MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng nghiên cứu 5
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu 5
6. Giả thuyết nghiên cứu 5
7. Phương pháp nghiên cứu 5
Chương I: 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN 7
1. Khái niệm nhận thức 7
1.1. Khái niệm 7
1.2. Các mức độ nhận thức 8
1.3. Các tiêu chí để đánh giá nhận thức 10
1.4. Mối quan hệ giữa nhận thức và các hiện tượng tâm lý khác 10
1.4.1. Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm 10
1.4.2. Mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ 12
1.4.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi 12
2. Những vấn đề về HIV/AIDS 12
2.1. Khái niệm về HIV 12
2.1.1. Định nghĩa 12
2.1.2. Phân loại 13
2.1.3. HIV tồn tại trong cơ thể người 13
2.1.4. HIV tồn tại trong môi trường 13
2.1.5. Các con đường lây truyền nhiễm HIV 13
2.1.6. Đường không lây truyền HIV 15
2.1.7. Cách thức HIV xâm nhập và phát triển trong cơ thể người 16
2.1.8. Những hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV 17
2.2. Khái niệm AIDS 18
2.2.1. Định nghĩa 18
2.2.2. Các giai đoạn và các triệu chứng biểu hiện 19
2.2.3. Các biện pháp phòng chống cơ bản 22
3. Một số đặc điểm tâm lý cơ bản ở lứa tuổi học sinh PTTH (phổ thông trung học) 23
Chương II: 25
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25
1. Nhận thức chung của học sinh trờng PTTH Tây Thuỵ Anh về HIV/AIDS 25
1.1. Nhận thức về bản chất của HIV, tác nhân gây bệnh AIDS 25
1.2. Nhận thức về bản chất của AIDS 28
1.3. Nhận thức về tính chất nguy hiểm của HIV/AIDS 31
2. Nhận thức về nguyên nhân, con đường lây truyền HIV/AIDS 34
2.1. Nhận thức về con đường lây truyền 34
2.2. Nhận thức về hành vi có nguy cơ bị lây nhiễm HIV/AIDS 46
2.3. Nhận thức về nhóm người có hành vi nguy cơ 56
3. Nhận thức về các giai đoạn, triệu chứng biểu hiện và các biện pháp phòng ngừa HIV/AIDS 59
3.1. Nhận thức về sự khác nhau giữa HIV và AIDS 59
3.2. Nhận thức của học sinh PTTH về cách thức nhận biết người bị nhiễm HIV 64
3.3. Nhận thức về thời gian xét nghiệm phát hiện ra bệnh 65
3.5. Nhận thức về các giai đoạn và triệu chứng biểu hiện của bệnh 69
3.6. Nhận thức về cách phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS 73
3.6.1. Nhận thức về cách phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS qua đường tình dục 73
3.6.2. Nhận thức về cách phòng tránh lây nhiễm HIV/ AIDS qua đường máu 77
4. Hành vi ứng xử với người nhiễm HIV/AIDS 81
4.1. Tự đánh giá về khả năng lây nhiễm HIV của bản thân 81
4.2. Ứng xử của bản thân khi bị nhiễm HIV 82
4.3. Hành vi ứng xử với người nhiễm HIV 85
4.3.1. Cách nhìn nhận của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh về người bị nhiễm HIV/ AIDS 85
4.3.2. Hành vi ứng xử với người bị nhiễm HIV/AIDS 87
5. Công tác giáo dục phòng chống HIV/AIDS của trường 91
5.1. Cách tiếp cận thông tin về HIV/AIDS của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh 91
5.2. Nhận thức về biện pháp giáo dục phòng ngừa lây nhiễm HIV tại các trường PTTH 94
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 97
1. Kết luận 97
2. Khuyến nghị 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 103
116 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận thức của học sinh trường Trung học phổ thông Tây Thụy Anh, huyện Thái Thụy, Thái Bình về vấn đề HIV/AIDS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m HIV mà không sử dụng các biện pháp phòng tránh. Để kiểm tra lại nhận thức của các em về con đường lây nhiễm qua đường tình dục chúng tôi đưa ra câu hỏi sau :
“ Có hai ý kiến, bạn đồng tình với quan điểm nào ?”
Quan điểm thứ nhất : phải có quan hệ tình dục với nhiều người thì mới bị lây nhiễm HIV.
Quan điểm thứ hai : chỉ cần quan hệ tình dục với một người bị nhiễm HIV mà không sử dụng bao cao su thì cũngbị lây nhiễm HIV.
Kết quả thu được là :
Có 32 học sinh chiếm 10,4% đồng tình với quan điểm thứ nhất.
Có 278 học sinh chiếm 90,3 % chấp nhận quan điểm thứ hai.
