Đề tài Nguyên nhân và giải pháp khắc phục tâm lý ngại học môn nghe tiếng anh đối với sinh viên năm thứ nhất ở các trường đại học

Đọc: hay còn gọi là kĩ năng đọc hiểu. Để làm được kĩ năng này, bạn phải có một vốn từ vưng khá và có các kĩ năng đọc tốt như: đọc lướt, đọc lấy thông tin chính .

Các dạng bài tập thường gặp

1- Chọn đáp án đúng ( A,B,C,D )

2- Đọc đoạn văn đánh “true”,“false” vào những ô trống đã cho sẵn

3- Điền một từ thích hợp vào ô trống trong đoạn văn đã cho

4- Trả lời câu hỏi dựa vào nội dung của đoạn văn

Cách thức làm một bài đọc: Thường thì giáo viên tiếng Anh hướng dẫn sinh viên theo hai cách cơ bản sau:

- Thứ nhât: Đọc đoạn văn  tóm tắt đoạn văn  trình bày lạinội dung củađoạn văn theo ý hiểu của mình

- Thứ hai : Viết headline cho từng đoạn và cho cả bài đọc

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2538 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên nhân và giải pháp khắc phục tâm lý ngại học môn nghe tiếng anh đối với sinh viên năm thứ nhất ở các trường đại học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc. Câu hỏi 6: Nếunhư những câu hỏi trên chúng ta chỉ đề cập đến những vấ đề về bộ môn tiếng Anhnói chung thì đến câu hỏi này chúng ta đi tìm hiểu một vấn đề, một khía cạnh của nó. Đó là bộ môn nghe hiểu hay còn gọi là kĩ năng nghe. Khi được hỏi về kĩ năng này thì 31,7 % trả lời là thích học nghe, 455 sinh viên trả lời là bình thường, còn 23.3% trảlời là không thích. Như vậy so với câu hỏi 5 khi hỏi về suy nghĩ của các bạn đối với bộ môn tiếng Anh thì ở câu hỏi này số sinh viên trả lời là không thích bộ môn nghe tiếng hiểu tăng lên đáng kể tăng hơn 15%. Rút ra ý nghĩa là kĩ năng nghe là một kĩ năng khó đối với các bạn sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch viện đại học Mở. Vấn đề đặt ra là làm sao khắc phục được nó. Đây không phải là câu hỏi của riêng bản thân em trong đềtài này mà nó còn là trăn trở của nhiều giáo viên và các bạn sinh viên trong khoa trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học. Câu hỏi 7:Về phương pháp dạy và học tiếng Anh ở trường đại học Mở thị có 21,7% sinh viên cho rằng là tốt, 58,3% cho là bình thường, 30% cho là phương pháp dạy là chán và không hay. Nhiều ý kiến từ các bạn sinh viên cho rằng chất lương và kết quả học của họ chưa cao, chưa có hiệu quả là do thiếu sự giảng dạy của chuyên gia nước ngoài. Thực ra, như từ những năm trước đây các bạn sinh viên năm thứ nhất của các khoá trên được tiếp xúc và làm quen dần với phương pháp dạy của các giảng viên nước ngoài. Nhưng năm nay, do điều kiện không cho phép giáo viên, chuyên gia nước ngoài được nhà trường bổ nhiệm giảng dạy khoá 10 có việc đột xuất nên tạm thời không thể tham gia giảng dạy với các bạn năm thứ nhất khoa du lịch được. Thực ra nói theo một cách khách quan thì bộ phận giáo viên giảng dạy tiếng Anh người Việt Nam trình độ không thua kém gì các chuyên gia bởi các thầy cô cũng được đào tạo kĩ qua các trường lớp chuyên ngành du lịch, Trong giờ học các thầy cô giảng dạy rất nhiệt tình, rất có tinh thần trách nhiệm.Các giáo viên cũng kết hợp học và chơi, chơi và học làm cho tiết học trở nên hứng thú, không khí lớp học bớt căng thẳng và trở nên sôi nổi hơn Vậy với những ưu điểm và những khía cạnh tích cực như đã nêu ở trên tại sao số lượng sinh viên cho rằng phương pháp