LỜI NÓI ĐẦU . 1
NỘI DUNG. 2
PHẦN I. VÀI NÉT VỀ DOLLAR HOÁ VÀ THỰC TRẠNG DOLLAR HOÁ Ở VIỆT NAM . 2
I. Khái quát về dollar hoá. . 2
1. Thế nào là dollar hoá?. 2
2. Phân loại dollar hoá. 3
II. Thực trạng dollar hoá ở Việt Nam. 5
PHẦN II. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG DOLLAR HOÁ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA DOLLAR HOÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. 10
I. Nguyên nhân của tình trạng dollar hoá. 10
1. Nguyên nhân sâu xa. 10
2. Nguyên nhân trực tiếp. 11
II. Ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá đến nền kinh tế
Việt Nam. 13
1. Tác động tích cực. 14
2. Tác động tiêu cực. 14
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ. 17
I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề dollar hoá. 17
II. Các giải pháp và kiến nghị. 18
1. Một số giải pháp đã được đề xuất. 18
2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất. 18
3. Những giải pháp kiến nghị. 20
KẾT LUẬN. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33,5
31,7
33,2
33,6
39,1
45,3
VND
60,8
66,5
68,3
66,8
66,4
60,9
54,7
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
. Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 9 năm 2001)
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước 1999 và thời báo Ngân hàng số 78/2000.
Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh toán cho các hoạt động buôn bán, các bên xuất_nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ đồng tiền của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông thường là các đồng tiền mạnh. Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của Ngân hàng nhờ đó mà tăng hơn.
Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng.
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
ngoại tệ
38,6
38,7
36,6
31,2
25,2
22,6
18,6
VND
61,4
61,3
63,4
68,8
74,8
77,4
81,4
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
Đơn vị: %
(Số liệu tính đến hết tháng 10 năm 2000)
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000. Tin tức (TTXVN) số 534/2000.
Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế dollar hoá, các ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nếu rủi ro phá giá cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy cho vay ngoại tệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam đến năm 2000 chỉ chiếm chưa đến 20% tổng số dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Như vậy, những biểu hiện của hiện tượng dollar hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái dollar hoá tiền gửi.
Thứ 2 Các Ngân hàng thương mại (NHTM) có một khối lượng USD lớn ở các ngân hàng (NH) nước ngoài được xem như là “Xuất khẩu tư bản”.
Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay bằng ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ được NH sử dụng để dầu tư kiếm lời cho mình thông qua các hoạt động trên thị trường quốc tế.
Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống NH.
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ trọng
135
148
141
104
73
47
33
Đơn vị: %
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 1+2/2000; Tin tức (TTXVN) số 534/2000, Báo cáo thường niên của NHNN năm 1999).
Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ, trong giai đoạn 1994_1997, cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động của các NH, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp phần thiếu hụt này. Giai đoạn 1998_2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các NH kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu Chính phủ.
Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thương mại của cả nước là nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu cấp bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nước ngoài thì chúng ta lại gửi một khối lượng USD không nhỏ ở nước ngoài. Sự “đảo hối” này do chính sách tiền tệ và những chính sách kinh tế vĩ mô khác tạo ra là chưa hợp lý.
Thứ 3 Xu hướng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa. Đặc biệt dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lưu thông tiền trong nước tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ lớn nhiều hơn so với chỉ số giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là 145,4% và năm 1991 là 203,1%. Và hiện nay cũng vậy, đáng quan tâm là hai năm 1999 và 2000 trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%) thì sức mua đối nội của VND tăng lên, nhưng sức mua đối ngoại của VND lại giảm 4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000 giảm 3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến nay tăng nhanh nhất là từ tháng 6 đến nay nhưng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa trở nên hấp dẫn hơn.
Thứ 4 Đồng USD được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam một cách tương đối phổ biến. USD được sử dụng để biểu hiện giá trị và đo lường giá trị của các hàng hoá và dịch vụ. Giá cả hàng hoá được công khai ấn định bằng USD và được đăng tải trên các thông tin và giá cả thị trường.
