạo, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như việc tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh doanh khó có thể bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, có hiệu quả, gây khó khăn, lúng túng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đáng chú ý là do có nhiều cơ quan quản lý, đại diện chủ sở hữu nên khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, vi phạm pháp luật thì việc xác định trách nhiệm cũng rất khó khăn 1.2. Nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại Nhu cầu vay vốn của các DN ngày càng gia tăng trước sức ép tăng khả năng cạnh tranh của mình. Qua điều tra cho thấy, nhìn chung, tỷ trọng vốn vay ngân hàng của các DNNN chiếm rất lớn trong tổng nguồn vốn, như các DNNN hoạt động thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp và thuỷ sản, xây dựng chiếm tỷ trọng khoảng 50-70% trong tổng nguồn vốn, vốn nhà nước chỉ chiếm 20 -40%. Đối với DN ngoài quốc doanh, chủ yếu các DN vừa và nhỏ, nhu cầu vốn trung, dài hạn cũng rất lớn nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ. Trong khi TTCK của ta chưa phát triển, khả năng huy động vốn trực tiếp chưa cao thì nguồn vốn từ các trung gian tài chính mà chủ yếu là hệ thống các ngân hàng mà DN có thể tiếp cận chiếm vai tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguồn vốn trong doanh nghiệp, phân tích thực trạng huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước.doc
Tài liệu liên quan