dạy tiếng Anh ở trường ta là không tốt, khônghay lại vẫn chiếm tỉ lệ cao tương đối như vậy (xấp xỉ 1/3 sinh viên được điều tra )? Hay đó chỉ là ý kiến mang tính chất chủ quan của sinh viên.Tức là sinh viên quá coi trọng việc giảng dạy của giáo viên nước ngơài. Câu hỏi 8: Khi được đưa ra câu hỏi về ý kiến của các bạn về giáo viên tiếng Anh thì kết quả thu được không mấy khả quan 13,5% sinh viên cho rằng giáo viên của họ dạy khó hiểu, 56,7% sinh viên cho là bình thường và 29,8% cho là giáo viên dạy hay và dễ hiểu. Như vậy là bên cạnh những bạn cho rằng giáo viên tiếng Anh dạy tốt còn một số bạn đưa ra ý kiến nhận xét chưa khách quan,chưa đúng về giáo viên tiếng Anh trường ta.Theo như tổng kết về những mặt mạnh về đội ngũ giáo viên đã được phân tích,trình bày ở câu 7và theo ý kiến đông đảo của đại đa số sinh viên phản ánh về giáo viên trường ta là có năng lực, sôi nổi, có tinh thần trách nhiệm cao, cách thức giảng dạy hay... Từ đó ta có thể rút ra nhận định sau Một là: các bạn sinh viên {xet sinh viên khoá X năm đầu của trường }.trong quá Làm quen với các kĩ năng tiếng anh mới ,phương pháp dạy và học mới các bạn vẫn còn tâm lí chưa quen .Nên việc tiếp thu và lĩnhhội kiến thức hay bài giảng đối với các bạnquả là không mấy dễ dàng .Điều này dẫn đến một hệ quả là kết quả học tập của các bạn không cao ,chưa có hiệu quả .chính vì vậy mà trong số những sinh viên của khoa không ít những bạn đổ lỗivề kết quả học tập của mình cho đội ngũ giáo viên tiếng anh hay nói cách khác là họ dồn hết trách nghiệm cho các giáo viên bộ môn Hai là ,do trình độ tiếng anh của các bạn là khác nhau trong một nhóm ,một lớp, một khối. Nên trong quá trình giảng dạy và truyền đạt kiến thức vẫn còn những điểm không tương đồng giữa thàyvà trò .Bởi có thể phương pháp giảng day của giáo viên bộ môn tiếng anh phù hợp với trình độ ,khả năng nhận thức của đối tượng sinh viên này nhưng lại không thích hợp với những đối tượng sinh viên khác( giữa sinh viên học hệ 3năm với sinh viên học hệ 7năm ;giữa những bạn đã từng học ở một trường đại họcvới những bạn lần đầu là sinh viên ;giữa những bạn đi học thêm tiêngs anh với những bạn chỉ theo học chương trình ở trên lớp).Chính vì thế mà nó dẫn đến những nhận xét không đồng nhất về giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng anh khoa du lịch viện đại học Mở HANOI.Đây chính là tính hai mặt của một vấn đề .Vấn đề đặt ra ở đây là:giáo viên và sinh viên phải làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn đó nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học ? Câu hỏi 9:Việc học thêm hiện nay phổ biến đặc biệt là học tiếng.Điều này tác động không nhỏ tới trình độ học tiếng Anh của các bạn Sau khi tiến hành điều tra trong các bạn sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch thì thu được kết quả: 26,7% có đi học thêm, 73,63% trả lời là không đi học thêm. Điều này cho thấy đa sôsinh viên không theo học thêm ở ngoài nhiều và đáng chú ý là các bạn học thêm tiếng Anh ở ngoài thì trình độ tiếng Anh và khả năng nghe của các bạn khá hơn rất nhiều. Câu 10:Từ kết quả điều tra cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng học kém môn tiếng Anh. Nhà trường nên quan tâm hơn đến những nguyên vọng của sinh viên để sinh viên được học tập một cách tốt nhất, hiệu quả nhất. Số các bạn trả lời câu 10 là 60%, 40% không có ý kiến góp ý. Đa số góp ý của các bạn là: Bố trí giáo viên nước ngoài giảng dạy các bạn ngay từ năm đầu tiên. Tăng cường giờ học nghe và nói nhiều hơn. Sinh viên nên được dạy cách phát âm chuẩn và các kĩ năng nghe như nối âm, đọc tắt...