Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Để tạo điều kiện cho bị cáo bào chữa, Nhà nước phát triển các tổ chức luật sư và ban hành pháp lênh, luật về quy chế tổ chức luật sư. Hiện nay ở hầu hết các tỉnh đều có các đoàn luật sư để giúp bị cáo và các đương sự khác thực hiện quyền bào chữa. Trong những trường hợp cần thiết, mặc dù bị cáo không yêu cầu nhưng toà án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Đó là những trường hợp: Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần như mù, điếc, câm.làm hạn chế khả năng bào chữa; bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng mà mức án nặng nhất có thể tử hình; bị cáo là người vị thành niên phạm tội nghiêm trọng như cướp của, giết người, hiếp dâm; những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn ở địa phương, sự cần thiết phải cử luật sư bào chữa để làm sáng toe nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng như tính chất của vụ án.
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6451 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó chánh án và thẩm phán toà án nhân dân tối cao, chánh án, phó chánh án, thẩm phán các toà án nhân dân địa phương, toà án quân sự các cấp là 5 năm. Việc bổ nhiệm đối với toà án nhân dân ở tất cả các cấp là một sự đổi mới trong tổ chức toà án nhân dân. Sau cách mạng Tháng 8/1945, Thẩm phán các Toà án do Chính phủ bổ nhiệm. Từ sau cải cải cách tư pháp 1959, Thẩm phán các toà án nhân dân địa phương đều do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp bầu và bãi miễn. Thực tế hơn 30 năm qua cho thấy, sự cần thiết của việc thay chế độ bầu bằng chế độ bổ nhiệm đối với các Thẩm phán ở các toà án để tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động xét xử của các toà án được độc lập. Còn đối với các hội thẩm nhân dân vẫn theo các chế độ bầu cử như trước đây, đối với các toà án ở địa phương. Hội thẩm toà án nào do Hội đồng nhân dân ở địa phương đó bầu ra và bãi miễn theo để nghị của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp. Còn Hội thẩm của toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ quốc hội cử theo sự giới thiệu của Uỷ ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Hội thẩm nhân dân ở toà án quân sự các cấp cũng theo chế độ cử. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao và Hội thẩm quân nhân là 5 năm. Còn nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân các toà án địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Hiện nay, vấn đề đang đặt ra là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các Hội thẩm nhân dân bằng chính năng lực của mình có thể độc lập, ngang quyền với thẩm phám trong xét xử.
2.2 Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, một mặt do chưa có kinh nghiệm trong tổ chức nhà nước, mặt khác do thiếu cán bộ nên nguyên tác này chưa được xaxc lập khi đó pháp luật quy định: tại phiên toà, thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản án từ ( sắc luật số 13/ SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán). Hiến pháp 1946 vẫn chưa xác định nguyên tắc này. Chỉ từ sau cải cách tư pháp, nguyên tắc toà án xét xử theo tập thể và quyết định theo đa số mới được quy định trong Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1960 tại Điều 12. Từ đó đến nay nguyên tắc đó đều được xác định trong Hiến pháp 1980, 1992; Luật tổ chức toà án nhân 1960, 1981, 1992,2002. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động và tổ chức bộ máy nhà nước. Xét xử là một hoạt động đặc thù mà toà án đảm nhiệm nhằm bảo vệ pháp chế nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Vì vậy, việc xét xử phải hết sức thận trọng, khách quan và đúng đắn. Muốn có bản án và quyết định đúng, đòi hỏi phát huy trí tuệ tập thể. Theo nguyên tắc này, để xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động hay hôn nhân gia đình, cũng như những vụ án khác phải lập hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử có thể gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân, cũng có thể gồm các thẩm phán nhưng phải có ít nhất từ 3 người trở lên và phải do chánh án quyết định.
Trong hội đồng xét xử có một thẩm phán được chánh án cử làm chủ toà phiên toà. Chủ toạ phiên toà cũng như các thành viên khác phỉ chiu trách nhiệm trước chánh án toà án cùng cấp trong việc điều khiển phiên toà trong việc điều khiển phiên toà cũng như các quyết định của Hội đồng xét xử. Mỗi thành viên trong Hội đồn xét xử phải nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án để xác minh những chứng cứ cần thiết tại phiên toà, đồng thời phải có sự hiểu biết pháp luật để điều khiển phiên toà và áp dụng đũng pháp luật. Mọi sự chênh lệch đáng kể về trình độ hiểu hiểu biết cũng như kinh nghiệm xét xử giữa các thành viên trong hội đồng đều dẫn đến hình thức của xét xử tập thể. Vì vậy, việc ban hành quy chế thẩm phán và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hội thẩm nhân dân, cũng như hội thẩm quân nhân trong toà án quân sự là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay.
2.3 Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc này đã được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 trong Thông tư số 1246 của Bộ trưởng Bộ nội vụ ngày 25/4/1946: toà án là những cơ quan chuyên môn biệt lập , không phải đặt dưới sự kiểm soát của các cơ quan hành chính. Đến Hiến pháp 1946 Quốc hội cũng quy định: "Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Hiện nay nguyên tắc này được quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 cũng như Điều 5 Luật tổ chức toà án nhân dân 2002. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo đảm tính khách quan trong quá trình xét xử để áp dụng thống nhất pháp luật ở tất cả các toà án. Nguyên tắc này đòi hỏi:
Thứ nhất, khi xét xử, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân trên cơ sở nghiên cứu các hồ sơ vụ án để xác minh chứng cứ, quy phạm pháp luật cần áp dụng để có quyết định cho phù hợp, không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nào. Tuy nhiên, trong quá trình xét xử, toà án vẫn phải lắng nghe ý kiến của các cơ quan nhà nước, trong đó có cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân, của các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân để làm sáng tỏ những vấn đề mà toà án quan tâm nhằm xét xử thấu lý, đạt tình, được nhân dân ủng hộ nâng cao tác dụng, phòng ngừa trong xét xử.
Thứ hai, trong xét xử, các thành viên hội đồng cũng độc lập với nhau trong việc xác định chứng cứ phân tích và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng... Do đó, trước khi xét xử, đòi hỏi các thành viên trong hội đồng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án đồng thời phải có những dự kiến nhất định để chủ động trong việc thẩm vấn, xác định quy phạm cần áp dụng và có quyết định cụ thể. Mọi sự thờ ơ với vụ án được xét xử, cũng như sự hiểu biết ít về pháp luật và ỷ lại vào thẩm phán đều dẫn đến sự thụ động, mất độc lập trong xét xử. Ngay tại phòng nghị án, các thành viên hội đồng xét xử các thành viên của hội đồng xét xử cũng độc lập về quan điểm để tranh luận đối với chứng cứ và quy phạm cần áp dụng trước khi biểu quyết.
Thứ ba, đối với một bản án có thể xét xử nhiều lần. Do đó, giữa các toà án cũng độc lập với nhau khi xét xử theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với toà án xét xử sơ thẩm không phải " xin ý kiến chỉ đạo" của toà án cấp trên trong từng vụ án cụ thể. Ngược lại, toà án xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm và tái thẩm không lệ thuộc vào những chứng cứ, kết luận và quyết định của toà án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định lại chứng cứ, quy phạm thích hợp để áp dụng và có quyết định cụ thể.
2.4 Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định.
Nguyên tắc này đã được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 tại điều 67 Hiến pháp 1946. Hiện nay, nguyên tắc này vẫn được xác định tại điều 131 Hiến pháp 1992. Nguyên tắc toà án xét xử công khai bắt nguồn từ nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân lao động trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, để thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử, đảm bảo xự giám sát của nhân dân trong xét xử cũng như để nâng cao tác dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét xử. Để đảm bảo nguyên tắc này, các toà án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án. Kế hoạch đó phải được niêm yết tại trụ sở toà án, phải thông báo tại chính quyền xã, phường nơi cư trú, hoặc nơi làm việc cuỗi cùng của bị cáo. Đồng thời toà án phải thông báo cho bị cáo, người bị hại và các đương sự cũng như những người có liên quan đến vụ án biết thời gian, địa điểm xử án. Đối với những vụ án điển hình mà nhiều người quan tâm, toà án phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để dân biết, tham dự. Về nguyên tắc, việc xét xử được tiến hành tại phòng xử án của toà án, nhưng toà án cũng có thể xét xử lưu động ngay tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Trong cả hai trường hợp trên, toà án cần phải thông báo trước và rõ ràng về thời gian và địa điểm xử án.