Từ kết quả nêu trên ta nhận thấy một điều đáng mừng là phần lớn học sinh đều hiểu rõ được con đường lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục. Với 90,3% là tỷ lệ khá cao khi trả lời rằng chỉ cần quan hệ tình dục với một người bị nhiễm HIV mà không sử dụng bao cao su thì cũng có thể bị lây nhiễm HIV. Đây là phương án trả lời đúng cho câu hỏi kiểm tra này. Tuy nhiên, vẫn còn có 10,4% số học sinh cho rằng phải có quan hệ tình dục với nhiều người thì mới bị lây nhiễm HIV. Tuy con số không nhiều nhưng cũng là một điều đáng lo ngại. Vì vậy để nâng cao hành vi an toàn trong giới học sinh, sinh viên cần phải đẩy mạnh hơn nữa các phong trào thi đua tuyên truyền HIV/AIDS, đặc biệt là về nội dung các con đường lây nhiễm HIV và các kiến thức có liên quan đến sự lây nhiễm HIV/AIDS.
Sau đó chúng tôi lại dưa ra các phương án phụ :
Nếu đồng ý với quan điểm thứ nhất là vì :
- HIV không lây truyền qua đường tình dục.
- Chỉ quan hhệ tình dục với một người không đủ lượng vi rut HIV để có thể bị lây.
Nếu đồng ý với quan điểm thứ hai là vì :
- HIV sẽ lây truyền qua đường tình dục.
- HIV có nhiều trong tinh dịch và dịch âm đạo.
Trong số 90,3% chọn phương án hai thì đều có sự nhận thức đúng về hai lý do trên. Lây truyền qua đường tình dục là con đường cơ bản dẫn đến lây nhiễm HIV vì HIV có nhiều trong tinh dịch và dịch âm đạo. Khi giao hợp các dịch này tiếp xúc với nhau qua những chỗ xước li ti mà quan hệ tình dục gây ra vi rut HIV đi vào máu.
Tóm lại, qua việc đưa ra những câu hỏi nhằm nghiên cứu nhận thức của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh về các con đường lây truyền nhiễm HIV chúng tôi có một vài kết luận và nhận xét như sau :
Các phương án đúng được các em trả lời chiếm tỷ lệ rất cao như : HIV lây qua đường tiêm chích ma tuý chiếm 96,1%, qua con đường quan hệ tình dục chiếm 91,3%, qua con đường từ mẹ sang con chiếm 91,3 %, qua truyền máu và các sản phẩm của máu chiếm 75,2%. Đây cũng chính là các con đường lây truyền nhiễm HIV chính và các em cũng đã nhận thức được tương đối chính xác vấn đề.
Từ những kết quả điều tra trên cho thấy các em học sinh đã có được những thông tin tương đối chính xác về các con đường lây truyền nhiễm HIV. Xuất phát từ việc nhận thức đúng đắn về các con đường lây truyền đó các em sẽ có được cách thức để phòng tránh tụ bảo vệ bản thân tránh xa căn bệnh này.
2.2. Nhận thức về hành vi có nguy cơ bị lây nhiễm HIV/AIDS
Cùng với việc tìm hiểu nhận thức hiểu biết của học sinh PTTH về bản chất, mức độ nguy hiểm, con đường lây truyền HIV/AIDS. Chúng tôi còn tiến hành điều tra xem xét nhận thức của các em về những hành vi có nguy cơ bị lây nhiễm HIV/AIDS bằng cách cho các em sắp xếp hai mươi hành vi theo các mức độ nguy cơ :
Với ba mức độ nguy cơ như sau:
Hành vi có nguy cơ : là những hành vi dẽ dẫn đén lây nhiễm HIV.
Hành vi nguy cơ phụ thuộc : là những hành vi có thể dẫn đến lây nhiễm HIV khi nó đi kèm theo một số yếu tố khác.
Hành vi không có nguy cơ : là những hành vi không dẫn đến lây nhiễm HIV hợac khả năng lây nhiễm là rất thấp.
Các hành vi mà chúng tôi đưa ra được phân ra thành các nhóm như sau :
a, Hành vi có nguy cơ bao gồm các hành vi sau :( 3 điểm)
Quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su.
Quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao su.
Có thai khi bị nhiễm HIV.
Tiêm chích ma tuý.
b, Nguy cơ phụ thuộc bao gồm các hành vi sau (2 điểm)
Xuyên lỗ tai.
Sơ cấp cứu cho một người đang bị chảy máu.
Dùng chung dao cạo.
Dùng chung bàn chải đánh răng.
Quan hệ tình dục có sử dụng bao cao su ( phụ thuộc vào việc sử dụng bao su đúng cách hay không )
c, Không có nguy cơ bao gồm các hành vi sau đây (1 điểm)
Cắt móng tay.
Gội đầu ngoài tiệm.
Bị muỗi đốt người nhiễm HIV đốt.
Bắt tay ôm hôn người nhiễm HIV.
Dùng chung bát đũa với người nhiễm HIV.
Thủ dâm.
Cho máu.
Sơ cấp cứu nhưng không dính máu.
Mặc quần áo của người nhiễm HIV.
Dùng chung nhà vệ sinh công cộng.
Bơi trong bể bơi công cộng.
Qua điều tra phân tích số liệu chúng tôi thu được kết quả ở bảng sau :
Bảng số 8: Nhận thức về các hành vi nguy cơ bị lây nhiễm HIV
Các hành vi
Có nguy cơ
Nguy cơ phụ thuộc
Không có nguy cơ
N
%
N
%
N
%
1.Cắt móng tay
22
7,1
124
39,9
148
47,6
2. Gội đầu ngoài tiệm
21
6,9
103
33,1
167
53,7
3. Quan hệ tình dục ở âm đạo mà không dùng bao cao su
278
89,4
22
7,1
8
2,6
4. Bị muỗi đốt người nhiẽm HIV
91
29,3
79
25,4
132
42,4
5. Bắt tay ôm hôn người nhiễm HIV
12
3,9
51
16,4
237
76,2
6. Dùng chung bát đũa với người nhiễm HIV
10
3,2
33
10,7
254
81,7
7. Thủ dâm
139
44,7
93
29,9
51
16,4
8. Cho máu
145
46,6
132
42,4
25
8,0
9. Xuyên lỗ tai
67
21,5
168
54,0
60
19,3
10. Dùng chung bàn trải đaánh răng
57
18,3
128
41,2
109
35,0
11. Quan hệ tình dục ở hậu môn mà không dùng bao cao su
173
55,6
78
25,1
42
13,7
12. Có thai khi bị nhiễm HIV
257
82,6
42
13,5
6
1,9
13. Sơ cấp cứu cho một người đang bị chảy máu
64
20,6
205
65,9
29
9,3
14. Tiêm chích ma tuý
83
26,7
170
54,7
41
13,2
15. Quan hệ tình dục có sử dụng bao cao su (phụ thuộc vào việc có dùng bao cao su đúng cách )
20
6,4
178
57,2
88
28,3
16. Sơ cấp cứu nhưng không dính máu
6
1,9
42
13,5
251
80,7
17. Mặc quần áo của người nhiễm HIV
5
1,6
64
20,6
232
74,6
18. Dùng chung nhà vệ sinh công cộng
22
7,1
39
12,5
237
76,2
19. Dùng chung dao cạo
108
34,7
166
53,4
28
9,0
20. Bơi trong bể bơi công cộng
6
1,9
39
12,5
248
79,7
Điểm trung bình của các phương án được thể hiện trong bảng sau:
Bảng số 9: Bảng điểm trung bình của các hành vi lây nhiễm HIV
Các hành vi
Số người trả lời
Số người không trả lời
Điểm trung bình
Xếp hạng
1. Cắt móng tay
295
16
1,64
12
2. Gội đầu ngoài tiệm
291
20
1,50
13
3. Quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su
308
3
2,88
1
4. Bị muỗi đốt người nhiễm HIV đốt
302
9
1,86
10
5. Bắt tay ôm hôn người nhiễm HIV
300
11
1,25
16
6. Dùng chung bát đũa với người nhiễm HIV
298
13
1,21
18
7. Thủ dâm
283
28
1,31
14
8. Cho máu
302
9
2,40
5
9. Xuyên lỗ tai
295
16
2,02
9
10. Dùng chung bàn chải đánh răng
294
17
1,82
17
11. Quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su
293
18
2,45
4
12. Có thai khi bị nhiễm HIV
305
6
2,82
2
13. Sơ cấp cứu cho người đang bị chảy máu
298
13
2,12
8
14. Tiêm chích ma tuý
294
17
2,14
7
15. quan hệ tình dục có sử dụng bao coa su ( phụ thuộc vào việc sử dụng bao su đúng cách hay không)
286
25
1,76
11
16. Sơ cấp cứu nhưng không dính máu
299
12
1,18
19
17. Mặc quần áo của người nhiễm HIV
301
10
1,25
16
18. Dùng chung nhà vệ sinh công cộng
298
13
1,28
15
19. Dùng chung dao cạo
302
9
2,26
6
20. Bơi trong bể bơi công cộng
293
18
1,17
20
Qua kết quả ở bảng trên chúng tôi thấy các hành vi được các em cho điểm cao nhất là:
Quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su với 278 phiếu xếp vào hành vi có nguy cơ và đạt điểm trung bình là 2,88.