để nghe được tốt hơn. Nên tổ chức nhiều hơn các buổi giao lưu, nói chuyện. Đồng thời trong giờ giảng giáo viên nên kết hợp các trò đố vui bằng tiếng Anh làm cho tiết học sinh động hơn. Cho sinh viên mượn băng về nhà nghe thêm. Nâng cao chất lượng băng đài và xây dựng một phòng máy bổ trợ cho kĩ năng nghe của sinh viên. B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI B1 ) Cấu trúc đề tài: gồm 3 chương - ChươngI: tiếng anh là môn học mang tính thực tiễn và là một phương tiện giao tiếp hiệu quả. Chương II: Thực trạng giờ học nghe của sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch viện đại học Mở Hà Nội. Giải pháp khắc phục tâm lý ngại học giờ nghe của sinh viên khoá 10 B2) Nội dung đề tài 1)CHƯƠNG1:CƠ SƠ LI LUAN CUA ĐÊ TAI 1 ) Học ngoại ngữ ) Định nghĩa về ngoại ngữ: Các cuốn từ điển và các bộ bách khoa toàn thư đã đưa ra những định nghĩa ngắn gon về ngoại ngữ như sau: -Ngoại ngữ là một ngôn ngữ có một hệ thống âm thanh tuỳ ý cho phép những người đã học qua hệ thống của nền văn hoá đó giao tiếp, trao đổi với nhau ( Finocchiaro 1964:8 ) Ngoại ngữ là một hệ thống giao tiếp bằng âm thanh hoạt động trên cơ sơ các phát âm ( lời nói ) và hình thành viên của một cộng đồng . Nó có vai trò tạo ra cácmối liên hệ giữa các thành viên của một quỗc gia này với thành viên của quốc gia khác trên toàn thế giới và hình thành nên mối liên hệ giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: văn hoá, kinh tế, chính trị ... ( Pei 1966:141) Ngoại ngữ là một tổ chức hay một hệ thống các biểu tượng ngôn ngữ được sử dụng theo hình thức thống nhất và cho phép họ hiểu được nhau ( Wardhaigh 1972:3 ) Ngoại ngữ là một hệ thống tuỳ ý dùng cho giao tiếp giữa người với người ( Random House Dictionary of the language 1966:806 ) Ngoại ngữ là phương tiện bằng âm thanh hay những hình thức khác để biểu đạt những tình cảm, suy nghĩ giữa các cá nhân không cùng một quốc gia, là một hệ thống kí hiệu có quy ước đặc biệt về từ chỉ có ý nghĩa cố định ( Webster’s new international Dictionary of the English language 1961:1270 ) Tóm lại ta có những tổng kết về ngoại ngữ như sau: Ngoại ngữ có giá trị ngoài phạm vi quốc gia. Ngoại ngữ có tính hệ thống và tính phát sinh. Ngoại ngữ được sử dụng để giao tiếp trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội... giữa các quốc gia với nhau hoặc là giữa các thành viên của nhiều quốc gia khác nhau. Ngoại ngữ là phương tiện , là cầu nối duy trì mối quan hệ giữa các quốc gia. Ngoại ngữ được mọi người học một cách tương tự như nhau Có thể nói ngoại ngữ và việc học ngoại ngữ là mang tính toàn cầu. Ngoại ngữ là ngôn ngữ thứ hai ngoài ngôn ngữ mẹ đẻ giúp cho những người có quốc tịch khác nhau có thể giao tiếp được với nhau 1.2-Định nghĩa về tiếng Anh Tiếng Anh là một ngôn ngữ truyền thông mang tính quốc tế, là ngôn ngữ có hiệu lực rộng khắp và có thể được sử dụng trên bất kì quốc gia nào và trong bất kì lĩnh vực nào:kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội ...Nó cho phép bạn có thể giao tiếp được với tất cả những đối tượng không cùng một quốc tịch trên thế giới . 