Mọi công dân đều có quyền tham dự phiên toà, được nghe ý kiến của hội đồng xét xử cũng như người có liên quan đến vụ án. Trong những trường hợp cần thiết phải giữ gìn bí mật nhà nước hoặc thuần phong mỹ tục của dân tộc... Toà án có thể xét xử kín một phần hay toàn bộ vụ án. Tuy nhiên dù xét xử công khai hay xử kín, quyết định của toà án phải được đọc công khai để mọi người biết.
2.5 Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam, đã được xác định từ sau cách mạng Tháng 8/1945. hiện nay, quyền cơ bản này của công dân được Quốc hội xác định tại điều 52 Hiến pháp 1992. Trên cơ sở quy định này, điều 8 Luật tổ chức toà án nhân dân quy định: toà án xét xử trên nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt, nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Toà án là cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong quá trình xét xử phải bảo đảm áp dụng pháp luật một cách thống nhất, công bằng. Do đó trong những điều kiện và hoàn cảnh như nhau mà không phân biệt địa vị xã hội, dân tộc, nam, nữ...
Mặt khác, trong xét xử, các toà án phải đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền tố tụng như: quyền đệ trình ứng cử, quyền yêu cầu thay đổi thành phần của hội đồng xét xử, quyền được kháng cáo... được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản tố tụng khác.
2.6 Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm.
Nguyên tắc này được xác định sau Cách mạng tháng 8/1945 trong Hiến pháp 1946 tại điều 67. Hiện nay tại điều 132 Hiến pháp 1992, Quốc hội quy định: quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình.
Bằng những chứng cứ cụ thể, bị cáo có thể chứng minh trước toà những hành vi của mình là vô tội hoặc có tội nhưng cần phải xử ở mức nhẹ hơn. Qua những chứng cứ do bị cáo đưa ra, toà án có thể đánh gia đúng hơn tính chất của những hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo để xét xử đúng tội, đúng lượng hình.
Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Để tạo điều kiện cho bị cáo bào chữa, Nhà nước phát triển các tổ chức luật sư và ban hành pháp lênh, luật về quy chế tổ chức luật sư. Hiện nay ở hầu hết các tỉnh đều có các đoàn luật sư để giúp bị cáo và các đương sự khác thực hiện quyền bào chữa. Trong những trường hợp cần thiết, mặc dù bị cáo không yêu cầu nhưng toà án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho bị cáo. Đó là những trường hợp: Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần như mù, điếc, câm...làm hạn chế khả năng bào chữa; bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng mà mức án nặng nhất có thể tử hình; bị cáo là người vị thành niên phạm tội nghiêm trọng như cướp của, giết người, hiếp dâm; những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn ở địa phương, sự cần thiết phải cử luật sư bào chữa để làm sáng toe nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng như tính chất của vụ án.
Để tạo điều kiện cho các bị cáo thực hiện quyền bào chữa, Nhà nước còn quy định cho các toà án phải tống đạt cáo trạng cho bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ hoặc người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi xét xử. Tại phiên toà, bị cáo được đề xuất chứng cứ, được thỉnh cầu.
2.7 Công dân Việt Nam có quyền được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà án.
Nguyên tắc này cũng được xác định từ Hiến pháp 1946 tại điều 66 và hiện nay được quy định tại điều 133 Hiến pháp 1992.
