Đề tài Nhập cư tại Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp

Những quy định của Nhà nước đưa ra vẫn chưa sát thực tế : Nghị định quy định trước khi tuyển dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp phải thực hiện đăng báo tuyển dụng. Quy định này chỉ mang tính hình thức và không chứng minh được việc tuyển người nước ngoài là do không có lao động VN thay thế theo quy định của luật pháp VN; Quy định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh nghiệp.; Đối với người lao động vào VN chào bán dịch vụ cũng chưa có quy định cụ thể là trong bao lâu, gây khó khăn cho việc quản lý ,kiểm tra, giám sát; Rắc rối nhất là quy định về cấp giấy phép lao động đối chức danh trưởng văn phòng đại diện tổng giám đốc là người nước ngoài. Nhiều người nước ngoài trước đây thực hiện hợp đồng lao động, sau quá trình làm việc được bổ nhiệm lên chức trưởng văn phòng đại diện.Ở thời điểm bổ nhiệm người này được miễn cấp giấy phép lao động, nhưng khi nghị định 34/CP có hiệu lực, họ phải xin giấy phép lao động và một trong những loại giấy tờ phải có khi xin phép là thư bổ nhiệm với nội dung ghi rõ “phải có thời gian công tác tại công ty mẹ trên 12 tháng”

docx18 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 12707 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhập cư tại Thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỗ. Những cuộc điều tra về di dân và việc làm trong khu vực không chính thức do Viện Kinh tế TP.HCM thực hiện đều có thể chứng minh điều đó. Vài con số dẫn từ các cuộc điều tra trong cho thấy có đến 44,4% lao động hoạt động phương tiện 2-3 bánh công cộng, 43% người hoạt động trên vỉa hè và 55% người buôn bán lưu động là người nhập cư. Điều này cho thấy đây là loại ngành nghề có yêu cầu về tay nghề và vốn thấp, dễ kiếm tiền nên dễ thu hút lao động nhập cư. Tỷ lệ ngoại hối của đồng VN so với các đồng tiền khác trên thế giới như đồng dollar, euro, hay bảng Anh… có khoảng cách khá xa, do đó, khi sống ở Việt Nam, với 1 mức lương như nhau hay có thể thấp hơn 1 ít so với các quốc gia phát triển trên thế giới, Việt Nam sẽ thu hút người nhập cư từ ngước ngoài vào hơn do giá cả khá thấp, môi trường sống khá tốt, mức thuế thu nhập không quá cao. Chỉ với 500 đô la, ở các quốc gia phát triển, họ chỉ có thể ở những căn nhà nhỏ tạm bợ, nhưng khi đến Việt Nam, họ có thể ăn uống, hưởng thụ cuộc sống xa hoa, thoải mái, Do đó, họ dễ dàng chấp nhận bỏ cuộc sống hiện đại ở những quốc gia phát triển để ở lại VN sống cuộc sống dư dả về vật chất lẫn tinh thần. Phân loại nhập cư. Phân loại theo mục đích nhập cư : Nhập cư để học tập, nhập cư để làm việc và nhập cư với mục đích khác. Phân loại theo khu vực : Nhập cư từ các địa phương trong nước và nhập cư từ nước ngoài vào Việt Nam Chương 2 : Thực trạng nhập cư vào Tp.HCM hiện nay 2.1. Quy mô và cơ cấu dân nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Dân số HCM ngày càng tăng, quy mô dân số lớn, nhất là dân nhập cư tạo sức ép không nhỏ cho thành phố. Theo số liệu thống kê gần đây, tổng dân số của Tp. HCM tính đến ngày 1/4/ 2009 là 7.123.340 người, tăng 2.086.185 người, tăng 41,4% so thời điểm này năm 1999.Trong 10 năm, tốc độ tăng dân số bình quân của TP là 3,5%/năm. Bảng 1 : Dân số Tp.HCM năm 1979 - 2009 Mức tăng dân số TP trong thời kỳ 1999 - 2009 bằng 2 lần mức tăng dân số thời kỳ 1989 - 1999 và bằng 3,7 lần mức tăng dân số thời kỳ 1979 - 1989. Bình quân một năm TPHCM tăng 208.000 người, gần bằng dân số của 1 quận trung bình tại TPHCM( bảng 2 ) Bảng 2 : Tỷ lệ tăng dân số Tp.HCM qua các giai đoạn 1979 - 1989 1989 - 1999 1999 – 2009 Tỷ lệ tăng dân số chung ( % ) 1.63 2.36 3.5 Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 