Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1) Lý do chọn đề tài. 1
2) Mục đích nghiên cứu. 1
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2
4) Phương pháp nghiên cứu. 2
5) Bố cục. 2
PHẦN NỘI DUNG 2
Chương 1: Cở sở lý luận,nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác lẫn nhau trong quan hệ quốc tế và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. 2
Chương 2: Xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới và ý nghĩa của nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. 4
1.2 Xu hướng hội nhập nền kinh tế toàn cầu. 4
2.2 Ý nghĩa nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong thời kỳ hội nhập. 12
Chương 3: Việc áp dụng nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau vào đường lối đối ngoại của Việt Nam và giải pháp nâng cao chất lượng quan hệ quốc tế, tăng cường sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau đối với các quốc gia trên thế giới. 19
PHẦN KẾT LUẬN 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2285 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc giúp đỡ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, tuy vẫn giữ quyền điều tiết và kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, tăng cường đấu tranh cho một trật tự kinh tế quốc tế, phi chính trị hoá các hoạt động , quan hệ quốc tế về mặt kinh tế. Trên cái nền chung đó cải tổ kết cấu kinh tế xã hội và tăng cường các biện pháp điều tiết vĩ mô là xu hưỡng chủ yếu của hầu hết các quốc gia đang phát triển. Cuộc cải tổ, cải cách kinh tế được thực hiện theo hai hướng chính: cải tổ toàn diện và cải tổ kết cấu toàn phần.
Cải tổ kết cấu toàn diện tức là cải tổ cả trên hai lĩnh vực kinh tế- xã hội. Phần lớn các quốc gia theo xu hướng này là các quốc gia đông dân, nền kinh tế xã hội khủng hoảng sâu sắc, đòi hỏi chính phủ phải tiến hành song song cả chính sách đối nội lẫn chính sách đối ngoại. Điển hình như các nước Mehico, Brazin, Argentina, Angieri. Mục tiêu dặt ra với cải tổ toàn diện nhằm khôi phục và nâng cao mức tăng trưởng kinh tế, hạn chế vay nợ nước ngoài trên cở sở trả dần vốn nợ cũ, thực hiện cân bằng tài chính, chi tiêu có lựa chọn, tăng cường các nguồn thu nhập trong nước, thực hiện đa dạng xuất khẩu, đa phương thị trường, kết hợp đồng bộ giữa các biện pháp kinh tế nhằm khắc phục các căn bệnh kinh niên của nền kinh tế chậm phát triển.
Cải tổ kết cấu kinh tế từng phần là cải tổ một số mặt yếu kém hoặc cải tổ trọng điểm. Đây cũng là xu hướng cải tổ phổ biến ở các quốc gia đang phát triển như các nước NIC ở châu Á, hoặc một số nước ở châu Mỹ La Tinh. Điển hình về cải tổ xuất khẩu là Thái Lan và Nam Triều Tiên. Ở Thái Lan nhờ xuất khẩu thành phẩm dẫn đến tăng nhanh đầu tư, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân. Nam Triều Tiên chú trọng cải tổ cơ cấu một số ngành công nghiệp xuất khẩu như sản phẩm chế tạo và hàng tiêu dùng cao cấp. Nhờ phát triển hai ngành này, mức tăng tổng sản phẩm quốc nội tăng lên và mức tăng xuát khẩu cũng được nâng lên.
Chính phủ Malaixia đặc biệt chú ý đến điều chỉnh cơ chế thuế và các sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu. Các nước châu Mỹ La Tinh kết hợp cải tổ tài chính, giảm tỷ lệ lạm phát với chính sách mở rộng quan hệ ngoại thương, sử dụng tối ưu nguồn đầu tư nước ngoài...
Bước sang thế kỷ XXI các xu thế trên vẫn tiếp tục thể hiện vai trò có tính bao trùm và thường xuyên quyết định, mặc dù có những sắc thái mới, đa dạng và phức tạp hơn. Những sắc thái này thể hiện ở những khía cạnh sau:
Khía cạnh thứ nhất là: do tác động của khoa học, công nghệ với cường độ lớn hơn và tốc độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu nghành sản xuất và dịch vụ mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Các nghành công nghiệp " cổ điển" giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó trở nên "mãn chiều xế bóng". Các ngành có hàm lượng khoa học, công nghệ tăng nhanh, đặc biệt là các nghành dịch vị kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chúng giữ vai trò khớp nối, đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao.