1.3 )Đặc điểm của việc học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng Nói chung khi bạn học tiếng Anh hay bất kì một môn khoa học nào cũng như tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống thì đièu đầutiên bao giờ bạn cũng phải có một niềm đam mê, yêu thích đối với nó. Đó chính là động lực thúc đẩy giúp cho chúng ta tiếp thu,lĩnh hội và nhận thức về nó nhanh hơn,sâu sẵc hơn và đầy đủ hơn. Tiếng Anh là một môn khoa học khó nên nó đòi hỏi ở người học sự chăm chỉ rèn luyện ,chịu khó thực hành, học hỏi,trau dồi kiến thức Một đòi hỏi nữa không kém phần quan trọng đó là việc tự tìm ra phương pháp học cho bản thân Học ngoại ngữ cũng như tiếng Anh không thể thiếu sự thực hành thưc tế, tham khảo thêm tài liệu ở bên ngoài 1.4 )Tầm quan trọng của việc học tiếng Anh Tiếng Anh được xem là phương tiện, là cây cầu kết nối, duy trì mối quan hệ của nước ta với nhiều nước trên toàn thế giới . Xét ở tầm vi mô, trong lĩnh vực du lịch, thì tiếng Anh là một môn học có vai trò rất quan trọng vàcó ý nghĩa rất thiết thực đối với tiềm năng du lịch nước ta . Thật vậy,dulịch trên phạm vi thế giới đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội và ngày càng được phát triển nhanh. Cũng theo xu hướng phát triển du lịch thế giới cũng như hoà nhập với trào lưu phát triển du lịch trong khu vực Đông Nam á. Du lịch Việt Nam đang không ngừng phát triển đi lên, đã và đang có những bước tiến nhất định và ngày càng có những tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống ,kinh tế, chính trị của đất nước. Chính vì lẽ đó mà hiện nay du lịch Việt Nam được xem như là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn( ngành công nghiệp không khói ) có tiềm lực lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.Hàng năm nó mang lại một doanh thu không nhỏ cho ngân sách nước nhà. Thời gian qua do chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước và đặc biệt là chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài đã làm cho du lịch Việt Nam có những thay đổi rõ rệt.Điều này được thể hiện qua số lượng du khách quốc tế đến Việt Nam những năm gần đây. Năm 1998 ? lượt khách Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002,lượng khách nứoc ngoài đến Việt Nam được kết luận là tăng hơn so với mọi năm.Như tình trạng “cháy khách sạn” ở thành phố hà Nội.Dự tính đến năm 2003 con số này còn có thể vượt xa hơn nữa ( sự kiện Seagame 2003 ,năm du lịch Việt Nam ) Kháchdu lịch đếnViệt Nam không phải là từ cùng một nước hay là một chau lục mà là từ nhiều quốc gia tren toàn thế giới mà ngôn ngữ của từng nước là không giống nhau.Vậy để giới thiệu cho khách quốc tế về phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá cũng như nét đẹp của con người và đất nước Việt Nam hay là để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi cho du khách được tốt hơn, chu đáo hơn thì phương tiện duy nhất mà nhân viên du lịch có thể sử dụng chỉ có thể là một thứ ngôn ngữ quốc tế mang tính toàn cầu, đố chính là tiếng Anh 1.5 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe tiếng Anh Trong bốn kĩ năng tiếng Anh( nghe,nói, đọc,viết )thì kĩ năng nghe được xem là kĩ năng khó nhất.Nhưng thực tế cho thấy nó lại là một kĩ năng cơ bản rất cần thiết cho quá trình giao tiếp và có ý nghĩa thực tiễn cho công việc của chúng ta sau này.Vì