1.61 1.52 1.27 Tỷ lệ tăng cơ học (%) 0.02 0.84 2.23 Nếu như thời kỳ 1979 - 1989 và 1989 - 1999 dân số tăng chủ yếu do yếu tố tăng tự nhiên (tỷ lệ tăng của 2 thời kỳ này lần lượt là 1,61% và 1,52%) thì giai đoạn 1999 - 2009 dân số Tp.HCM tăng chủ yếu do tăng cơ học, tỷ lệ di cư thuần bằng 2/3 tỷ lệ dân số hàng năm của Tp. Bảng 3 : Số lượng dân nhập cư từ các tỉnh vào Tp HCM năm 2009 Các tỉnh Số người Các tỉnh Số người Các tỉnh Số người Các tỉnh Số người Hà Nội 9458 Thái Bình 6515 Bình Phước 5569 Phú Thọ 2142 Hà Giang 94 Hà Nam 3479 Tây Ninh 10600 Vĩnh Phúc 3079 Cao Bằng 156 Nam Định 9566 Bình Dương 7055 Bắc Ninh 4353 Bắc Cạn 211 Ninh Bình 4005 Đồng Nai 22383 Hải Dương 3591 Tuyên Quang 493 Thanh Hóa 4062 Bà Rịa – Vũng Tàu 9823 Hải Phòng 2456 Lào Cai 26 Nghệ An 15062 Long An 21130 Hưng Yên 2293 Điện Biên 162 Hà Tĩnh 8064 Tiền Giang 28379 Khánh Hòa 7362 Lai Châu 39 Quảng Bình 4299 Bến Tre 25422 Ninh Thuận 5695 Sơn La 360 Quảng Trị 4328 Trà Vinh 16830 Bình Thuận 10679 Yên Bái 479 Thừa Thiên Huế 10558 Vĩnh Long 16804 KonTum 1048 Hòa Bình 777 Đà Nẵng 4247 Đồng Tháp 17524 Gia Lai 4302 Thái Nguyên 1547 Quảng Nam 11859 An Giang 14938 Đắk Lắk 8875 Lạng Sơn 470 Quảng Ngãi 17830 Kiên Giang 10190 Sóc Trăng 13130 Quảng Ninh 825 Bình Định 18221 Cần Thơ 10444 Bạc Liêu 7540 Bắc Giang 3404 Phú Yên 5923 Hậu Giang 4869 Cà Mau 10129 Đắk Nông 1201 Lâm Đồng 10335 Tổng 483689 Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng: số lượng người nhập cư vào thành phố HCM đến từ khắp các tỉnh thành trong cả nước, trong đó nhiều nhất là các tỉnh từ Thừa Thiên Huế - Bình Định và đặc biệt là các tỉnh khu vực phía Nam xung quanh thành phố chiếm số lượng lớn như: Tiền Giang (28379 dân nhập cư), Bến Tre (25422 dân nhập cư)…. 2.2. Những mặt tích cực và tiêu cực từ quá trình nhập cư. 2.2.1. Tích cực. Như đã nói ở trên di dân chính là điều tất yếu của quá trình phát triển đô thị hóa.Quá trình di dân - nhập cư vào thành phố với tốc độ tăng trưởng nhanh không phải hoàn toàn là tiêu cực. Thành phố Hồ Chí Minh thừa nhận dân nhập cư đã đóng góp cho TP khoảng 30% GDP mỗi năm. Điều này cho thấy họ cũng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Quá trình di cư có thể góp phần giảm nghèo thông qua vòng tuần hoàn chu chuyển giữa thành thị và nông thôn, giữa nơi đi và nơi đến. Di cư đã trở thành chiến lược của nhiều hộ gia đình vì nó giúp họ thoát nghèo hoặc không bị lún sâu vào đói nghèo. Mặt khác, di cư cũng làm gia tăng nhu cầu địa phương về dịch vụ, hàng hóa, tạo việc làm và thu nhập cho người không di cư. Tuy chưa có thống kê chính xác bao nhiêu gia đình ở nông thôn có nhà xây kiên cố và vật dụng đắt tiền được tạo ra từ những đồng tiền của di dân lao động đến TP.HCM, song có một thực tế là dân nhập cư đóng góp rất đặc biệt vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nông thônà Đây cũng là giải pháp góp phần vào chính sách xóa đói, giảm nghèo của cả nước. Cung cấp nguồn lao động cho thành phố phát triển kinh tế. Góp phần hình thành thị trường lao động phù hợp đối với một số ngành nghề đặc thù. Hàng năm, Tp.HCM đón nhận 1 lượng lớn người nhập cư, ngoài đi học, hầu như người nhập cư đến Tp với mục đích là kiếm thêm thu nhập nuôi sống mình và gia đình. Họ là nguồn cung cấp lực lượng lao động rất lớn cho thành phố.Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ cao, thì một trong những chiến lược hàng đầu mà thành phố phải theo đuổi là huy động nguồn nhân lực chất lượng cao thuộc các lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, có khả năng khai thác hiệu quả các tài nguyên cũng như các ưu điểm do công nghệ thông tin đem lại. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở nguồn nhân lực nội tại vốn có thì thành phố sẽ tự đánh mất cơ hội mở rộng phạm vi lựa chọn của mình.Chính vì vậy nhập cư vào thành phố cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cho các ngành kinh tế - xã hội Góp phần thúc đẩy sự trao đổi về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa vùng đô thị (nơi đến) và nông thôn (nơi đi); góp phần thúc đẩy việc hình thành các khu đô thị mới…Quá trình di dân –nhập cư tới nơi ở mới không chỉ đơn thuần là việc họ di chuyển người mà họ còn mang theo cả phong tục,nếp sống,văn hóa nơi họ đi.Chính vì vậy nhập cư tạo ra sự đa dạng về văn hóa trong quá trình hình thành đô thị. 2.2.2. Tiêu cực. Hiện với dân số khoảng 8 triệu người, chẳng bao lâu nữa TP.HCM sẽ trở thành một siêu đô thị (với số dân từ 10 triệu dân trở lên) kéo theo đó là hàng loạt vấn đề nảy sinh sống tập trung quá đông trên một diện tích không lớn chủ yếu trong khu vực nội thành. Các vấn đề đó nếu không được can thiệp và giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân như: ô nhiễm môi trường, thiếu chỗ ở, thất nghiệp, lối sống, văn hóa… Thứ nhất, là việc gia tăng sức ép việc làm cho thành phố. Khi nhập cư vào thành phố ai cũng mong kiếm cho mình được một công việc phù hợp với mức lương thỏa đáng để ổn định cuộc sống nhưng không phải dễ dàng gì ai cũng có đựợc công việc. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở TP.HCM thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào thành phố, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại thành phố ngày càng tăng. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt kinh tế xã hội cho thành phố. Thứ hai, đó là tình trạng nhập cư có nguy cơ gây ra cho thành phố là tình trạng gây mất trật tự công cộng, tác động xấu đến khung cảnh sống tại các đô thị( từ sự hình thành tự phát của các khu ổ chuột, nơi nương thân của những người lao động nhập cư nghèo và gia tăng sức ép cho các cấp chính quyền. Các cuộc khảo sát cho thấy, những người di cư tới thành phố có những hạn chế nhất định về chuyên môn, tay nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ các loại công việc. Cuộc sống tạm bợ qua ngày của những người lang thang và di dân do hình thành nên các tụ điểm chợ lao động gây mất trật tự công cộng và mỹ quan thành phố. Sau khi làm việc căng thẳng và mệt nhọc người lao động thường tập trung qua đêm hoặc ở trọ tại các xóm lao động và nhà trọ bình dân rẻ tiền, điều kiện nghỉ ngơi và sinh sống trong các khu vực này không được đảm bảo. Do tính chất công việc, hàng ngày họ phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội, họ dễ dàng tiếp thu cả cái tốt và cái xấu. Vì vậy, ở họ rất dễ mắc các tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng cho vấn đề an ninh trật tự và khó khăn cho các nhà quản lý. Thứ ba, đó là việc quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở: mặc dù thành phố đã được Nhà nước đầu tư về cơ sở hạ tầng, về điều kiện nhà ở nhưng vẫn thiếu và không đồng bộ. Thực tế quỹ nhà ở, công trình công cộng mới xây dựng mặc dù nhanh nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu đô thị hóa: trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thoát nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi trường đô thị. Các vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn khi mà càng ngày càng có nhiều người nhập cư vào thành phố. 2.3. Quản lý của nhà nước đối với vấn đề nhập cư. Dòng người nhập cư vào Tp.HCM ngày càng nhiều, số lượng nhập cư gia tăng rất nhanh các năm, làm ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực như đã nói ở trên. Do đó, Chính phủ cần phải có sự quản lý phù hợp để điều chỉnh dòng nhập cư góp