Cơ cấu kinh tế trở lên mềm hoá, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nên kinh tế"tượng trưng" có quy mô lớn hơn nền kinh tế " thực tế " nhiều lần.
Cơ cấu lao động phân theo nghành có sự biến đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ.
Khía cạnh thứ hai là: do sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động mới của các công ty xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giơi ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu trên hai cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá đã đưa đến nền chuyển biến nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế trên bước vào thời đại toàn cầu bên cạnh sự đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh.
Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo thụi trường hoá nền kinh tế của từng quốc gia, quốc tế hoá thể chế nền kinh tế giữa giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt với thể chế kinh tế thị trường theo hướng nhất thể hoá và tập đoàn kinh tế khu vực.
Khía cạnh thứ ba là: xu hướng toàn cầu hoá gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính tiền tệ, sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc gia tăng làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của tri thức và sự phát triển của loại hình kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớn của kinh tế đến chính trị và xã hội. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra cả bề rộng lẫn chiều sâu, một mặt đưa tới những cơ hội cho sự phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới, giúp cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên hiện có trên Trái Đất cũng như gây tác động ngược trở lại đối với sự phát triển của khoa học - công nghệ đối với sự phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như sự gia tăng của các rủi ro khinh tế ( khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các "bong bóng" tài chính và tiền tệ...) cũng như gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội ( làm suy giảm tính độc lập chủ quyền của quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức vào các trung tâm kinh tế lớn, phương hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc...) trong qúa trình toàn cầu kẻ mạnh thu được nhiều lợi ích hơn còn kẻ yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo sau, cũng không thể tham gia quá trình toàn cầu hoá một cách bị động và vô vọng được.
Như vậy, ngày nay thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đang hoà quyện vào nhau và chi phối nền kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh kinh tế mới tạo ra nhiều cơ hội mới tương đối thuận lợi, nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn, thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Đối với Việt Nam, việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay, trong thế kỷ XXI nếu đổi mới thành công nền kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ và trở thành một nước công nghiệp phát triển.
2.2 Ý nghĩa nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong thời kỳ hội nhập.
Như chúng ta vừa nghiên cứu xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới ở trên, thì có thể thấy rằng, hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới nếu muốn phát triển đất nước của mình tiến kịp với nền văn minh chung của nhân loại, thì không còn con đường nào nhanh hơn, tiến bộ hơn bằng con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Điều đó sẽ góp phần rút ngắn thời gian và tiền bạc cho công cuộc phát triển, đồng thời cũng có cơ hội đuổi kịp các nước đã phát triển đến một trình độ cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ thuận lợi mà xu hướng hội nhập mang lại cho nền kinh tế của mỗi quốc gia thì nó cũng gây ra những ảnh hưởng xấu mà nếu một quốc gia đơn lẻ không thể làm được như các vấn đề: ô nhiễm môi trường toàn cầu, tình trạng nóng lên của trái đất, vấn đề bùng nổ đân số, các tổ chức khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, xung đột sắc tộc...
Những điều đó đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới phải có nghĩa vụ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong qua trình phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ, phương tiện kỹ thuật để nâng cao trinh độ sản xuất, tạo ra lượng của cải vật chất dồi dào đáp ứng các nhu cầu của con người. Các nước phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ các nước chậm phát triển về các mặt xây dựng nền kinh tế hiện đại, một xã hội an ninh trật tự ổn định, một thể chế chính trị tiên tiến.