Thứ 5 Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành như một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với những tên gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1vé). Hiện tượng này có thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ. Song song tồn tại việc thanh toán bằng VND thì ở các nhà hàng, khách sạn, các siêu thị, khách hàng kể cả người dân trong nước và người nước ngoài đều có thể dể dàng thanh toán bằng USD. Hiện tượng sử dụng USD đã bắt đầu xâm nhập vào mọi hoạt động của người dân Việt Nam, từ việc mua linh kiện của máy vi tính cho đến phương tiện đi lại như xe máy người ta cũng có thể dễ dàng giao dịch bằng USD.
Ngoài ra, USD còn là phương tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp với các hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu.
phần ii: nguyên nhân của tình trạng dollar hoá
và những ảnh hưởng của dollar hoá
đến nền kinh tế việt nam.
I. nguyên nhân của tình trạng dollar hoá.
Hiện tượng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua, các nhà NH cũng như các nhà kinh tế học đã đề xuất những ý kiến khác nhau về những nguyên nhân nào gây ra hiện tượng dollar hoá. Họ đều phát hiện ra rằng hiện tượng dollar hoá thường xảy ra ở các nước mà nền kinh tế có lạm phát cao và hậu quả của lạm phát. Tuy nhiên lạm phát không phải là nguyên nhân duy nhất để giải thích được hiện tượng dollar hoá trong thời kì hiện nay khi lạm phát đã được kìm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp.
1. Nguyên nhân sâu xa:
Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới thì đó là:
_Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế đó. Dollar hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp, các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát chặt chẽ, nhất là buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiêu ngạch.
_Trình độ dân trí, cùng tâm lý người dân. Các nước có trình độ dân trí chưa cao, người dân còn có thói quen nắm giữ vàng và dollar thì thường là nền kinh tế có mức dollar hoá cao.
_Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh toán. Rõ ràng là khi hệ thống NH còn non trẻ, hoạt động thanh chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường là có tình trạng dollar hoá ở nền kinh tế.
_Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Néu như đồng nội tệ ổn định, cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng dollar hoá nền kinh tế rất khó xảy ra.
Khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ_đồng tiền của quốc gia đó.
2. Nguyên nhân trực tiếp:
Ngoài những nguyên nhân trên, tình trạng dollar hoá còn do những yếu tố sau:
_Biến động tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống NH trong những năm qua, đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của các tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990; sự tăng trưởng cao và ổn định nền kinh tế Mĩ đã làm cho đồng dollar Mĩ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á xảy ra đã có tác động nhất định làm giảm giá trị của đồng Việt Nam, và ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế trong nước. Trong khi đó, thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, với tâm lý muốn tiết kiệm để lo cho cuộc sống tương lai thì người dân lựa chọn những đồng tiền mạnh và ổn định.
Đồng dollar được sử dụng khá tự do. Trong cơ chế quản lý ngoại hối hiện nay của nhà nước ta, cho phép người Việt Nam nhận tiền kiều hối, tiền của người thân ở nước ngoài chuyển về bằng ngoại tệ mà không bắt buộc phải bán cho NH, nhận VND như trước đây. Trong bối cảnh VND liên tục giảm giá so với USD, lãi suất USD hấp dẫn nên rõ ràng họ không dại gì mà chuyển đổi sang nội tệ_VND.
Đối với các doanh nghiệp trước đây quy định phải kết hối 80% nhưng tỷ lệ kết hối quy định giảm xuống còn 40% tức là một doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ, trước đây quy định phải bán ngay tới 80% cho NH, thì nay chỉ phải bán 40%. Trước diễn biến về tỷ giá và thị trường việc bán ngoại tệ thì dễ mà mua lại ngoại tệ của NH thì hết sức khó khăn. Trong khi đó, tỷ giá thì tháng này một mức tháng sau lại khác. Do đó, các doanh nghiệp sẽ hết sức tỉnh táo khi chỉ bán ngoại tệ theo tỷ lệ kết nối quy định, thậm chí còn chần chừ, trì hoãn việc bán ngay mà để tồn tại số dư ngoại tệ trên tài khoản là điều dễ hiểu.