Có thai khi bị nhiễm HIVcó 257 phiếu xếp ở cột hành vi có nguy có đạt điểm trung bình là 2,82.
Quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su có 173 phiếu và điểm trung bình là2,45.
Tiêm chích ma tuý có điểm trung bình là 2,14.
Trên đây là những hành vi có nguy cơ cao dẫn đến lây nhiễm HIV, các em học sinh đã nhận diện tương đối chính xác các hành vi này. Kết quả này là phù hợp vì các em học sinh đã nhận thức tương đối tốt về các con đường lây nhiễm HIV. Các em đều nhận thức được rằng HIV lây qua đường tình dục, đường máu và lây truyền từ mẹ sang con. Chính vì vậy các em có thể suy luận ra rằng các hành vi liên quan đến tình dục và cứ có quan hệ tình dục mà không sử dung bao cao su khi một người mang vi rut HIV thì nguy cơ rất cao người kia sẽ bị nhiễm. Đây là một cách suy luận đúng, tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp đều như vậy, dù sao thì mức độ nguy cơ cũng là rất cao. Việc nhận thức đúng các hành vi có nguy cơ dẫn đến lây nhiễm HIV không chỉ rất quan trọng với các nhóm xã hội có nguy cơ cao như gái mại dâm, nhóm nghiện hút ... mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với bất cứ ai. Khi đã có ý thức về các hành vi có nguy cơ cao dẫn đến lây nhiễm HIV thì mỗi người sẽ có cách riêng để phòng tránh cho bản thân và cho những người xung quanh.
Với câu hỏi đưa ra như trên thì nhìn chung các em học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh đẫ nhận thức tương đối tốt về các hành vi nguy cơ cao dẫn đến lây nhiễm HIV. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh nhầm lẫn trong việc xếp các hành vi không có nguy cơ vào nhóm hành vi có nguy cơ cao đối với sự lây nhiễm HIV/AIDS. Mặc dù số học sinh này không nhiều nhưng cũng là một điều đáng quan tâm bởi sự nhận thức đúng đắn hay sai lầm sẽ quy định nên những hành vi của học sinh đối với vấn đề HIV/AIDS.
Một điều đáng nói ở đây là một con số khá lớn 139 hoc sinh chiếm 44,7% số học sinh nhận định rằng thủ dâm là một trong những hành vi có nguy cơ cao dẫn đến lây nhiễm HIV/AIDS. Đây là một cách hiểu hoàn toàn sai lầm vì thủ dâm chỉ là những hành vi tự làm thoả mãn xúc cảm tình dục. Ở đây hoàn toàn không có sự tiếp xúc giữa các dịch sinh dục nên không thể dẫn đến lây nhiễm HIV.Với hành vi thủ dâm điểm trung bình đạt được là 2,31, có nghĩa là học sinh xắp xếp đây là hành vi có nguy cơ cao hoặc nguy cơ phụ thuộc. Phương án đúng của hành vi này là thuộc nhóm hành vi không có nguy cơ. Sự nhận thức sai lầm này của các em có thể là do các em biết được HIV lây truyền qua đường tình dục và các có sự nhầm lẫn giữa khái niệm quan hệ tình dục và thủ dâm. Các em học sinh PTTH ở lứa tuổi 16,17,18 hay tò mò ham hiểu biết nhưng đồng thời cũng hay e ngại không mạnh dạn dám hỏi nhất là những vấn đề liên quan đến tình dục là vấn đề tế nhị. Chính vì vậy hầu như các em không có những kiến thức về tình dục học. Khái niệm thủ dâm đối với các em là rất thiếu chính xác. Nhiều khi các em còn đánh đồng giữa tình dục và thủ dâm. Vì thế mà các em cho rằng thủ dâm là một hành vi có nguy cơ dẫn đến lây nhiễm HIV là điều dễ hiêủ
Tương tự như vậy cũng có đến 275 học sinh xắp xếp hành vi cho máu vào loại hành vi có nguy cơ và nguy cơ phụ thuộc dẫn đến lây nhiễm HIV, với điểm trung bình là 2,40. Điều này có thể được lý giải là do các em có sự nhầm lẫn giữa cho máu và nhận máu. Khi nhận máu của người bị nhiễm HIV thì mới bị lây nhiễm HIV còn người cho máu thì không, chỉ trừ trường hợp kim lấy máu dùng chung mà không được khử trùng đúng cách, nhưng điều này hầu như không xảy ra. Ngoài ra còn một con số không nhỏ 29,3% số học sinh cho rằng bị muỗi đốt người nhiễm HIV đốt thì có nguy cơ bị lây nhiễm HIV cao. Phương án đúng cho hành vi này là không có nguy cơ. Bởi vì như đã trình bày trong phần cơ sở lý luận vi rut HIV không thể tồn tại trong cơ thể muỗi. Hay nói cách khác muỗi không có khả năng truyền con vi rut HIV từ người này sang người khác. Vì vậy số em nhận thức rằng bị muỗi đốt người nhiễm HIV đốt có nguy cơ dẫn đến lây nhiễm HIV là hoàn toàn sai lầm.