Và một điều bắt buộc các quốc gia phải cùng nhau hợp tác để chống lại các hậu quả xấu từ xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế cụ thể :
Xu hướng toàn cầu hoá làm cho an ninh truyền thống tức là vị thế an ninh quân sự giảm đi, và địa vị của an ninh tiền tệ tăng lên, vấn đề sinh thái lại càng biến đổi nghiêm trọng. Xu thế toàn cầu hoá dẫn đến sự tăng cường phụ thuộc lẫn nhau và tính tất yếu các quốc gia phải hợp tác, có thể lảm cho xung đột vũ trang giũa các nước giảm đi, từ đó làm cho tình trạng an ninh quân sự được cải thiện. Sự xấu đi của tình trạng biến đổi xã hội nhanh chóng, bất bình đẳng xã hội mà toàn cầu hoá mang lại, xu hướng toàn cầu hoá văn hoá làm cho nhận thức chung văn hoá ở một số nơi gặp phải những thách thức to lớn, có thể dẫn đến mất ổn định xã hội, thậm chí kích thích xung đột vũ trang. Nơi nào mà tình trạng an ninh dành được thành công trong việc ứng phó với thách thức toàn cầu hoá thì có hy vọng cải thiện, còn quốc gia nào chưa thể thích ứng được với thách thức toàn cầu thì có thể do khả năng căng thẳng trong xã hội mà dẫn đến xung đột, chia rẽ, từ đó làm cho tình trạng an ninh xấu đi hơn. Một học giả người Anh cho rằng: sau khi kết thúc chiến tranh lạnh trong thời kỳ toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, thế giới diễn ra hai xu thế song hành với nhau: xung đột giữa các nước giảm đi nhưng chiến tranh trong nội bộ các nước và xung đột mang tính dân tộc, bộ tộc, tôn giáo... lại tăng lên nhiều.
Nhìn về lâu dài sự phát triển kinh tế quân sự cũng có chiều hướng toàn cầu hoá nào đó. Sau chiến tranh, sự phát triển của vũ khí hạt nhân và vũ khí tên lủa đạn đạo, một mặt làm cho sự phá huỷ tăng lên đến một trình độ mà lịch sử 5000 năm về trước không thể tưởng tượng nổi, mặt khác cục diện bảo đảm huỷ diệt lẫn nhau cũng được hình thành trong đối đầu hạt nhân Mỹ-Nga đã phát huy công năng hạn chế bên ngoài, thúc giục mọi người tự ràng buộc mình trong quan hệ quốc tế, nó buộc các nước lớn tự kiềm chế mình, và phải hết sức cẩn trọng trong quân sự. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ - Nga đã ký điều ước cắt giảm vũ khí hạt nhân, và đầu đạn hạt nhân của mình không chĩa vào đối phương nữa, nhưng một sự cân bằng nào đó mà vũ khí hạt nhân hình thành trong " sự bảo đảm huỷ diệt lẫn nhau" lại chưa có thay đổi, vẫn là nhân tố bên ngoài ép buộc các nước lớn phải có hành vi hoà bình. Vì thế ý đồ thông qua mở rộng quân sự, mưu cầu bá quyền vẫn còn tồn tại, nhưng nguy cơ xẩy ra xung đột quân sự trên quy mô lớn giưa các nước lớn là không nhiều.
Sự giảm sút địa vị an ninh quân sự đương đại, còn có nguyên nhân là toàn cầu hoá sản xuất.và thị trường làm giảm khả năng xảy ra chiến tranh giữa các nước. "thuyết hoà bình dân chủ", "không có chiến tranh giưa các nước tự do dân chủ" đáng để nghiên cứu tìm hiểu, nhưng lợi ích chung được hình thành do toàn cầu hoá và xuyên quốc gia hoá của tư bản mở rộng. Nói tóm lại, việc thực sự giảm bớt nhân tố xảy ra chiến tranh giữa các nước đã có sự tiến triển tương đối lớn trong toàn cầu hoá và xuyên quốc gia hoá của tư bản lại mở rộng.
Do tác dụng của toàn cầu hoá, cạnh tranh giữa các nước trở thành cạnh tranh về kinh tế. Còn cạnh tranh về kinh tế thường không phải trò chơi bằng không, một bên mất không có nghĩa là bên kia được, chỉ có bên kia an toàn thì bản thân mới an toàn. Vì vậy các quốc gia phải giữ gìn ổn định, tăng cường hợp tác, cùng tồn tại phồn vinh mới phù hợp với lợi ích hai bên cạnh tranh, kết quả cạnh tranh hai bên thường là "hai bên đều thắng".
Như đã nói ở trên, toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp đa chiều, hình thức biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của nó không phải là đơn nhất.
Một quá trình như vậy là một sự "tiến hoá" hơn là một cuộc ''cách mạng". Xu thế toàn cầu hoá đương đại chẳng qua chỉ là một biểu hiện đương đại của một qua trình tiến hoá như vậy.