_Thu nhập bằng USD trong tầng lớp dân cư tăng lên và mở rộng. Đó là do người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và tổ chức quốc tế ở Việt Nam, tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh khách sạn mini, kinh doanh du lịch, tiền của người Việt Nam ở nước ngoài đi xuất khẩu lao động hay đi học tập, tiền kiều hối gửi về, tiền của người Việt Nam đi hội thảo, học tập và làm việc ngắn hạn ở nước ngoài mang về.
Người Việt Nam đi du lịch ra nước ngoài gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Các công ty du lịch đều niêm yết, thông báo, quảng cáo giá cả tour du lịch bằng USD. Do đó, muốn đi du lịch phải có ngoại tệ, phải tích trữ USD. Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài phải đặt cọc một khoản bằng USD trong tài khoản NH. Mà số lượng người này cũng tăng lên rất nhanh rong thời gian qua. Bên cạnh đó, người Việt Nam đi du học nước ngoài bằng các hình thức khác nhau, chủ yếu là đi du học tự túc đang tăng lên gấp bội. Muốn được chấp nhận vào học ở nước ngoài, người xin đi học phải chứng minh được năng lực tài chính của mình, thể hiện bằng số dư tiền gửi USD trong các NH Việt Nam. Tiếp đến trong quá trình học, gia đình ở trong nước phải thường xuyên chuyển tiền cho con em mình theo học bằng USD thông qua các NH. Do đó phải có số dư tiền gửi USD tại các NH để chuyển tiền ra nước ngoài cho con em du học.
_Cơ chế về lãi suất đã làm cho khuynh hướng dollar hoá không giảm. Thể hiện ở chỗ, từ năm 1991 đến nay, trong công cuộc chống lạm phát ở Việt Nam, lãi suất tín dụng NH (lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay) đã được điều chỉnh hạ thấp nhiều lần. Lãi suất tín dụng bằng VND vẫn luôn cao hơn lãi suất tín dụng bằng USD. Biên độ chênh lệch giữa lãi suất tín dụng bằng USD và VND tạo ra khe hở cho việc lợi dụng ăn chênh lệch lãi suất, nhất là đối với các doanh nghiệp vay vốn và kích thích vay vốn tín dụng bằng USD làm cho khuynh hướng dollar hoá không được giảm đi.
Với quy định số 08 NH/QĐ ngày 14/01/1991 và thông tư số 02/2000/NHNN7 ngày 24/02/2000, quyết định số 180/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ của các tổ chức có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50% các NHTM được nâng lãi suất tiền tiết kiệm USD để thu hút ngoại tệ. Khi vốn ngoại tệ bị ứ đọng, các NHTM đã gửi vốn ra nước ngoài hưởng lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngoại tệ ở trong nước. Tất cả những điều chỉnh ấy đã kích thích người dân, các doanh nghiệp tìm kiếm nắm giữ ngoại tệ, chuyển dịch tài sản của họ từ VND sang USD bằng cách gửi tiết kiệm ngoại tệ vào NH để hưởng lãi kép (lãi tiết kiệm và lãi tỷ giá).
_Mệnh giá của tờ VND thấp (cao nhất chỉ 100.000Đ, chưa bằng 7USD), thực chất chỉ đáp ứng những nhu cầu lưu thông chi trả bình thường còn giá cả những mặt hàng thông dụng phải sử dụng tới các mệnh giá cao nhất. Đó cũng là một lý do dẫn tới việc sử dụng USD trở nên rất thích hợp, thuận tiện về nhiều phương diện. Mệnh giá đồng tiền chỉ là vấn đề kỹ thuật của chế độ tiền tệ nhưng nếu không thích ứng cũng là một yếu tố để USD chiếm vị trí của đồng bản tệ và thúc đẩy quá trình dollar hoá.