Các hành vi không có nguy cơ như : bắt tay ôm hôn người nhiễm HIV, dùng chung bát đũa với người nhiễm HIV, sơ cấp cứu nhưng không dính máu, mặc quần áo của người nhiễm HIV, dùng chung nhà vệ sinh công cộng, bơi trong bể bơi công cộng ... được các em nhận thức rất rõ.
Đây là một trong những câu hỏi chúng tôi đưa ra nhằm kiểm tra lại kiến thức của các em về con đường lây nhiễm HIV/ AIDS . Việc các em nhận thức đúng về con đường lây nhiễm có phù hợp với việc các em sắp xếp đúng các hành vi theo mức độ nguy cơ hay không. Để kiểm tra được chúng tôi tiến hành xử lý tương quan chéo giữa câu hỏi nhận thức về con đường lây nhiễm với câu hỏi về hành vi nguy cơ.
Về con đường lây nhiễm HIV qua đường tình dục chúng tôi kiểm tra tương quan với các hành vi quan hệ tình dục bao gồm hai hành vi : quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su và hành vi quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su. Kết quả thể hiện trong hai bảng số liệu sau đây
Bảng số 10: Bảng tương quan giữa sự nhận thức về con đường lây truyền quan hệ tình dục và hành vi quan hệ tình dục
c6.3 quan hệ tình dục
có
không
tổng
c9.3 quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su
không có nguy cơ
5
1,6%
3
1,0%
8
2,6%
nguy cơ phụ thuộc
17
5,5%
5
1,6%
22
7,1%
có nguy cơ
259
84,1%
19
6,2%
278
90,3%
tổng
281
92,2
27
8,8%
308
100,0%
c6.3 quan hệ tình dục
có
không
tổng
c9.11 quan hệ tình dục ở hậu mon mà không sử dụng bao cao su
không có nguy cơ
37
12,6%
5
1,7%
42
14,3%
nguy cơ phụ thuộc
72
24,6%
6
2,0%
78
26,6%
có nguy cơ
158
53,9%
15
5,1%
173
59,0%
tổng
267
91,1%
26
8,9%
293
100,0%
Qua hai bảng số liệu trên ta thấy có 259 học sinh chiếm 84,1% nhận thức được HIV/AIDS lây truyền qua quan hệ tình dục và sắp xếp hành vi quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su vào nhóm hành vi có nguy cơ. Chỉ có 5 học sinh chiếm 1,6% cho rằng HIV lây truyền qua đường tình dục nhưng lại xếp hành vi quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su vào nhóm hành vi không có nguy cơ.
Đồng thời cũng có 158 học sinh chiếm 53,9% trả lời HIV lây truyền qua đường tình dục và sắp xếp hành vi quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su vào nhóm hành vi có nguy cơ. Tuy nhiên, vẫn còn một con số nhỏ 37 học sinh chiếm 12,6% nhận thức đúng HIV lây truyền qua đường tình dục nhưng lại xếp hành vi quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su là hành vi không có nguy cơ. Có nghĩa là việc xếp hành vi quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su là hành vi có nguy cơ phù hợp với việc nhận thức đúng được HIV lây truyền qua đường tình dục. Tương tự như vậy một con số rất cao 238 học sinh chiếm 78,0% nhận thức đúng HIV lây truyền qua con đường từ mẹ sang con và xếp hành vi có thai khi bị nhiễm HIV vào nhóm hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV. Sự tương quan ở đây là hoàn toàn phù hợp.
Tuy nhiên, ở đây có sự chênh lệch khi các em học sinh nhận thức được HIV lây truyền qua đường tiêm chích ma tuý với việc xếp hành vi tiêm chích ma tuý theo các nhóm.