Hiện nay, các học giả nghiên cứu về toàn cầu hoá có ý kiến khác nhau về vấn đề toàn cầu hoá bắt đầu từ khi nào. Một số người cho rằng, toàn cầu hoá bắt đầu ngay từ khi có lịch sử loài người, một số người khác cho rằng, toàn cầu hoá xảy ra đồng thời với công nghiệp hoá và chủ nghĩa tư bản, một số nữa cho rằng toàn cầu hoá là một hiện tượng tương đối muộn màng, có liên quan đến hậu công nghiệp hoá, hậu hiện đại hoá, và tổ chức hoá của chủ nghĩa tư bản. Dù thế nào đi nữa họ vẫn cho rằng những năm gần đây toàn cầu hoá tăng tốc mạnh mẽ. Sự tăng tốc đó chủ yếu liên quan đến ba nhân tố:
Một là, sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ trên lĩnh vực giao lưu từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay ( thông tin, tin tức, giao thông siêu tốc, không gian vũ trụ và công nghệ không gian vũ trụ). Do thông tin điện tử thực tế chỉ xảy ra trong chớp mắt, vì thế nó nối liền tất cả các nơi trên thế giới và những sự kiện lại với nhau ( thu hẹp không gian, thời gian) hình thành mạng lưới thông tin toàn cầu giống như mang lưới thần kinh trung ương của con người. Mạng lưới đó khiến chúng ta có thể cảm nhận được thể giới là một chỉnh thể.
Hai là,một bối cảnh quan trọng của toàn cầu hoá đương đại tăng tốc là trào lưu chủ nghĩa tự do mới xuất hiện ở các nước phát triển phương Tây gần 20 năm nay. Sau chiến tranh thế giói thứ II, các nước phương Tây luôn sùng bái chính sách của chủ nghĩa Keynes, lấy việc mở rộng chi phí công cộng để kích thích tăng trưởng kinh tế, kết quả là thâm hụt ngân sách khổng lồ, gây ra lạm phát nghiêm trọng. Thời kỳ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, các nước phương tây xuất hiện phổ biến tình trạng trì trệ. Cục diên này khiến mọi người hoài nghi học thuyết Keynes lấy chi phí công cộng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Cùng với sự phủ định của các nước phương Tây với chính sách của chủ nghĩa Keynes, đã hình thành một thế lực " chủ nghĩa tự do mới, chủ trương nới lỏng giám sát quản lý, để thị trường hoàn toàn tự do, cho thị trường phân phối các nguồn tài nguyên. Kết quả là thị trường chi phối tất cả, là hàng loạt xí nghiệp bắt đầu đầu tư xuyên quốc gia, tìm kiếm sức lao động rẻ. Cùng với đó các nước phương Tây theo nhau vứt bỏ sự quản chế tiền tệ. Tiền vốn quốc tế càng tự do lưu động tìm đến nơi có thể đầu tư tôt nhất.
Ba là, các xí nghiệp quy mô lớn sản xuất theo keo Taylo và thực hiện "chủ nghĩa Ford", vào những năm 50-60 của thế kỷ XX đã từng kéo theo sự phát triển của kinh tế thế giới, nay do thiếu sáng tạo trong kỹ thuật và tổ chức, nên đến những năm 70 của thế kỷ XX cơ bản bị rơi vào đình trệ, càng làm cho hiện tượng " trì trệ" kinh tế của Tây Âu và Mỹ vào nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX thêm nghiêm trọng. Để thoát khỏi gông cùm mà thể chế Taylo mang lại, các nước phương Tây, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia của Mỹ bắt đàu tìm kiếm nơi đầu tư mới để hại thấp giá thành tiền công, bảo đảm lợi nhuận. Sự thay đổi đó là nhân tố thúc đẩy tư bản và sản xuất chuyển dời đến các nước đang phát triển. Ba nguyên nhân nói trên lã làm cho toàn cầu hoa những năm 80 của thế kỷ XX tăng tốc. Cùng với đó phương thức thúc đẩy toàn cầu hoá cũng đa dạng hoá, mang tính thẩm thẩm thấu và phổ biến rộng hơn nhiều, động chạm nhiều đến các vấn đề xã hội mang tính địa phương, càng đi sâu hơn vào trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của các nước. Từ những điều ấy có thể nói, hiện nay là toàn cầu hoá đích thực. Các quốc gia trên thế giới không thể đứng nhìn, mà phải chủ động hội nhập, cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm, giúp đỡ, hợp tác, mở rộng quan hệ, tăng cường các mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Từ những phân tích ở trên chúng ta thấy, trong chính trị quốc tế việc các quốc gia theo đuổi an ninh, bao giờ cũng là xự nói theo sự so sánh với quốc gia khác hoặc hệ thống quốc tế, tức là luôn luôn liên quan đến quan hệ song phương hoặc quan hệ đa phương, vì thế không thể tránh khỏi tạo thành quan hệ an ninh nhất định với nước khác, với tổ chức quốc tế và toàn bộ xã hội quốc tế. Quan hệ an ninh đó khiến cho các nước luôn luôn tác động đến nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, hay nói cách khác an ninh của một nước luôn chịu ảnh hưởng bởi an ninh một nước hay một số nước khác và ngược lại.