_Thời kì từ năm 1992 đến nay khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, Chính phủ đã quyết định chấm dứt sử dụng biện pháp phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt NSNN. Nhưng trong thực tế, việc còn sử dụng một bộ phận vốn tiền phát hành và sử dụng một bộ phận USD của quỹ điều hoà ngoaị tệ của NHNN để làm nguồn vốn tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước hoặc vốn cho vay trung hạn của các NHTM quốc doanh, thực chất vẫn là bù đắp thiếu hụt NSNN và là nguyên nhân thúc đẩy thêm quá trình dollar hoá ở Việt Nam.
_Hệ thống kho bạc Nhà nước huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu (USD) để bù đắp thiếu hụt NSNN cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình dollar hoá ở Việt Nam.
_Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn lậu qua biên giới và trên biển khá phát triển và quản lý lỏng lẻo. Tình trạng các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các cửa hàng kinh doanh, các cửa hiệu vàng bạc bán hàng thu ngoại tệ, thu đổi ngoại tệ còn tuỳ tiện, diễn biến phổ biến.
ii. ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá đến nền kinh tế việt nam.
Dollar hoá không chỉ là một vấn đề ở Việt Nam mà đang là một vấn đề lớn đã và đang diễn ra trên thế giới. Có nhiều người cho rằng dollar hoá là một hiện tượng hoàn xấu và cần xoá bỏ. Có ý kiến lại cho rằng dollar hoá nó cũng có mặt tích cực cần được phát huy. Đặc biệt với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay nhiều cuộc thảo luận về vấn đề dollar hoá chính thức nền kinh tế đối với các nước chậm phát triển đã được tổ chức. Tuy nhiên một hiện tượng nào đó cũng có hai mặt của nó, có khi mặt đúng, mặt tích cực của thời kì trước có thể trở thành mặt tiêu cực của thời kì phát triển sau. Bởi vậy ta cũng có thể thấy được hiện tượng dollar hoá có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực.
1. Tác động tích cực.
_Có một lượng lớn ngoại tệ, các NH có điều kiện mở rộng các hoạt động của mình nhất là các hoạt động đối ngoại. Hơn nữa, sự tồn tại của các khoản tiền gửi bằng USD tại các NH trong nước tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế.
_Một lực lượng USD được gửi trong các NH tạo thành nguồn vốn ngoại tệ lớn để cho vay và đầu tư cho nền kinh tế, hạn chế được việc phải đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của các NH gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các NH trong nước đem gửi ở nước ngoài. Rõ ràng là người dân cũng được hưởng lợi từ lãi suất hơn là cất trữ trong nhà, các NH cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích như ở phần trên. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ.
_Thêm vào đó, thời kì cả cán cân thương mại và cán cân thanh toán đều thâm hụt nghiêm trọng việc thu hút mọi nguồn USD trôi nổi trên thị trường và các chính sách để thu hút kiều hối qua NH là một giải pháp tích cực để đảm bảo nhiều cân đối vật chất khác của nền kinh tế.
_Một đất nước với một đồng tiền riêng thường được phát hành bởi NHTƯ-sẽ có chính sach tiền tệ của nó. Trên lý thuyết thì điều này cho phép NHTƯ quản lý được mức cung tiền, lãi suất, tỷ giá nhằm đến mục tiêu chỉ vì lợi ích của riêng đất nước đó. Trên thực tế thì hầu như tất cả các nước đang phát triển đã trải qua những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tiền tệ của họ-đó chính là việc các nước này thiếu rất nhiều những thể chế cũng như kinh nghiệm cần thiết về thiết kế, điều hành, thực thi chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh đó thì việc dollar hoá dường như là một bước tiến quan trọng trong việc ổn định gía cả trong nước, đặc biệt là những nước thường mắc phải những vấn đề nghiêm trọng về chính sách tiền tệ.