Chỉ có 79 học sinh chiếm 26,9% nhận thức được HIV lây truyền qua đường tiêm chích ma tuý đồng thời xếp hành vi tiêm chích ma tuý vào nhóm hành vi có nguy cơ lây nhiễm. Và có 38 học sinh chiếm 12,9% nhận thức được HIV lây truyền qua con đường tiêm chích ma tuý nhưng lại xếp hành vi tiêm chích ma tuý vào nhóm hành vi không có nguy cơ lây nhiễm HIV. Điều này nói lên rằng các em có thể nhận thức đúng được các con đường lây nhiễm nhưng sự nhận thức này mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức cảm tính.
Tóm lại, qua các bảng số liệu trên chúng tôi có nhận xét rằng các em đã trả lời đúng về các hành vi có nguy cơ dẫn đến lây nhiễm HIV. Đó là các hành vi quan hệ tình dục ở âm đạo mà không sử dụng bao cao su, quan hệ tình dục ở hậu môn mà không sử dụng bao cao su, có thai khi bị nhiễm HIV và hành vi tiêm chích ma tuý. Tuy nhiên bên cạnh số học sinh có nhận thức đúng đó thì vẫn còn con số không nhỏ học sinh hiểu sai về các hành vi nguy cơ khi các em cho rằng hành vi thủ dâm, hành vi cho máu, bị muỗi đốt người nhiễm HIV đốt thì có nguy cơ bị lây nhiễm HIV. Đây là sự hiểu biết hoàn toàn sai lầm vì HIV chỉ lây qua ba con đường chính là quan hệ tình dục, đường máu và từ mẹ sang con. Điều này đặt ra nhiệm vụ cho đoàn thanh niên địa phương, mà đặc biệt là cho đoàn trường phải tăng cường các phong trào tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS nhằm nâng cao nhận thức cho các em về vấn đề này.
2.3. Nhận thức về nhóm người có hành vi nguy cơ
Sau khi đã tìm hiểu nhận thức của học sinh về các con đường lây nhiễm HIV, về các hành vi có nguy cơ dẫn đến lây nhiễm HIV chúng tôi đi nghiên cứu nhận thức của học sinh về nhóm xã hội có hành vi nguy cơ lây nhiễm cao với câu hỏi sau:
Theo bạn, ai có nguy cơ cao bị nhiễm HIV trong các nhóm xã hội sau đây?
Có 12 phương án được chia thành 5 mức độ nguy cơ bao gồm :
5.Rất cao ( 5 điểm)
4. Cao (5 điểm)
3. Trung bình ( 3 điểm)
2. Thấp ( 2 điểm)
1. Không có nguy cơ ( 1 điểm)
Kết quả chúng tôi thu được thể hiện trong bảng số liệu sau:
Bảng số 10: Nhận thức về nhóm người có nguy cơ lây nhiễm HIV
Các nhóm xã hội
Sốngười trả lời
Số người không trả lời
Điểm trung bình
Xếp thứ
1. Những người đồng tính
274
37
2,72
7
2. Gái mại dâm
307
4
4,75
1
3.Con của những người mẹ bị nhiễm HIV
307
4
4,47
2
4.Bệnh nhân mang bệnh lây truyền qua đường tình dục
302
9
4,33
3
5. Khách hàng của gái mại dâm
308
3
4,19
5
6. Những người nghiện ma tuý
309
2
4,24
4
7. Nhóm sinh viên sống buông thả
307
4
3,16
6
8. Nhóm người lao động từ quê ra thành phố
303
8
2,42
8
9. Bất cứ ai có thể bị nhiễm HIV
297
14
2,03
11
10. Những người thường xuyên phải tiếp xúc với bệnh nhân HIV/AIDS
303
8
2,25
10
11. Lái xe thuỷ thủ
303
8
1,86
12
12. Nhóm trẻ em lang thang
298
13
2,40
9
Qua kết quả ở bảng số liệu trên, ta thấy hầu hết các em học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh đều nhận thức được nhóm người có hành vi ngưy cơ cao. Đó là: gái mại dâm ở mức độ nguy cơ rất cao 242 học sinh trả lời chiếm 78,8% đạt điểm trung bình là 4,75; con của những người mẹ bị nhiễm HIV 179 học sinh trả lời chiếm 57,9% và đạt điểm trung bình là 4,47 ; khách hàng của gái mại dâm 123 học sinh chọn chiếm 39,5% đạt điểm trung bình là 4,19 ; những người nghiện ma tuý có 115 học sinh chọn chiếm 37,0% đạt điểm trung bình là 4,24. Kết quả thu được phần nào đã phản ánh đúng thực tế hiện nay khi mà HIV không còn quá mới mẻ đối với mỗi chúng ta. Hàng ngày các em được tiếp cận với những thông tin về HIV/AIDS thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các chương trình thi đua tìm hiểu về HIV/AIDS, vì vậy các em đã có được những thông tin