Trong thời kỳ toàn cầu hoá, các quốc gia không chỉ hội nhập về kinh tế mà nó còn kéo theo sự hợp tác về vấn đề an ninh. Quan hệ an ninh có thể là khái niệm trung tâm của lý luận an ninh. Khái niệm này nhấn mạnh đến tính tác động lẫn nhau, tính quốc tế và tính hệ thống của an ninh quốc gia, từ đó cung cấp một cơ sở lý luận không thể thiếu được để phân tích chiến lược an ninh, hành vi an ninh và các quy tắc vận hành hệ thống an ninh trong phạm vi toàn cầu.
Quan hệ an ninh có thể là quan hệ cá thể, cũng có thể là quan hệ tập thể, có thể là quan hệ căng thẳng, cũng có thể là quan hệ hoà nhập, có thể là quan hệ hợp tác cũng có thể là quan hệ đối kháng. Ví dụ như chiến traanh là một loại quan hệ đối kháng, còn đàm phán hoà bình là một loại hợp tác, chạy đuua vũ trang là một loại đôi kháng, conf giải trừ quân bị lại là một loại hình hợp tác. Trong chiến tranh thế giới thứ II Anh và Pháp thực hiện chính sách "vỗ về" với Đức là một lần hợp tác thất bại, còn sau này hợp thành đồng minh chống lại phát xít Đức lại là hợp tác thành công. Quan hệ Xô-Mỹ, các nước Arap-Ixrael trong chiến tranh lạnh cơ bản là đối kháng, còn quan hệ trong nội booj châu Âu, về cơ bản là quan hệ hợp tác.
Đương nhiên tình hình thực tế trong đời sống chính tri quốc tế thường là phức tạp hơn nhiều so với sự khái quát đó. Giữa các nước, có thể có lúc ử vào tình trạng đối kháng, có lúc ở vào tình trạng hợp tác. Ví dụ như quan hệ Mỹ-Nhật Bản. Quan hệ an ninh tổng thể của hai nước là hợp tác, nhưng trong một số vấn đề cụ thể như vấn đề kinh tế, căn cứ quân sự lại có lúc mâu thuẫn gay gắt. Vấn đề Mỹ xâm nhập vào thị trường Nhật Bản, Mỹ đã nhiều lần định áp dụng cấm vận thương mại, đó là một hành vi đối kháng điển hình.
Hiệu ứng tác động lẫn nhau trong quan hệ an ninh đã tạo thành kết quả như vậy, tức là một bên cảm thấy không an ninh, bên kia thường là cũng không cảm thấy an ninh. Một nước coi nước khác là nhân tố không an ninh, coi nước khác là uy hiếp, biến quan hệ an ninh thành quan hệ thù địch, thì ngược lại bản thân cũng trở thành kẻ thù của nước khác, từ đó đã cấu thành sự uy hiếp đối với nhau. Lấy chính trị cường quyền để mưu cầu an ninh, thực chất là mô hình như vậy. Chính trị cường quyền không thể xây dựng quan hệ hợp tác, mà chỉ có thể xây dựng theo kiểu quan hệ chi phối. Sự chi phối của nước mạnh đối với nước yếu là một sự uy hiếp hiện thực đối với nước yếu. Trừ phi nước mạnh với nước yếu có nhu cầu đối phó với kẻ thù chung, nếu không, nước yếu không thể chấp nhận mô hình đó lâu dài.