vậy, việc cải thiện kĩ năng nghe cho các bạn sinh viên ngay từ năm đầu là một yếu tố rất cần thiết. Bởi có nghe tốt thì trong quá trình giao tiếp và phục vụ khách nước ngoài ( đối tác nước ngoài ), bạn mới có thể tiếp nhận thông tin một cách chính xác, kịp thời cũng như giải đáp được những nhu cầu, thắc mắc của du khách hợp lý hơn 1.5.1 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe với người học tiếng Anh :kĩ năng nghe bổ trợ cho những kĩ năng khác ví dụ giúp bạn giao tiếp, nói chuyện bằng tiếng Anh trôi chảy hơn, vốn từ vựng của các bạn cũng được nâng lên. 1.5.2 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe với sinh viên khoa du lịch viện đại học Mở Hà Nội Kĩ năng nghe có ý nghĩa thực tiễn đối với nghể nghiệp chuyên ngành của các bánau này( đó là chuyên ngành hướng dẫn và quản trị du lịch khách sạn ) 1.5.3 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe đối với sinh viên năm thứ nhất viện đại học Mở Hà Nội ( khoa du lịch ) Kĩ năng nghe giúp ích cho các bạn rất nhiếu trong các giờ trao đổi, thảo luận, nó chuyện, giao tiếp bằng tiếng Anh với bạn bè và thầy cô ở trên lớp. Còn về lâu dài, kĩ năng này giúp cho bạn khôngcòn cảm thấy bỡ ngỡ khi tiếp xúc với du khách nước ngoài trong công tác, hoạt động du lịch sau này ( tức là giúp bạn quen dần với phong cách giao tiếp và ngữ điệu của người nứoc ngoài ) 2 ) Các kĩ năng cần học 2.1) Đọc: hay còn gọi là kĩ năng đọc hiểu. Để làm được kĩ năng này, bạn phải có một vốn từ vưng khá và có các kĩ năng đọc tốt như: đọc lướt, đọc lấy thông tin chính ... Các dạng bài tập thường gặp Chọn đáp án đúng ( A,B,C,D ) Đọc đoạn văn đánh “true”,“false” vào những ô trống đã cho sẵn Điền một từ thích hợp vào ô trống trong đoạn văn đã cho Trả lời câu hỏi dựa vào nội dung của đoạn văn Cách thức làm một bài đọc: Thường thì giáo viên tiếng Anh hướng dẫn sinh viên theo hai cách cơ bản sau: Thứ nhât: Đọc đoạn văn ® tóm tắt đoạn văn ® trình bày lạinội dung củađoạn văn theo ý hiểu của mình - Thứ hai : Viết headline cho từng đoạn và cho cả bài đọc 2.2 )Viết : Đây là kĩ năng mà hầu hết các bạn sinh viên năm thứ nhất đã được học ở cấp phổ thông nên nó không phải là kĩ năng mới. Dạng bài tập cho kĩ năng này cũng khá phong phú - Chia dạng đúng của từ trong ngoặc - Viết lại câu theo từ gợi ý Giới từ, quán từ, từ nối trực tiếp , gián tiếp , chủ động, bị động Cho dạng đúng của từ trong ngoặc Viết luận Muốn làm được kĩ năng này, bạn phải có cơ sở ngữ pháp chắc chắn như cấu trúc câu,từ, cụm danh từ, danh động từ ... 2.3 ) Nói là kĩ năng được thực hành rất nhiều ở trên lớp học trong các giờ thảo luận, các buổi có new reports. Hình thức thực hành kĩ năng này thường là giáo viên đưa ra một chủ đề sau đó sinh viên tham gia trao đổi thảo luận xung quanh chủ đề đó và tiến hành theo các cách thức sau: Giải thích nghĩa của từ bằng các từ hoặc cụm từ đồng nghĩa. Nói chuyện trực tiếp theo đôi ( work in pair ) dựa theo nội dung của đoạn hội thoại trong sách giáo khoa. Ví dụ: way to order for rooms, food and baverage, way to answer the phone, way to interview for a job... kĩ năng này đòi hỏi phải có vốn từ vựng phong phú 2.4 ) Nghe: Đây là một kĩ năng hoàn toàn mới mẻ. Bởi trước đây các bạn chưa từng được làm quen với nó ( trừ một số bạn học ở các trường chuyên ban D). Các bài tập nghe nói chung là khá phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức.Chủ yếu là: -Nghe theo tapecript theo từng phần, từng bài một nghe giáo viên hỏi và trả lời hay nghe các bạn cùng lớp qua trao đổi và nói chuyện bằng tiếng Anh Kĩ năng này đòi hỏi phải có sự tổng hợp của các kĩ năng khácvà tâm lý khi nghe cũng là yếu tố quyết định hiệu quả nghe của các bạn. II ) Chương II:Thực trạng giờ học nghe của sinh viên sinh viên khoa du lịch viện đại học Mở Hà Nội Đặc điểm chung của giờ học nghe 1.1 ) Nội dung nghe khá là phong phú nhưng đều tuân theo một qui luật hướng về một đề tài, một chủ đề nào đó ) Hình thức nghe: có 3 hình thức chính - Nghe theo băng tapecript theo từng phần từng bài Giáo viên hỏi sinh viên trả lời Nghe từ bạn bè qua thảo luận và trao đổi trực tiếp với nhau ) Các dạng bài tập nghe ( thường đi kèm với tài liệu nghe ) Điền vào chỗ trống những thông tin còn thiếu Nghe theo băng đánh dấu “true”, “false” vào các đáp án đã in sẵn Lựa chọn đáp án đúng và thông tin được đề cập trong tapecript trong số câu trả lời đã được đưa ra Nghe và trả lời câu hỏi đã in sẵn Nghe và đọc theo ví dụ cách đọc phát âm, từ nối ... Bài tập nghe có đo kèm với tranh và bản đồ... ) Trang thiết bị bổ trợ: nếu điều kiện cho phép thì nên có phòng máy riêng cho sinh viên. Phương tiện trợ giúp chủ yếu vẫn là băng đài và máy phát hình ( giúp sinh viên vừa nghe vừa quan sát trực tiếp được ) Đặc điểm giờ nghe của sinh viên năm thứ nhất 2.1) Nội dung nghe Chủ yếu là hướng về chuyên ngành du lịch. Nhưng nói chung nội dung nghe của sinh viên năm thứ nhất là khá đơn giản, chưa có sự tách biệt giữa chuyên ngành du lịch và khách sạn. hiện ba lớp vẫn học chung sách và băng đĩa với nội dung giống nhau. 2.2 ) Hình thức nghe Đã áp dụng cả ba hình thức nêu trên 2.3 ) Các loại bài tập và cách thức học nghe Các loại bài tập và cách thức học nghe tương đối đa dạng vè hình thức và ngày càng được tăng lên về số lượng và cấp độ nghe. Một số bài tập cụ thể a.1 ) Ann go to the information office at King’s cross station She wants to know about train time back from NewCastle . Listen and complete the conversation A: Good morning (a) the time of trains(b) NewCastle, please B:Afternoon , everning ? When A: About five o’clock this afternoon B: About (d) right. Let’s have a look. Thre’s a train that (e) lesve at the 4.45, and there’s ( f) at 5.52. A: And (g) get in ? B: Back at King’scross at 7.15and(h) A: Thanks alot a.2 )listen to three dialogues. Decide if these sentences T or F 1 a The bag cost $45 including tax b The customer pay by the credit card 2 a The customer is changing ten thousands yen in to hong kong dollars b The customer gets $88.88 3 a The check is for $10.70 including tax b The customer pays by traveler’s check a.3 ) Look at the notice-board at the railwaystation and listen to announcement. Correct the mistakes Arrivals Fron Flat fron Time Remark Edinburbh 18 08:30 On time Herffort 6 08:35 On time NewCastle 15 08:45 Delay 30 mins Darlington 9 08:45 On time Departures Destination Flatform Time Remark Peterborough 12 08:25 Ready NewCastle 7 08:40 Ready York 5 08:50 Cách thức học nghe - Trước khi nghe sinh viên dựa vào sự trợ giúp của giáo viên đọc lướt qua đầu bài và nội dung bài nghe để nắm được những thông tin cần nghe Trong khi nghe: giáoviên sẽ điều chỉnh băng cho sinh viên nghe giới hạn là 