MỤC LỤC
Lời mở đầu .3
Phần 1: Tổng quan về Incoterm 2000 . .4
1-Các khái niệm và giải thích thuật ngữ . 4
1.1-Khái niệm về hợp đồng mua bán quốc tế, kim ngạch xuất nhập khẩu .4
1.2-Khái niệm về Incoterms . 4
2-Nội dung của Incoterms . 5
Phần 2: Tình hình xuất nhập khẩu và cân đối cán cân thương mại ở Việt Nam hiện nay . .10
1. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU NĂM 2009
1.1. Đánh giá chung .11
1.2 .Số liệu thống kê xuất nhập khẩu năm 2000 .12
2. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG NĂM 2010
2.1 Đánh giá chung.18
2.2. Xuất khẩu . .18
2.3.Nhập Khