LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
I- PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN THỰC TIỄN 3
1. Phạm trù thực tiễn 3
1.1 Khái niệm về thực tiễn 3
1.2 Đặc trưng của thực tiễn 3
1.3 Các hình thức cơ bản của thực tiễn 3
2. Phạm trù lý luận 4
2.1. Khái niệm lý luận 4
2.2 Đặc trưng của lý luận 5
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 5
1. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận 5
2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn 8
II. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 9
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức 9
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn 12
2.1 Lý luận 12
2.2 Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn 12
3. Thưc trạng lý luận ở nước ta hiện nay 15
4. 4. Một số quan điểm cần quán triệt trong phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay 20
4.1 Quán triệt quan điểm thực tiễn 21
4.2 Ngăn ngừa, khắc phục bênh kinh nghiệm và bệnh giáo điều 21
4.3 Vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triên chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 22
4.4 Thường xuyên nâng cao trình độ lý luận của cán bộ đảng viên trong quá trình đổi mới 23
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 728 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong việc phát triển lý luận ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh trãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy”
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối
Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn thực tiễn thể hiện ở chỗ, nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể kiểm tra tính đúng, sai của lý luận, khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tất cả những tri thức chứ được thực tiễn kiểm tra, xác nhận đều không có cơ sở khẳng định tính đúng đắn của nó.
Tính tương đối của tiêu chuẩn thực hiện ở chỗ, nó luôn vận động, biến đổi, phát triển, do đó, với tư cách là tiêu chuẩn chân lý nó không cho phép người ta xem bất kỳ một tri thức nào là bất di bất dịch, không thay đổi. Vì vậy, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức, lý luận cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với thực tiễn mới. Không có chân lý vĩnh viễn, bất di bất dịch; mọi tri thức dù là đúng vẫn phải tiếp tục kiểm tra, để kịp thời bổ sung, phát triển. Mặt khác, thực tiễn ở mỗi lĩnh vực nhất định chỉ đủ sức kiểm tra những tri thức nảy sinh trong phạm vi lĩnh vực đó.
Như vậy, thực tiễn không những là điểm xuất phát, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của lý luận, mà còn là nơi lý luận phải luôn hướng tới để kiểm nghiệm tính đúng đắn của mình.
2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “ thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”. Điều này có nghĩa rằng, lý luận mặc dù do thực tiễn quyết định, nhưng bản thân quyết định, nhưng bản thân lý luận khi đã hình thành thì lại có một vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận khoa học được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, lý luận đóng vai trò là “kim chỉ nam” cho hoạt động thực tiễn.
Lý luận khoa học định hướng, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương hướng, phương pháp cho hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi hiện thực khách quan theo yêu cầu, mục đích phát triển của con người và xã hội. Nếu thực tiễn không được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận khoa học thì thực tiễn đó sẽ mất phương hướng, “ lúng túng như nhắm mắt mà đi”, rơi vào mò mẫm, vòng vo, có khi lại quay trở lại xuất phát điểm ban đầu, không hiệu quả, gây tốn kém, lãng phí thời gián, công sức.
Thứ hai, lý luận thúc đẩy phong trào cách mạng nảy sinh, hình thành và phát triển
Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Lý luận khoa học, cách mạng góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập quần chúng để tạo nên những phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng. Nhờ có lý luận khoa học, phong trào cách mạng của quần chúng không còn mang tính tự phát, trở thành hoạt động , chủ động, tự giác, tích cực. C.Mác nhấn mạnh: “lý luận cũng se4tro73 thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Thứ ba, lý luận góp phần dự báo tương lai
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng luôn chứa đựng những tiền đề, mầm mống và khả năng phát triển trong tương lai của chúng. Lý luận nếu phản ánh đúng bản chất, nắm được quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Như vậy,dự báo tương lai là kết quả của thao tác tư duy, như phân tích và tổng hợp, lo6gic và lịch sửtức là quá trình nhận thức, phản ánh, phán đoán về sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng. Dự báo tương lai là một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Khi con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo. Chính vì vậy, chức năng dự báo là một chức năng rất quan trọng của lý luận.