2.Tác động tiêu cực.
_Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ không được độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi có những cuộc khủng hoảng xảy ra. Dollar hoá làm giảm hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ:
+Gây khó khăn cho việc dự báo diễn biến tổng phương tiện thanh toán. Qua đó, việc quyết định tăng, giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xácvà kịp thời.
+Dollar hoá cũng làm cho cầu đồng Việt Nam nhạy cảm hơn đối với những thay đổi từ bên ngoài, những cố gắng trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay đều trở nên kém hiệu quả.
+Tình trạng dollar hoá có tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Dollar hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định do người cư trú có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang dollar Mĩ làm cầu dollar Mĩ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
_Trong trường hợp tỷ lệ tiền gửi dân cư bằng ngoại tệ cao như hiện nay, thì các NH sẽ gặp khó khăn về khả năng thanh toán khi có những biến động làm người dân đổ xô đi rút ngoại tệ trong khi số ngoại tệ này đã được NH cho vay, đặc biệt cho vay dài hạn, khi đó NHNNVN cũng sẽ không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành dollar Mĩ.
_Các NHTƯ vốn có một chức năng có tính lịch sử là chức năng người cho vay cuối cùng với các NHTM. Là người cho vay cuối cùng, NHTƯ sẵn sàng cung cấp các khoản cho vay thanh toán đối với hệ thống NH khi có sự rút tiền khỏi hệ thống NH một cách có hệ thống. NHTƯ thực hiện chức năng này chủ yếu bằng nguồn vốn tự có của mình để tạo ra khả năng thanh toán-một nghiệp vụ không thể có được trong hệ thống dollar hoá. Bởi vậy, dollar hoá sẽ làm hạn chế vai trò của NHTƯ là người cho vay cuối cùng.
Hạn chế các đặc quyền riêng của NHTƯ trong phát hành tiền để mua ngoại tệ, tăng quỹ dự trữ ngoại tệ và sử dụng nó không chỉ với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ mà còn là mục tiêu tăng tiềm lực kinh tế cho đất nước.
_Dollar hoá sẽ tăng hạn chế vai trò của tỷ giá hối đoái trong chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ. Nó có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Nhưng trong nền kinh tế bị dollar hoá, tỷ giá bị cố định, nên sẽ hạn chế việc thực hiện chính sách xuất khẩu. Mặt khác lại kích thích nhập siêu (trong đó có cả nhập lậu) do VND chịu sức ép tăng giá so với USD.
_Dollar hoá trong xã hội đã như chất xúc tác giúp một bộ phận dân chúng quen thói làm ăn bất chính sử dụng USD vào việc buôn lậu hàng nhập khẩu qua biên giới, tiếp tay cho một số Việt kiều làm ăn không đàng hoàng, tiến hành đầu tư chui đến nay vẫn chưa gỡ xong. Bên cạnh đó, tình trạng đào hối chảy máu ngoại tệ qua biên giới, cửa khẩu quốc tế và nạn rửa tiền ma tuý gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến tình trạng dollar hoá. Như vậy, khi nền kinh tế bị dollar thì không tước được vũ khí lợi hại (USD) của các kẻ buôn lậu trên các tuyến, phá rối thị trường và làm cho các doanh nghiệp sản xuất ở trong nước bị đình đốn.
_VND không làm được trọn vẹn các chức năng của mình và phải “cạnh tranh” trong thế yếu so với một đồng tiền mạnh, tự do chuyển đổi ở tất cả các nước. Từ đó mục tiêu tiến tới trên đất nước Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam không đạt được. Đồng nội tệ không dược coi trọng.