phần vào sự phát triển của thành phố. Quản lý nhập cư theo phương pháp hành chính. Để quản lý lao động nhập cư hiện nay, chính quyền thành phố sử dụng phương pháp hành chính là chủ yếu. Phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội là cách thức tác động trực tiếp bằng các quyết định mang tính chất bắt buộc của nhà nước đối với đối tượng quản lý nhằm mục tiêu đã đề ra. Phương pháp hành chính được xây dựng trên cơ sở sử dụng quyền lực của nhà nước nhằm duy trì tính trật tự, tính ổn định của các quá trình kinh tế - xã hội. Quản lý hành chính đối với dân cư và lao động di chuyển vào TPHCM nói riêng, ở các tỉnh thành khác trong cả nước nói chung được thực hiện thông qua hệ thống đăng ký hộ khẩu. Hệ thống đăng ký hộ khẩu đã có từ lâu ở Việt Nam, được chia thành 4 loại chính: KT1, KT2, KT3, KT4. Khác với người dân có hộ khẩu thường trú (KT1, KT2), người nhập cư được phân loại theo hai diện KT3 và KT4. Trường hợp đến thành phố từ một năm trở lên và có ý định cư trú dài hạn, có nhà ở hợp pháp (hoặc nhà thuê do chủ nhà hợp pháp bảo lãnh) sẽ được đăng ký KT3 và hàng năm cần phải đăng ký tạm trú lại. Nhân khẩu KT3 không phải trở về quê lấy giấy tạm vắng hàng năm, chỉ cần lấy giấy tạm vắng một lần đầu tiên. Còn diện KT4 là những người tạm trú với thời gian từ 6 tháng trở lên, phải ở nhà thuê hay nhà trọ, hiện có việc làm ở thành phố, nhóm này phải đăng ký lại 6 tháng/lần. Đa số nhân khẩu KT4 là công nhân khu công nghiệp và lao động ngoại tỉnh, thường tập trung ở các nhà trọ, nhà tạm. Theo quy định cũ, để được nhập hộ khẩu (HK) vào TP.HCM thì thời gian tạm trú phải năm năm, có việc làm lâu dài trong các doanh nghiệp và phải có xác nhận về việc này, đồng thời phải có nhà ở hợp pháp (phải đứng tên chủ sở hữu nhà). Trong khi đó, Luật Cư trú Ra đời và có hiệu lực từ ngày 1-7-2007 mở ra điều kiện thoáng hơn cho người dân về đăng ký hộ khẩu vào các đô thị lớn. Họ chỉ yêu cầu thời gian tạm trú là một năm, bỏ yêu cầu về điều kiện công việc. Riêng chỗ ở hợp pháp thì không bắt buộc phải đứng tên sở hữu nhà mà ở nhà thuê cũng được nếu chủ nhà đồng ý bảo lãnh. Qua hai năm rưỡi thực hiện, hàng trăm ngàn người đã được nhập hộ khẩu vào TP.HCM nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình. Tuy nhiên, luật cư trú chỉ áp dụng cho dòng nhập cư ở trong nước chứ không áp dụng cho những người nước ngoài nhập cư vào Việt Nam. Quản lý người nhập từ từ nước ngoài vào Việt Nam. Người nhập cư đến từ rất nhiều quốc gia trên thế giới từ nhiều nền văn hóa khác nhau đã làm cho TPHCM vốn sôi động ngày càng sôi động hơn. Thế nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó thì vẫn tồn tại những bất cập mà chính những chính sách quản lý lỏng lẻo, chế tài chưa đủ sức răn đe của chính quyền đã gây nên những sự việc đáng tiếc trong thời gian vừa qua như một số người da đen phạm tội, cướp giật, lừa đảo… Nghị định 34/CP của chính phủ quy định việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 12-04-2008(ngày 10-06-2008,Bộ LĐ-TB&XH đã có thông tư 08 hướng dẫn thực hiện). Tuy nhiên đến nay sau một năm thực hiện trong khi lao động nước ngoài vào VN ngày càng gia tăng thì công tác quản lý vẫn không theo kịp. Những quy định của Nhà nước đưa ra vẫn chưa sát thực tế : Nghị định quy định trước khi tuyển dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp phải thực hiện đăng báo tuyển dụng. Quy định này chỉ mang tính hình thức và không chứng minh được việc tuyển người nước ngoài là do không có lao động VN thay thế theo quy định của luật pháp VN; Quy định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh nghiệp...; Đối với người lao động vào VN chào bán dịch vụ cũng chưa có quy định cụ thể là trong bao lâu, gây khó khăn cho việc quản lý ,kiểm tra, giám sát; Rắc rối nhất là quy định về cấp giấy phép lao động đối chức danh trưởng văn phòng đại diện tổng giám đốc là người nước ngoài. Nhiều người nước ngoài trước đây thực hiện hợp đồng lao động, sau quá trình làm việc được bổ nhiệm lên chức trưởng văn phòng đại diện.