Như vậy, thực tiễn và lý luận không tách rời nhau, giũa chúng có sự liên hệ, xâm nhập, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Vì thế, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-le6nin. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc đổi mới ờ nước ta hiện nay.
III. VAI TRÒ NGUYÊN TẮC THÔNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn của nhận thức.
1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
Thư nhất, Thực tiễn là động lực của nhận thức
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật.
Thứ hai,Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.
Thứ tư,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Chân lý
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người)
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá trình nhận thức của nhân loại.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
+Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận thức.
Ý nghĩa:
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công bằng, bình đẳng, tién bộ.
Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
2.1. Lý luận
a. Khái niệm: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
b. Đặc điểm: Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng.
Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
2.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
a) Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
b) Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
c) Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
d) Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
*Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác - Lênin và các lý luận về kinh tế.
Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ và một số ngươi khác đã ”cố gạt thực tiễn ra khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.
V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980)
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động. Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
e) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác _ Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”-1996)
*Con đường biện chứng của sự nhận thức:
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện chứng:
- “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan”.
+Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
+Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
- Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về với thực tiễn vì:
+ Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.
- Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
3. Thực trạng lý luận ở nước ta hiện nay
Từ khi đổi mới đến nay, dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước,Đảng ta không ngừng phát triển lý luận, nhất là lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định.
Về mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh (1991), đã đề cập sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Tại Đại hội X, mô hình xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng ta bổ sung, phát triển với tám đặc trưng: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước phát quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng Đại hội X, quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triểm năm 2011) thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã được hoàn thiện hơn một bước:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, lý luận của Đảng ta về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ nét hơn, cụ thể hơn. Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, Đảng đã có những nhận thức ngày càng sâu sắc về chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn với thực tiễn cuộc sống, kịp thời bổ sung và hoàn chỉnh dần quan điểm, đường lối về chủ nghĩa xã hội.
- Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (1991) đề ra bảy phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội:
+ Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh công nhân- nông dân- trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm.
+ Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh giữ được vị trí chủ đạo trong đờ sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt d0e5p của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người.
+ Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị tất cả các nước trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
+ Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước, đồng thời kế thừa Cương lĩnh đại hội VII, trong Cương lĩnh (bổ sung phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra tám phương hướng lớn:
+ Đẩy mạnh công nghiệp công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chăc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại, độc lập. tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh!
Như vậy Đảng ta không chỉ xác định được xã hội mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội như thế nào, mà còn xác định đúng đắn, sáng tạo những phương hướng cơ bản, coi đây là những vấn đề có tính quy luật của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn của đất nước, ngay từ khi đổi mới. Đảng ta đã xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự “ quá độ gián tiếp” trong Cương lĩnh (1991) đã sử dụng cụm từ “ bỏ qua chế độ tư bản” và xác định: “ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nữa phong kiến lực lượng sản xuất rất thấp”
Qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã phát triển luận điểm trên cụ thể hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ n ghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Tiếp theo Cương lĩnh ( bổ sung phát triển năm 2011) chỉ rõ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội, nhất thiết phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội đan xen.
Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc rằng, với đặc điểm của một nước thuộc địa nữa phong kiến, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì không thể quá độ trực tiếp mà phải quá độ gián tiếp theo phương thức “phát triển rút ngắn” lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước phát triển tất yếu khách quan, hợp qui luật theo tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên, là con đường phát triển phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động việt nam.
Về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đại hội VI Đảng ta đã xác định mô hình quản lý kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù hợp và nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ. Vì vậy Đại hội VII đã khẳng định đó là “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thi trường có sự quản lý của Nhà nước” Đồng thời, cụ thể hóa một bước về chế độ công hữu, đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Đến đại hội IX khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định rõ hơn nữa: “ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đến Đại hội XI, Đảng ta xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế “ với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nguyen_tac_thong_nhat_giua_ly_luan_va_thuc_tien_trong.doc