Việc xét xử ở các toà án là một quá trình, trong đó giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định lại chứng cứ, làm sáng tỏ nguyên nhân vi phạm pháp luật, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ làm cơ sở cho việc nghị án. Giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà phải hết sức thận trọng, chính xác nhằm tìm ra sự thật. Những câu hỏi mà hội đồng xét xử cũng như những người tham gia tố tụng đưa ra phải rõ ràng nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ án. Việc trả lời của bị cáo, người bị hại, của người làm chứng cũng phải diễn đạt một cách rõ ràng, đúng sự thật. Để bị cáo, bị hại, các đương xự cũng như những người làm chứng khác trình bày một cách dễ dàng và chính xác, sự cần thiết phải được diễn đạt bằng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Do đó, trong những trường hợp cần thiết, toà án phải chuẩn bị và cử người phiên dịch.
2.8 Hệ thống và cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân.
2.8.1 Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tối cao được quốc hội quy định tại điều 17 Luật tổ chức toà án nhân dân bao gồm:
Chánh án toà án nhân dân, do Quốc hội bầu ra từ trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu của chủ tịch nước, bằng con đường bỏ phiếu kín (thông thường tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội). Nhiệm kỳ của chánh án toà án nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Các phó chánh án do chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Nhiệm kỳ của các phó chánh án toà án nhân dân là 5 năm.
Các thẩm phán toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo để nghị của hội đồng tuyển chọn thẩm phán. Nhiệm kỳ của các thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cúng là 5 năm.
Các hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của đoàn chủ tịch Uỷ ban trung ương mặt trận tổ quốc Việt Nam. Nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tối cao cũng là 5 năm.
Thư ký toà án nhân dân tối cao do chánh án toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Tổng biên chế của toà án nhân dân tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của chánh án toà án nhân dân tối cao.
Để thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, Toà án nhân dân tối cao phải có những tổ chức thích hợp. Những tổ chức đó là:
hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, các chánh toà chuyên trách thuộc toà án nhân dân tối cao và một thẩm phán toà án nhân dân tối cao do chánh án toà án nhân dân tối cao cử và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Hội đông thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đồng thời là cơ quan hướng dẫn công tác xét xử của toà án các cấp.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, chánh toà các toà chuyên trách trong toà án nhân dân tối cao. Uỷ ban thẩm phán thực chất là tổ chức thường tực của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, có trách nhiệm xét xử tái thẩm và giám đốc thẩm các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Uỷ ban thẩm phán có trách nhiệm hướng dẫn các toà án thực hiện nghị quyết của Hội đồng thẩm phán, thông qua báo cáo của chánh án toà án nhân dân tối cao trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước xem xét.
Các toà án chuyên trách của toà án nhân dân tối cao bao gồm:
Toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động, toà hành chính, các toà phúc thẩm, toà án quân sự trung ương. Cụ thể là:
Toà hình sự và toà dân sự, kinh tế, lao động, toà hành chính của toà án nhân dân tối cao gồm có: chánh án, các phó chánh án, thẩm phán và thư ký toà án. Toà hình sự và toà dân sự của toà án nhân dân tối cao là tổ chức xét xử các vụ án hình sự và dân sự theo các thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm( bản án được thi hành ngay) đối với những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng; giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng nghi theo thủ tục của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên, việc xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm không thể đảm bảo rằng tất cả các bản án đều xử đúng. Vì vậy cần thực hiện hai cấp xét xử, bỏ thủ tục xét xử sơ thẩm, đồng thời là chung thẩm của các toà án nói trên là rất cần thiết.
Toà án phúc thẩm của toà án nhân dân tối cao hiện nay có ba toà ở Đà Nẵng, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Gồm có chánh toà, các phó chánh toà, các thẩm phán và thư ký toà án.
Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao phúc thẩm những vụ án mà bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới trực tiếp bị kháng cáo kháng nghị.
Toà án quân sự trung ương gồm có chánh án (là phó chánh án toà án nhân dân tối cao), các phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Toà án quân sự trùn ương là tổ chức xét xử theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự đối với những đối tượng nhất định: quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phong hay dân thường xâm phạm đến quân nhân, trang thiết bị của quân đội.
Bộ máy giúp việc.
Bộ máy giúp việc của toà án nhân dân tối cao như: văn phòng , các vụ, viện... nhằm phục vụ cho hoạt động chủ yếu là xét xử của toà án nhân dân tối cao.
Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ quốc hội sẽ quyết định thành lập thêm các toà án khác theo đề nghị của chánh án toà án nhân dân tối cao. Xu hướng chung, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xẽ thành lập; Toà vị thành niên, toà thương mại...
2.8.2 Cơ cấu, tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng do Quốc hội quy định trong Luật tổ chức toà án nhân dân.
Về cơ cấu, toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Số lượng thẩm phán và hội thẩm nhân dân toà án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi đã thống nhất ý kiến với chánh án toà án nhân dân tối cao.
Trong tổ chức, toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: Uỷ ban thẩm phán, các toà chuyên trách và bộ máy giúp việc.
Uỷ ban thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: chánh án, các phó chánh án, chánh toà các toà chuyên trách của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Uỷ ban thẩm phán là tổ chức xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị, đồng thời bảo đảm việc thống nhất pháp luật tại toà án cấp mình và các toà án cấp dưới, tổng kết kinh nghiệm xét xử ở địa phương và thông qua báo cáo của chánh án toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác xét xử ở địa phương trước khi báo cáo với hội đồng nhân dân cùng cấp và với toà án nhân dân tối cao.
Các toà án chuyên trách bao gồm: toà hình sự, toà dân sự, toà kinh tế, toà lao động và toà hành chính. Mỗi toà chuyên trách đều có chánh toà, phó chánh toà, các thẩm phán, thư ký toà án.
Các toà chuyên trách của toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử sơ thẩm các vụ án do pháp luật tố tụng quy định, xét xử phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới bị kháng cáo kháng nghị.
2.8.3 Cơ cấu tổ chức của toà án nhân dân huyện và tương đương.
Toà án nhân dân huyện và tương đương cũng gồm có: chánh án, phó chánh án, các thẩm phán và hội thẩm nhân dân, thư ký toà án. Chánh an, phó chánh án, các thẩm phán đều do chủ tịch nước bổ nhiệm.
Còn hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùn cấp bàu ra theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp, số lượng thẩm phán và hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân huyện, quận và tương đương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ tư pháp sau khi đã thống nhất với chánh án toà án nhân dân tối cao.
Về tổ chức của toà án nhân dân huyện, quận và tương đương, rất đơn giản, không có các toà chuyên trách cũng như các phòng, ban. Tuỳ theo tình hình và tính chất từng vụ án, chánh án toà án nhân dân sẽ phân công phó chánh án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân để xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình theo một trình tự thủ tục xét xử duy nhất là sơ thẩm.
2.8.4 Cơ cấu tổ chức của các Toà án quân sự.
Các toà quân sự gồm có: toà án quân sự trung ương, các toà quân sự quân khu, quân chủng và tương đương, các toà án quân sự khu vực.
Các toà án quân sự được tổ chức trong quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là những quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng và những vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Đối với toà án quân sự trung ương như đã nghiên cứu, còn đối với các toà án quân sự quân khu, quân chủng và tương đương; toà án quân sự khu vực cuungx gồm có chánh án, các phó chánh án, các thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký toà án. Số lượng thẩm phán và hội thẩm quân nhân của toà án quân sự quân khu và tương đương, toà án quân sự khu vực do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo sự đề nghị của Bộ trưởng, Bộ tư pháp và sau khi đã thống nhất ý kiến với Bộ trưởng quốc phòng và chánh án toà án nhân dân tối cao. Tổ chức cụ thể của toà án quân sự các cấp do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN HIỆN NAY VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TOÀ ÁN.