Ở thời điểm bổ nhiệm người này được miễn cấp giấy phép lao động, nhưng khi nghị định 34/CP có hiệu lực, họ phải xin giấy phép lao động và một trong những loại giấy tờ phải có khi xin phép là thư bổ nhiệm với nội dung ghi rõ “phải có thời gian công tác tại công ty mẹ trên 12 tháng”… Tại TPHCM,với vai trò quản lý nhà nước,Sở LĐ-TB&XH TPHCM đã tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra tình hình sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn đồng thời áp dụng nhiều biện pháp như nhắc nhở,xử phạt hành chính. Tuy nhiên các biện pháp chế tài về kinh tế chưa đủ sức răn đe. Nhiều DN vi phạm sẵn sàng nộp phạt và tiếp tục duy trì quan hệ lao động với người nước ngoài trái pháp luật. Điều đáng nói là theo quy định tại Nghị định 34/CP,người nước ngoài sau 6 tháng làm việc tại VN mà không có GPLĐ thì Sở LĐ-TB&XH các tỉnh,thành đề nghị Bộ Công an ra quyết định trục xuất khỏi VN trước nay chưa có tiền lệ. Những bất cập của cơ chế cúng như quản lý lỏng lẻo chính là nguyên nhân của tình trạng LĐPT nước ngoài ào ạt vào VN không kiểm soát được. Chương 3 : Những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp 3.1. Dự báo về tính hình nhập cư và những vấn đề đặt ra. 3.1.1. Dự báo về tình hình nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Dựa vào số liệu về dân số tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua (phần 2.1), với tỷ lệ gia tăng cơ học ngày càng tăng ta có thấy trong tương lai thành phố sẽ còn gia tăng hơn nữa số lượng người dân nhập cư do nhiều mục đích khác nhau, không chỉ 2,23% mà sau 10 năm nữa, có thể tăng lên 3 – 4% nếu không có các biện pháp giải quyết. 3.1.2. Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết các vấn đề. Nhà ở cho người nhập cư : Con người bao giờ cũng cần “an cư mới lạc nghiệp”. Nhưng ở đô thị còn có khoảng cách rất xa giữa cung và cầu về nhà ở, nhất là ở các đô thị như Tp.HCM. Với mật độ dân số khoảng 4000 người/km2 cùng với hàng trăm ngàn người dân nhập cư vào thành phố hàng năm thì vấn nạn thiếu nhà ở làm cho giá nhà ở tăng lên quá cao so với thu nhập của phần đông người nhập cư nhận được xô đẩy họ sống ở những căn nhà tồi tàn, tạm bợ, tự phát lại, gây ảnh hưởng đến sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hướng giải quyết : - Cho người có thu nhập thấp ( nhất là người nhập cư ) mua nhà xã hội với chi phí thấp. - Xây dựng các chung cư cho thuê nhà và bán trả góp. - Điều tiết sự gia tăng dân số đô thị phù hợp với nhịp độ và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Tp.HCM Giao thông đô thị : Giao thông đô thị đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của một đô thị không chỉ trong hiện tại mà còn cả trong tương lai. Thế mà, nhập cư ngày càng nhiều, nạn kẹt xe trở nên nghiêm trọng hơn làm cho chi phí xã hội tăng lên, ảnh hưởng đến các hoạt động của người dân trong đô thị. Mặt khác, sự gia tăng phương tiện giao thông đi kèm với cơ sở hạ tầng quá cũ kĩ, lạc hậu không chỉ gây ô nhiễm môi trường nặng nè như gây tiếng ồn, xả khói bụi, mà còn gây nhiều tai nạn khác ( tai nạn đè chết người, thương tật..). Hướng giải quyết : - Xây dựng hệ thống đường giao thông hiện đại, tránh đường giao thông chính chạy vào trung tâm thành phố. - Xây dựng cầu vượt tại những điểm kẹt xe trọng điểm. - Tăng cường các tuyến xe buýt nhằm giảm bớt phương tiện cá nhân, tránh tai nạn