Vì thế muốn thực hiện an ninh chỉ có thể làm cho các bên cảm thấy an ninh. An ninh của một bên không thể là an ninh lâu dài. Có rất nhiều ví dụ để chứng minh điều này, như Ixrael khi thành lập nước đã dựa trên sự uy hiếp trong một thời gian dài. Sự thù địch sâu sắc của các nước Arap đối với Ixrael khiến cho nó cũng hông có sự lựa chọn nào khác. Trong nhiều lần chiến tranh Trung Đông, Ixrael đã chiếm nhiều lãnh thổ của các nước Arap, xây dựng lá chắn an ninh của mình, nhưng điều đó không hề thay đổi được thái độ thù địch của các nước Arap, không thể thực hiện được hoà bình cuối cùng, mà chỉ có thể ở vào tình trạng luôn chiến tranh. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở đi, Ixael có sự lựa chọn khác, nghĩa là mưu cầu hoà giải, đổi đất lấy hoà bình. Ixrael liên tục cùng các nước: Ai cập. Giocdani, Palextin thông qua đàm phán bắt đầu tiến trình hoà bình. Tình hình đó cho thấy người lãnh đạo có tầm nhìn trong chính phủ Ixrael ngày càng nhận thấy sự giải quyết cuối cùng trong vấn đề an ninh của bản thân người Do Thái chỉ có thể thực hiện dữa vào sự hoà bình toàn khu vực.
Năm 1982 Uỷ ban độc lập về vấn đề giải trừ quân bị và an ninh do Olop panmo của Thuỵ Điển đứng đầu lần đầu tiên đưa ra khái niệm an ninh chung. Việc đưa ra khái niệm đó là dựa trên nhận thức cho rằng chiến tranh hạt nhân cơ bản không có hy vọng thắng lợi, hai bên tham chiến chỉ có thể đi đến chỗ chết, vì thế hai bên đối kháng buộc phải mưu cầu sự sinh tồn chung. Uỷ ban đó cho rằng sự an ninh lâu dài chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các nước có liên quan đều được thụ hưởng trạnh thái đó, điều này chỉ có thể thực hiện được trên nguyên tắc bình đẳng, chính nghĩa và cùng có lợi.
Những năm gần đây an ninh chung và an ninh hợp tác đã ttrowr thành khái niệm thường dùng của các học giả. Tư tưởng mà hai khái niệm đó nhấn mạnh, nói một cách đơn giản, là an ninh của một nước phải lấy an ninh của tất cả các nước làm điều kiện. Do trong chính trị quốc tế, giữa các quốc gia sẽ hình thành một mối quan hệ tác động lẫn nhau, vì thế mọi người phải xem xét vấn đề như vậy, tức là an ninh quốc gia trong một mức độ nào đó đều phải phụ thuộc vào việc làm và hành vi của các nước khác.
Sự đối kháng trong thời kỳ chiến tranh lạnh mà Bredinxky đã từng nói, nghĩa là mức thuế thu nhập của nước Mỹ được định ra ở Matxcova, còn thành phàn phụ gia của nó lại được định ra ở Bắc Kinh. Đương nhiên các nói đó không thể coi là luận đoán khoa học, nhưng đã vạch ra thái tâm lý của những người đưa ra quyết sách của Mỹ, nó cũng đã phản ánh sinh động sự thực nào đó, tức là sự tác động lẫn nhau trong quan hệ đối kháng. Trong sự tác động lẫn nhau đó, an ninh quốc gia vừa được quyết định bởi hành vi của bản thân, đồng thời cũng được quyết định bởi các nước khác phản ứng như thế nào.
Do một quốc gia chỉ có thế khống chế hành vi của mình mà khoong có cách nào xác định được phản ứng của một quốc gia khác nên nó thường khó dự đoán được hậu quả của một hành vi. Như vậy, một quốc gia hành động vì an ninh của minh thì sẽ xảy ra hai loại phản ứng: hoặc là làm cho an ninh hơn, hoặc là làm cho mình không an ninh hơn.