3 lần Sinh viên nghe và lấy thông tin chính đồng thời tranh thủ kết hợp với các thao tác khác: đánh dấu “true”, “false”, viết và điền thông tin vào đoạn hội thoại. Sau khi nghe: giáo viên sẽ kiểm tra đáp án của silnh viên Sau đó giáo viên sẽ kiểm tra lại độ chính xác của thông tin qua đài để thống nhất đáp án. Giáo viên có thể đề nghị sinh viên đọc theo băng trong những đoạn, những câu có từ nối, viết tắt và đặc biệt là những chỗ,những câu có trọng âm. Với những bài nghe đơn giản, giáo viên có thể dừng lại ở lần nghe đầu hoặc lần thứ hai để kiểm tra với mục đích để tăng tốc độ nghe cho sinh viên . 2.4 ) Trang thiết bị bổ trợ : Có hai phương tiện chính là đài và máy phát hình.Nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng và chất lượng:Băng đài hay bị dè làm giờ học nghe đôi khi bị gián đoạn . 3 ) Hiện trạng giờ học nghe 3.1) Đối với sinh viên từ năm thứ hai trở lên - Nhìn chung thì kĩ năng nghe của các bạn sinh viên năm thứ hai trở lên có nhiều tiến bộ hơn các bạn sinh viên năm thứ nhất, các bạn đã quen dần với các giờ học nghe -Trong các giờ học tiếng Anh, các bạn tích cựctham gia thảo luận, trao đổi hơn Þ Giờ học sôi nổi, thú vị hơn. Đã có các chuyên gia nước ngoài giảng dạy. 3.2) Đối với sinh viên năm thứ nhất Trong giờ học vẫn còn tình trạng: Không thích học, làmviệc riêng trong giờ học môn nghe, ngồi nghe nhưng không chú tâm, Từ đó dẫn đến hiệu quả giờ học nghe không cao. Trong lớp có sự chênh lệch vể trình độ tiếng Anh giữa những bạn học khá và những bạn học kém. Đối với những bạn học khá môn tiếng Anh thì với họ giờ học tiếng Anh là những giờ học dễ chịu . Do vậy họ tập trung và tham gia xây dựng bài một cách sôi nổi. Ngược lại, những bạn sinh viên hoc kém môn này thì tỏ ra chán ghét và thấy học môn này rất khó đối với họ. Cho nên,họ họ không hứng thú với bài giảng, không tích cực phát biểu tham gia xây dựng bài, lười luyện tập các kĩ năng và thường ỷ lại cho những sinh viên khá giỏi. Đối với quá trình học nghe, tâm lý nghe đóng vai trò quan trọng và đôi khi còn mang tính chất quyết định chất lượng và hiệu quả cả bài nghe hay kết quả nghe của sinh viên.Thực trạng cho thấy tâm lý không thích học nghe không chỉ có ở những bạn học kém mà còn ở các bạn học khá.nghĩa là nó phát sinh trên nhiều loại đối tượng. Thực trạng điểm thi môn tiếng Anh Qua hai đợt kiểm tra môn tiếng Anh của sinh viên khoa du lịch năm thứ nhất cho thấy 70% sinh viên trên điểm trung bình, trong đó tốt (8, 9, 10)chiếm 30%. 30% phỉ thi lại Theo như phản ánh của giáo viên bộ môn tiếng Anh thì hầu như điểm nghe của các bạn là không có hay là có nhưng rất hãn hữu. III )nguyên nhân dẫn đến tâm lý ngại học giờ nghe 1 ) Trước tiên ta đi tìm hiểu khó khăn với các bạn sinh vien năm thứ nhât 1.1)Môi trường học mơí lạ: Hầu hết các bạn sinh viên năm thứ nhất của khoa vừa rời ghế nhà trường phổ thông nên môi trường đại học với các bạn là hoàn mới . Tại đây, các bạn phải bắt đầu làm quen với với các môn học khó hơn, chuyên sâu hơn, trừu tượng hơnvà đặc biệt là với bộ môn tiếngAnh. Nếu như trước đây các bạn học tiếng Anh thực hành (viết )chưa có độ chuyên sâu thì đến nay các bạn lại được đàotạo theo một chuyên ngành cụ thể là chuyên ngành hướng dẫn và quản lý khách sạn. Thêm vào đó là khi bước chân vào môi trường đạ học có nhièu bạn bè mới, thầy cô mới nên các bạn còn