bổ ích và cần thiết về căn bệnh này. Từ đó, các em có thể nhận thức được đối tượng nào là đối tượng có nguy cơ bị nhiễm HIV cao. Trên thực tế gái mại dâm và những người nghiện ma tuý được coi là những đối tượng có hành vi nguy cơ cao dẫn đến sự gia tăng về số người lây nhiễm HIV hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, kêt quả trên cho thấy cách nhìn nhận đánh giá về nhóm người có thể bị nhiễm HIV của học sinh PTTH còn khá chủ quan. Học sinh chỉ tập trung vào nhóm người có hành vi nguy cơ cao như những người nghiện ma tuý, gái mại dâm, khách hàng của gái mại dâm và con của những người mẹ bị nhiễm HIV.Chúng ta hầu như ai cũng đã từng nghe nói đến vi rut HIV và căn bệnh AIDS, song vẫn còn rất nhiều người tin rằng HIV/AIDS là một bệnh xa vời lắm, là bệnh của một nhóm người xấu chứ những người bình thường không thể bị mắc bệnh này. Đó là một quan niệm hoàn toàn sai lầm, HIV có thể tìm đến với bất cứ ai nếu không có sự hiểu biết về nó cũng như không biết cách phòng tránh nó. Đúng là những người tiêm chích ma tuý và những người làm nghề mại dâm có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn, song HIV không phải chỉ dành riêng cho họ. Ở nước ta AIDS đã lan ra cả những người thuộc các tầng lớp khác. Nó đang lặng lẽ tấn công cả xã hội. Vì vậy, có thể khẳng định rằng HIV/AIDS không có biên giới, không phân biệt màu da tuổi tác nghề nghiệp, giới tính. Bất cứ ai đều có thể bị nhiễm HIV. Người làm nghề mại dâm nếu luôn dùng bao cao su thì cũng sẽ không nhiễm HIV. Người tiêm chích ma tuý nếu luôn dùng bơm kim tiêm riêng thì cũng sẽ không bị nhiễm HIV. Nếu một người bình thường không tiêm chích ma tuý cũng không là gái mại dâm nhưng vẫn có thể bị nhiễm HIV khi yêu thương một người và ân ái mà không dùng bao cao su nếu chẳng may người đó mang trong mình con vi rut HIV mà không biết. Ở các nhóm : những người thường xuyên phải tiếp xúc với bệnh nhận AIDS, nhóm lái xe thuỷ thủ, nhóm người đồng tính, nhóm người lao động từ quê ra thành phố, nhóm trẻ lang thang có điểm trung bình thấp. Có nghĩa là các em nhìn nhận các nhóm xã hội này không có nguy cơ hoặc nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS là rất thấp. So sánh giữa học sinh nam và học sinh nữ, giữa học sinh các khối nhận thức về nhóm người có hành vi nguy cơ thì độ chênh lệch là không đáng kể.
Như vậy qua điều tra nhận thức về nhóm người có nguy cơ bị lây nhiễm HIV kết qủa thu được là các em học sinh đã có những hiểu biết tương đối tốt. Các nhóm đối tượng mà các em cho rằng có nguy cơ cao là gái mại dâm, người tiêm chích ma tuý, con của người nhiễm HIV, khách hàng của gái mại dâm. Trên thực tế đây là những nhóm người có nguy cơ cao dẫn đến lây nhiễm nhiễm HIV. Tuy nhiên một đièu đáng nói ở đây là cách nhìn nhận đánh giá cua các em còn mang tính chủ quan, quy chụp. Các em chưa hiểu được rằng ai cũng có thể là đối tượng xâm nhập của con vi rut này nếu thiếu hiểu biết và không biết cách phòng tránh nó. Đây cũng chính là điểm yếu trong cách nhìn nhận đánh giá của phần đông các nhóm xã hội về căn bệnh này.
3. Nhận thức về các giai đoạn, triệu chứng biểu hiện và các biện pháp phòng ngừa HIV/AIDS
3.1. Nhận thức về sự khác nhau giữa HIV và AIDS
Hầu hết các em học sinh PTTH đều được nghe nói về HIV /AIDS nhưng không ít người trong số họ đã tỏ ra lúng túng trước một vấn đề tưởng chừng như đơn giản : đó là việc phân biệt sự khác nhau giữa HIV và AIDS. Nhằm tìm hiểu nhận thức của học sinh về vấn đề này chúng tôi đưa ra câu hỏi :
Theo bạn HIV và AIDS có khác nhau hay không? Nếu có thì khác nhau như thế nào ?
Và đưa ra 3 phương án trả lời : có , không và không biết.