Mọi người đều coi đồng tiền của nước mình là biểu tượng của chủ quyền dân tộc. Và khi một nước dollar hoả chính thức thì cũng tạo điều kiện cho các chính khách nước đó dễ dàng đổ lỗi cho chính sách tiền tệ của Mĩ hay nước nào đó mà có đồng tiền đang được sử dụng ở nước ngoại tệ hoá, khi mà họ vướng mắc phải những điều kiện khó khăn, bất ổn về kinh tế do việc điều hành, quản lý yếu kém. Đối với Mĩ, đây là vấn đề được quan tâm đầu tiên khi vấn đề dollar hoá nổi lên.
phần iii. các phương pháp và kiến nghị.
i. quan điểm của Đảng và nhà nước về vấn đề dollar hoá.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và NHNN trong vấn đề dollar hoá là “Xoá bỏ dollar hoá trong nền kinh tế-xã hội nước ta phải thực hiện từng bước từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước, phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hôi trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ NH cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong chức năng thuộc tính của tiền tệ”.
Giải đáp tại kì họp Quốc hội năm 2000 về vấn đề dollar hoá, Thống đốc NH Lê Đức Thuý nói: “Tình trạng dollar hoá đang gia tăng, xử lý vấn đề này về hình thức có vẻ đơn giản nhưng trên thực tế thì rất khó. Đó là một cuộc chiến gay go và chắc chắn là chưa thể giải quyết trong một sớm một chiều. Bởi vì mỗi người có góc độ lợi ích riêng của mình, cho nên cũng xin báo cáo với Quốc hội rằng sẽ có nhiều giải pháp đụng đến thói quen ấy, nhất định sẽ có nhiều phản ứng. Mong được sự chia sẻ, đồng tình và hỗ trợ của Quốc hội”.
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong vấn đề dollar hoá ở nước ta rất rõ ràng. Từ những nhìn nhận nói trên đặt ra trước mắt các nhà hoạch định chính sách, thiết lập cơ chế quản lý vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ ngoại hối, cần có chung quan điểm thực tiễn và kiên trì để có đối sách đúng đắn và nhất quán trong vấn đề xử lý dollar hoá ở nước ta. Rõ ràng dollar hoá không đơn thuần là vấn đề kinh tế-tiền tệ-ngoại hối của riêng ngành NH phải giải quyết, mà còn là vấn đề chính trị-xã hội, vấn đề an ninh kinh tế và mặt nào đó cũng có tính chất quốc tế gắn với xu thế và hội nhập trong điều kiện mới của thế giới ngày nay.
ii. các giải pháp và kiến nghị.
1. Một số giải pháp đã được đề xuất.
Vấn đề dollar hoá đã có những biểu hiện ở Việt Nam trong năm 2000. Thời gian qua trên các báo và tạp chí thuộc lĩnh vực kinh tế-tài chính-ngân hàng đã đăng nhiều bài viết tranh luận về vấn đề dollar hoá ở nước ta. Nhiều giải pháp giải quyết vấn đề này đã được đưa ra. Nhiều người đã đề xuất giải pháp như sau: Xoá bỏ cơ chế đa sở hữu ngoại tệ, tập trung việc thu chi ngoại tệ vào NH; không trả kiều hối bằng ngoại tệ; không huy động tiết kiệm bằng ngoại tệ để nhất quán với việc NHNN không thực hiện bảo hiểm tiền gửi bằng ngoại tệ; không cho vay và bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để nhất quán với việc NHNN không cho NHTM vay chiết khấu bằng ngoại tệ; thực hiện kết hối 100% ngoại tệ các doanh nghiệp có thu ngoại tệ phải bán hết cho NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ; mọi nhu cầu chi ngoại tệ cần thiết và hợp lý đều được mua tại NH theo kế hoạch dự trù và được NH thoả thuận.
2. Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất.
_Bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ phải mở tài khoản ngoại tệ tại một NH được phép. Giải pháp này thực ra không phải mới mẻ đối với nước ta bởi trước đây trong quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như để thực hiện biện pháp kết hối theo kế hoạch, NH đã đưa ra giải pháp yêu cầu các doanh nghiệp phải mở một tài khoản ngoại tệ tại một NH. Quy định này đã gây ra không ít khó khăn cho doanh nghiệp và tạo sự phản ứng mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp. Nếu quy định như vậy có nghĩa là doanh nghiệp chỉ được quan hệ tín dụng thanh toán và sử dụng dịch vụ khác của NH khác từ một NH, không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng để nâng cao chất lượng dịch vụ NH, gây ra sự rủi ro mà doanh nghiệp sẽ gặp phải khi toàn bộ vốn bằng ngoại tệ được gửi tại một NH gạp khó khăn về tài chính. Do đó biện pháp nay hoàn toàn không khả thi.
_Tăng tỷ lệ kết hối lên 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai. Đây là một giải pháp mang nặng tính hành chính là hạn chế về ngoại hối trong các giao dịch vãng lai. Việc quy định bắt buộc phải kết hối 100% nguồn thu ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai sẽ đẩy các rủi ro về tỷ giá về các doanh nghiệp trong khi các công cụ chống rủi ro về tỷ giá của ta còn chưa phát triển.
_Về giải pháp chi trả tiền kiều hối bằng VND và không cho cá nhân được gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ. Trước tiên, phải thừa nhận rằng đây là một giải pháp hành chính để giảm tình trạng dollar hoá đang diễn ra ở Việt Nam. Nhưng một điều không thể phủ nhận rằng chính sách kiều hối của ta trong giai đoạn vừa qua đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể chuyển về Việt Nam, được chứng minh bằng số ngoại tệ chuyển về tăng qua các năm: năm 1997 là 400 triệu USD; năm 1998 là 950 triệu USD; năm 1999 là 1,2 tỷ USD; năm 2000 gần 1,7 tỷ USD. Cho người Việt Nam nhận kiều hối bằng ngoại tệ là một giải pháp tình thế trước mắt góp phần không nhỏ giảm bớt sự mất cân đối về cung cầu ngoại tệ trong thời gian qua. Trong khi giá trị VND còn chưa được ổn định bền vững và không thể quay lại việc điều hành tỷ giá theo cơ chế đa tỷ giá, đưa ra tỷ giá ưu đãi đối với người Việt Nam nhận tiền ở trong nước.
Do trong thời gian qua lãi suất bằng USD trên thị trường quốc tế tăng, đặc biệt, khi cục dự trữ liên bang Mĩ tăng lãi suất chỉ đạo ba lần trong năm 2000 làm ảnh hưởng đến lãi suất huy động bằng USD trong nước. Vì vậy, lượng ngoại tệ của dân cư gửi tại các NHTM cũng tăng lên. Giả sử giải pháp không cho cá nhân người Việt Nam gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ được áp dụng thì điều gì sẽ xảy ra khi người gửi tiền rút tiền mặt ngoại tệ ra khỏi NH hoặc phải bán ngoại tệ cho các NH. Lúc đó người gửi tiền sẽ dùng lại VND để mua lại ngoại tệ tại thị trường bên ngoài gây ra áp lực lên giá giữa VND với USD và sẽ gây không ít khó khăn cho NHNN trong việc kiểm soát đối tượng tiền tệ trong lưu thông. Mặt khác, biện pháp này sẽ làm kém đi việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nội lực trong nước trong khi nhìn tổng thể Việt Nam là một đất nước đang thiếu vốn. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy là một nước luôn đưa ra chế độ quản lý ngoại hối chặt chẽ, tuy có lượng dự trữ ngoại hối tương đối lớn vào khoảng 150 tỷ USD, đồng Nhân dân tệ luôn giữ ổn định giá trị, nhưng Trung Quốc vẫn áp dụng cho phép cá nhân gửi tiền tiết kiệm bằ ng ngoại tệ. Bởi vậy đi đôi với việc huy động bằng ngoại tệ, chúng ta cần phải xem xét một cách đúng mức phạm v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0590.doc