chưa quen , hình thành tâm lý e ngại trong quá trình học. 1.2 )Bạn bè từ nhiều nơi trên tổ quốc: Các bạn sinh viên của một nhóm,một lớp , một khoá đến từ nhiều miền khác nhau. Trong đó có những bạn đến từ những vùng xa xôi hẻo lánh- nơi màtiếng Anh ít được chú trọng- nên chủ yếu các bạn được đào tạo theo hệ 3 năm hoặc chưa được học tiếng Anh Còn số các bạn khác được học chương trình 7 năm. Sự khác biệt này cũng làm tâm lý học nghe của các bạn sinh viên bị ảnh hưởng. Sinh viên học khá giỏi thì thường tự tin hơn,sôi nổi hơn các bạn học kém. 1.3 )Phương pháp dạy, học khác .Trong giờ học bây giờ không chỉ có cô giáo truyền đạt kiến thức và sinh viên tiếp nhận như một cái máy mà giờ đây các tiết học sẽ sôi nổi hơn, thú vị hơn với các giờ thảo luận,trao đổi, nói chuyện với thầy cô, với bạn bè trong lớp bằng tiếng Anh. Có nghĩa là sinh viên đã chuyển từ cách học bị động sang chủ động ,từ hình thức tiếp nhận sang trao đổi và thảo luận . 1.4 ) Giảng viên tiếng anh được chia ra làm 3 nhóm + Cựu sinh viên của trường do học giỏi nên được giữ lại làm cán bộ giảng dạy + Các chuyên gia nước ngoài + Một số giảng viên được đào tạo theo chuyên ngành du học lịch chuyển về công tác tại trường - Nhìn chung đội ngũ giáo viên bộ môn tiếng anh trường ta là tốt Các thầy cô hầu hết là có trình độ chuyên môn cao và khả năng sư phạm tốt (khả năng truyền đạt dễ hiểu ). Thái độ giảng dạy rất nhiệt tình ,sôi nổi và có tinh thần trách nhiệm cao. Những có lẽ do sinh viên năm thứ nhất chưa quen với cách thức dạy và học mới nên còn chưa theo kịp tiến trình của bài giảng, kéo theo kết quả và chất lượng giờ học nghe là không cao . 1.5 ) Giờ học nghe môn tiếng anh còn mới mẻ Bởi từ trước đén nay các bạn chưa từng được làm quen với kỹ năng nghe hoặc có thì cũng chỉ là số ít những bạn theo chuyên ban D chính vì vậy mà sinh viên năm đầu khó có thể học tốt môn nghe ngay được. 2.Từ phía sinh viên a. Thói quen bị động : tức là học theo kiểu tiếp nhận một chiều , ít thực hành thực tế và tham khảo thêm tài liệu bên ngoài .trong quá trình học nghe thì đưa ra được phương pháp nghe có hiệu quả b. Ngại hoặc lười thực hành kỹ năng nói nên kỹ năng nghe kém Cùng với kỹ năng nghe kỹ năng nói là một kỹ năng mới mà sinh viên năm thứ nhất bắt đầu được làm quen Þ “ Nói tiếng anh “ không phải là thói quen đối với các bạn .Chính vì không phải là thói quen nên nó đã định hình trong các bạn tâm lý ngại học tiếng anh ( tức là vẫn học theo kiểu cô giáo giảng ,học sinh tiếp nhận và học sinh chỉcó trách nghiệm trả lời khi được giáo viên hỏi ).Điều đó chứng tỏ về bản chất các bạn chưa nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng nói .Vậy tầm quan trong của nó là gì và nó có ảnh hưởng như thế nào đối với kỹ năng nghe ?. Thực chất kỹ năng nói có vai trò rất quan trọng trong quá trình học nghe bởi bạn có nói tốt thì vốn từ vựng của bạn mới phong phú .Từ đó giúp cho quá trình nhận thức hay tiếp nhận thông tin từ băng đài , từ đối tượng nói chuyện với bạn dễ dàng hơn .hay nói cách khác kỹ năng nói và kỹ năng nghe là hai kỹ năng song hành luôn đi đôi với nhau trong quá trình giao tiếp .Giữa chúng có mối quan hệ rất mật thiế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyên nhân và Giải pháp khắc phục tâm lý ngại học môn nghe tiếng Anh đối với sinh viên năm thứ nhất ở các trường đại học.doc