Quốc gia này có thể có hai loại lựa chọn, một là tăng cường sức mạnh của mình, hai là làm yếu sức mạnh của mình. Quốc gia tăng cường được sức mạnh bản thân nếu nó có sức mạnh răn đe nước khác, khiến nước khác giảm bớt thù địch, như vậy sẽ làm cho bản thân càng an ninh hơn, nhưng nếu nó có tác dụng khiêu khích thì sé làm tăng thêm thù địch, khiến cho bản thân càng không an ninh. Cũng tương tự như vậy, một quốc gia làm yếu sức mạnh của mình để hoà giải sé làm cho đôií phương bớt thù địch, thì bản thân càng an ninh hơn. Ngược lại nếu làm cho đối phương tăng thêm thù địch thì bản thân không an ninh. Cho nên bất luận dùng chiến thuật như thế nào đều có sự mạo hiểm nhất định.
Nói chung, trong chính trị hiện thực, các quốc gia phần nhiều áp dụng phương thức tăng cường sức mạnh bản thân, cách làm làm yếu đi sức mạnh bản thân rất ít. Quả thực kết quả của sự lựa chọn chỉ có thể biết được qua thực tiễn.
Hơn nữa, cho dù biết được sự lựa chon lúc đầu không rõ ràng, cũng không thể biết được nếu nếu đổi sự lựa chọn liệu có thể có kết quả tốt hơn không. Mọi người thường cho rằng phạm phải sai lầm mà có thừ sức mạnh vẫn tốt hơn khi phạm phải sai lầm mà sức mạnh không đủ. Bởi vì thực hiện chính sách thoả hiệp, caaud an còn nguy hiểm gấp bội so với thực hiện chính sách gây chiến.
Hai loại lựa chon trong vấn đề an ninh quốc gia vừa nói ở trên, được các học giả nước ngoài gọi là "hoàn cảnh khó khăn của an ninh" . Ở đây vấn đề cốt lõi là lo sợ và không tin tưởng giữa các quốc gia.
Herbert Buterfiet đưa ra khái niệm "hoàn cảnh khó khăn của an ninh", gọi đó là " sự lo sợ của chủ nghĩa Hobbesian- Fear). Năm 1951, trong cuốn sách " Quan hệ nhân loại và lịch sử" ông ta chỉ ra rằng, trong một cục diện như vậy, quốc gia này có thể có sự lo sợ hiện thực đối với quốc gia khác, và quốc gia khác cũng có sự lo sợ như vậy đối với quốc gia này. Có lẽ, một nước căn bản không có ý làm hại nước khác, chỉ làm một số việc bình thường, nhưng nước đoa không có cách nào làm nước khác hiểu đúng ý đồ của mình. Nước đó cũng không có cách nào lý giải được suy nghĩ của nước khác tại sao lại như vậy. Ngược lại cũng vậy. Trong tình hình đó cả hai bên đều coi đối phương là thù địch, nếu không dám đưa ra sự bảo đảm khiến cho mọi người đều có an ninh. Chạy đua vũ trang không ngừng đó là sản phẩm của trạng thái đó.
Trong tình trạng căng thẳng cũng như vậy, dùng lời của "tể tướng máu và sắt" Bismark để nói, rất giống quan hệ của những người khách ở cùng một toa xe, mỗi một người đều luôn chú ý đến người khác, khi một người đút tay vào túi, người bên cạnh cũng nắm lấy khẩu súng Côn của mình sẵn sàng khai hoả trước. Học giả nghiên cứu chiến lược xung đột - T.C.Schelling đã gọi cục diện đó một cách sinh động là "mô hình có tính chất căng thẳng thần kinh".
Gievis cho rằng: hoàn chảnh kkhos khăn của an ninh không thể loại trừ được, mà chỉ có thể cố gắng hoàn thiện nó. Biện pháp cải thiện là tìm ra một phương pháp, đưa ra sự hạn chế mang tính quy phạm nào đó đối với cuộc đấu tranh quyền lực giữa các nước, khiến các quốc gia cùng nhau hình thành một thể chế an ninh. Trong thể chế đó, các nước cùng chấp nhận những chuẩn tắc, nguyên tắc nhất định. Những quy phạm đó khiến cho các nước tham gia vào cùng có lợi, cùng hạn chế lẫn nhau. Phương pháp đó thực chất là phương pháp hợp tác, hay là lấy an ninh quốc tế bảo đảm an ninh quốc gia.
Thời đại chiến tranh lạnh Đông - Tây, những người theo chủ nghĩa hiện thực lúc đầu chỉ quan tâm đến an ninh quốc gia mà không quan tâm đến an ninh quốc tế. S
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Niên luận Thắn.doc