giao thông, giảm ô nhiễm môi trường. - Bố trí các khu cư trú gần với nơi làm việc để giảm thời gian và phương tiện đi lại trên đường phố. Cung cấp điện và cấp thoát nước : Hệ thống đường dẫn điện, nước còn nhỏ bé và quá cũ kĩ, không đảm bảo được truyền tải điện và cấp thoát nước. Thêm vào đó, dân nhập cư là một trong những nguyên nhân lớn gây gia tăng dân số ở Tp.HCM, dẫn đến tình trạng thiếu điện nước trầm trọng. Hướng giải quyết : Quy hoạch, tăng cường vốn đầu tư cải tạo và xây dựng mới các hệ thống đường truyền tải điện và cấp thoát nước. Ô nhiễm môi trường đô thị : Vấn đề nhập cư làm gia tăng dân số, cùng với sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ làm gia tăng rác thải dân dụng và công nghiệp, tăng các chất gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân trong đô thị. Hướng giải quyết : Quy hoạch khu cư trú, mạng lưới đường giao thông và các phương tiện vận tải để giảm mức độ gây ô nhiễm cho môi trường. Tiến hành vận chuyển và xử lý rác thải triệt để. Các vấn đề xã hội : Dân nhập cư vào Tp.HCM hiện nay phần lớn là những người lao động giản đơn, dân trí chưa cao làm cho vấn đề xã hội như trộm cắp, cướp giật, bắt cóc con tin, sử dụng và tàng trữ ma túy, mại dâm ngày càng phức tạp và gây khó khăn cho các nhà quản lý. Hướng giải quyết : - Quản lý chặt chẽ số người nhập cư trên từng phường, xã . - Thường xuyên triển khai tuyên truyền để hạn chế tệ nạn xã hội. 3.2. Các kiến nghị của nhóm : Để kiểm soát, điều tiết di dân trên cơ sở tôn trọng quyền tự do đi lại, cư trú của công dân một cách có hiệu quả là một vấn đề nan giải, không đơn giản,và nhà chức trách dùng các công cụ kinh tế, xã hội là chính. Chẳng hạn, để người lao động trẻ gốc nông thôn vui vẻ, tự nguyện ở lại quê nhà lập thân, lập nghiệp, thì phải đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng ở nông thôn, đẩy mạnh khuyến nông, phát triển hệ thống bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm xã hội cho nông dân,… Thêm vào đó, nhóm chúng tôi đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với vấn đề nhập cư vào thành phố HCM: Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với lao động di chuyển vào TPHCM, trước hết cần thống nhất một số quan điểm cơ bản như: (1) Coi lao động nhập cư là động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần phân bố lại dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - lao động, nâng cao mức sống. (2) Nâng cao vai trò và trách nhiệm của chính quyền thành phố trong việc lập quy hoạch xây dựng thành phố trong dài hạn, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố theo lộ trình trong đó có tính toán quy mô, cơ cấu dân số và lao động phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Một số kiến nghị đối với cơ quan chức năng của nhà nước : Một là, nâng cấp hệ thống thông tin phục vụ cho việc hoạch định chính sách quản lý và điều tiết lao động nhập cư vào TPHCM: Thông tin trong quản lý nhà nước là công cụ để nắm bắt những tín hiệu mới, để nhà nước thu nhận, xử lý, sử dụng có hiệu quả từ đó đề ra những quyết định quản lý kinh tế đáp ứng sự phát triển của đất nước trong những thời kỳ, giai đoạn nhất định. Để hoạch định chính sách đối với lao động và thực hiện việc quản lý lao động di chuyển vào TPHCM, chính quyền thành phố cần có thông tin đầy đủ, cập nhật về số lượng và cơ cấu của lao động nhập cư. Hai là, lập và thực hiện quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ trong từng giai đoạn phát triển để điều tiết dòng lao động nhập cư. Trên cơ sở các định hướng phát triển vùng thành phố, Hồ Chí Minh cần có quy hoạch cụ thể hơn bao gồm: Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch các ngành, các cấp (từ thành phố đến quận, huyện) quy hoạch xây dựng (quy hoạch chung và chi tiết). Các quy hoạch phải được thực hiện nghiêm túc: Về mặt pháp luật, quy hoạch đô thị của TPHCM được thực hiện thông qua các quy định của nhà nước đối với các hoạt động xây dựng và các hoạt động khác của mọi chủ thể có liên quan đến việc sử dụng không gian, kết cấu hạ tầng đô thị và tài nguyên khác (đất đai, khoáng sản, nguồn nước, du lịch, văn hóa...) đã được xác định. Để phát triển đô thị bền vững cần thực hiện quy hoạch một cách đồng bộ, rà soát, điều chỉnh và thực hiện tốt việc lập và thực thi quy hoạch. Một trong số những “lực hút” quan trọng kéo lao động di chuyển về TPHCM là sự sôi động của thị trường lao động với nhiều cơ hội việc làm, mức thu nhập cao hơn ở các khu vực khác. Vì vậy, để kéo dãn dòng lao động di chuyển vào trung tâm thành phố, việc xây dựng các đô thị vệ tinh xung quanh TP, phát triển các khu công nghiệp ra vùng ngoại vi theo quy hoạch, kế hoạch cần đặc biệt chú trọng và đẩy nhanh tiến độ. Ba là, tăng cường điều tiết và quản lý lao động di chuyển vào TP bằng các phương pháp kinh tế, phù hợp với cơ chế thị trường và quy luật phát triển thành phố: Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua các lợi ích kinh tế nhằm tạo ra các tình huống để đối tượng quản lý lựa chọn phương án hành động có hiệu quả nhất. Phương pháp kinh tế tạo ra sự quan tâm vật chất thiết thực của đối tượng được quản lý. Nếu như phương pháp hành chính tác động trực tiếp mang tính chất bắt buộc thì phương pháp kinh tế tác động gián tiếp và không mang tính bắt buộc. Sử dụng phương pháp kinh tế sẽ góp phần phát huy tính chủ động, sáng tạo cho người thực hiện. Sử dụng các đòn bẩy kinh tế (thuế, lãi suất, tiền lương, thu nhập, tiền thưởng…), các biện pháp kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân, các doanh nghiệp phát triển theo hướng đảm bảo hài hòa lợi ích chung với lợi ích riêng; Sử dụng chính sách ưu đãi kinh tế để điều chỉnh hoạt động kinh tế trong cả nước và thu hút được tiềm năng, nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. TPHCM cần chú ý hạn chế tiếp nhận các dự án đầu tư cần nhiều lao động phổ thông ở đô thị nhằm tạo ra hàng rào kỹ thuật và công nghệ để gián tiếp hạn chế di cư lao động phổ thông vào thành phố. Vùng đô thị hạt nhân trung tâm cần khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao, công nghệ tiên tiến không gây ô nhiễm, sử dụng ít đất, sử dụng lao động có lựa chọn và gắn với các trung tâm nghiên cứu. Bốn là, hoàn thiện bộ máy quản lý đô thị, nâng cao hiệu quả quản lý lao động nói chung và quản lý lao động nhập cư nói riêng ở TP: Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ bộ máy quản lý trong nền kinh tế thị trường. Tổ chức tốt bộ máy, đổi mới cơ cấu bộ máy chính quyền đô thị là một biện pháp quan trọng để quản lý đô thị. Chức năng bộ máy quản lý đô thị hiện nay phải tạo ra một hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân hoạt động theo pháp luật. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ chính trị cũng như các kế hoạch kinh tế xã hội, bộ máy quản lý đô thị cần có đủ quyền và lực, nghĩa là Nhà nước giao quyền, phân bố hợp lý các nguồn tài chính, còn chính quyền đô thị phải đủ mạnh để nắm quyền và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính để thực hiện các chức năng của mình và thực hiện chiến lược phát triển của đô thị. Nâng cao hiệu quả quản lý lao động nhập cư vào TPHCM không chỉ là nhiệm vụ của cơ quan công an, quản lý hộ khẩu mà còn cần thiết phải có một bộ phận chuyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxNhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp.docx
Tài liệu liên quan