3.1 Thực trạng tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân hiện nay.
Về hoạt động xét xử, trong năm 2009, Toà án nhân dân (TAND) và Toà án quân sự các cấp đã giải quyết được 274.147 vụ án trong tổng số 295.989 vụ án đã thụ lý. Số vụ án còn lại là 21.842 vụ còn trong thời hạn luật định và đang được tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật… Theo đánh giá chung của ông Trương Hoà Bình - Chánh án Toà án nhân dân tối cao (TANDTC), các phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn diện các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, nên chất lượng xét xử được đảm bảo. Toà án các cấp đã chú trọng đào tạo, tập huấn, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng xét xử cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Tuy nhiên, tại Hội triển khai công tác năm 2010 của ngành TAND vừa mới diễn ra cách đây chưa lâu, báo cáo của TANDTC đã thẳng thắn chỉ ra nhiều yếu kém, tồn tại của ngành Toà án trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự (chưa chấp hành đúng các hướng dẫn của TANDTC). Qua kiểm tra đã phát hiện 360/21.749 trường hợp Toà án áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo không đúng quy định pháp luật. Theo Chánh án TANDTC Trương Hoà Bình, những trường hợp này phải kháng nghị để sửa chữa sai lầm và có hình thức xử lý nghiêm túc đối với Thẩm phán đã xét xử sai (tạm dừng tái bổ nhiệm 12 Thẩm phán vì có vi phạm áp dụng án treo không đúng pháp luật).
Đặc biệt, trong các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, việc chấp hành quy định về thời hạn giải quyết, xét xử của ngành Toà án chưa thật tốt. Cụ thể, còn trên 1.000 vụ án (chiếm 0,3% số vụ án phải giải quyết) để quá thời hạn xét xử. Các vụ án quá hạn luật định phần lớn là các vụ việc dân sự tập trung ở Hà Nội, TP HCM, Lâm Đồng... Việc xét xử các vụ án dân sự về tranh chấp đất đai còn bị kháng cáo theo thủ tục giám đốc thẩm với số lượng nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do người dân chưa có nhận thức thống nhất về giá trị của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Kỹ năng viết bản án của nhiều Toà còn chưa đúng với hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC tại các Nghị quyết số 04/2004 và số 05/2005. Điều này dẫn đến một số bản án tuyên không rõ ràng và Toà án phải giải thích, đính chính những sai sót. Cá biệt, có trường hợp phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vì không thể thi hành được trên thực tế.
Theo Phó Chánh án TANDTC Đặng Quang Phương, ngành Toà án cần giải quyết nhanh, dứt điểm các vụ án hình sự và tranh chấp, yêu cầu về dân sPhát biểu tại Hội nghị của ngành Toà án nói trên, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chỉ đạo: Trong thời gian tới, ngành Toà án cần chú trọng khắc phục sai sót trong xét xử, hạn chế tình trạng sửa án, huỷ án... Đó là TAND các cấp phải xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội... Đẩy mạnh thực hiện cải cách tư pháp trong ngành Toà án theo Nghị quyết số 49 theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị. Đảm bảo nguyên tắc: Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật...
Một Thẩm phán có thâm nhiên lâu năm trong ngành Toà án đặt vấn đề: Trong thực tiễn xét xử các loại vụ án, việc huỷ, sửa bản án, quyết định có mức độ khác nhau. Có Thẩm phán xử nhiều vụ, mà bị huỷ một vài vụ, thì tỷ lệ huỷ, sửa án thấp. Trong khi đó, nếu Thẩm phán xét xử ít (dưới 100 vụ/năm), chỉ cần huỷ một vụ cũng đã vượt quá tỷ lệ 1,15% án huỷ. Do vậy, TANDTC cần nghiên cứu vấn đề này, vừa để đảm bảo việc nâng cao chất lượng công tác xét xử, vừa bảo đảm việc đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của Thẩm phán trong quá trình tái bổ nhiệm.
Thi hành án hình sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Toà án. Các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu không được thi hành nghiêm túc, sẽ hạn chế lớn đến tác dụng giáo dục, phòng ngừa và răn đe tội phạm. Căn cứ vào Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, Toà án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hình sự, quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét miễn giảm thời gian chấp hành hình phạt tù, rút ngắn thời gian thử thách của án treo, xoá án tích, miễn giảm tiền phạt, tiền án phí... Như vậy, về mặt pháp lý, trách nhiệm của Tòa án trong công tác thi hành án hình sự là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình bắt giam, đưa phạm nhân đi cải tạo do cơ quan điều tra thực hiện. Việc quản lý giáo dục đối với bị cáo có hìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phanada.doc