Kết quả thu được thể hiện trong bảng sau:
Bảng số 11: Nhận thức về sự khác nhau giữa HIV và AIDS
Phương án
Khối 10
Khối11
Khối12
Chung
N
%
N
%
N
%
N
%
1. Có
58
59,8
68
66,7
73
70,3
199
65,9
2. Không
20
20,6
22
21,6
17
16,8
59
19,5
3. Không biết
19
19,6
12
11,8
13
12,9
44
14,6
Biểu đồ 4: Nhận thức của học sinh về sự khác nhau giữa HIV và AIDS.
Có 199 học sinh chiếm 65,0% trả lời rằng HIV và AIDS là có khác nhau.
Có 59 học sinh chiếm 19,0% trả lời rằng HIV và AIDS là không khác nhau.
Có 44 học sinh chiếm 14,0% trả lời không biết giữa HIVvà AIDS có khác nhau hay không.
Nhiễm HIV và bệnh AIDS là khác nhau.Vi rut HIV sau khi đột nhập vào cơ thể sẽ tìm đến và xâm nhập vào các tế bào lim pho T CD4, nhân lên trong đó, phá huỷ tế bào, tự giải thoát vào máu. Do đó cơ thể giảm dần sức miễn dịch. Ở giai đoạn này chỉ thử máu mới biết chứ về lâm sàng không thấy hoặc chỉ rất ít biểu hiện, ta gọi đó là nhiễm HIV. Có một số trường hợp nhiễm HIV mà không tiến triển thành AIDS. Nhưng thông thường qua một thời gian thường là 5 đến 10 năm sau hệ thống miễn dịch của cơ thể bị suy giảm nặng, các nhiễm trùng, nhiễm nấm đủ loại tha hồ hoành hành gây lên những biểu hiện bệnh lý ở nhiều bộ phận khác nhau kể cả những bệnh ác tính, các loại ung thư xuất hiện đe doạ cuộc sống người bệnh. Đó bệnh AIDS hay hội chứng AIDS toàn phát thường gây tử vong trong vòng hai năm. Như vậy AIDS là giai đoạn cuối của nhiễm HIV với những biểu hiện lâm sàng của các loại nhiễm trùng thừa cơ xuất hiện nhân cơ thể suy giảm miễn dịch do bị nhiễm HIV. Tuy nhiên, những người ở giai đoạn nhiễm HIV, mặc dầu về lâm sàng chưa có biểu hiện gì, vẫn là nguồn lây truyền cho người khác.
Như vậy, với kết quả thu được có 64,0% số học sinh trả lời AIDS là khác nhau. Đó là những học sinh có nhận thức đúng về vấn đề này. Ngày nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng thường nói đến rất nhiều vấn đề HIV/AIDS. Vì vậy mỗi học sinh PTTH nói riêng và học sinh, sinh viên cả nước nói chung đều được trang bị những kiến thức khá cơ bản về HIV/AIDS .
Tuy nhiên, vẫn còn có 19,0% học sinh cho rằng : giữa HIV và bệnh AIDS không có sự khác biệt. Theo các học sinh này HIV và AIDS giống nhau vì đều là căn bệnh nguy hiểm đều dẫn đến tử vong và khả năng lây truyền bệnh là rất lớn. Đây là quan điểm sai lầm vì HIV là tên vi rut còn AIDS là giai đoạn cuối của bệnh nhân mang vi rut HIV. Sự hiểu biết không chính xác này có thể là do tên viết tắt của HIV/AIDS luôn có sự đi kèm không tách biệt nên học sinh dễ dàng đánh đồng lẫn lộn. Mặt khác, đây là thuật ngữ chuyên ngành bằng tiếng Anh đựơc viết tắt nên rất khó hiểu, chỉ có những người đọc nhiều có chuyên môn mới hiểu rõ được.
Hiện nay, y học còn đang bó tay trước căn bệnh thế kỷ này, song hiểu đúng về HIV và AIDS sẽ giúp cho các em có những hành vi đúng đắn đối với người nhiễm HIV. Bởi nhiễm HIV thì phải sau 2 đến 10 năm mới phát bệnh AIDS. Nếu trong thời gian nhiễm vi rut người bệnh sống lạc quan, vui vẻ, biết giữ gìn không bị lây các bệnh truyền nhiễm khác và tránh lây bệnh cho người khác thì sẽ kéo dài thời gian sống và không hại cho cộng đồng.
Với con số 64,0% học sinh của trường phân biệt được đúng giữa HIV và AIDS là có sự khác nhau. Tuy nhiên, để đánh giá sự nhận thức đúng ấy đạt ở mức độ nào, sâu sắc hay không sâu sắc chúng tôi đưa ra câu hỏi mở nhằm khẳng định lại sự nhận thức của học sinh :
Nếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH (58).doc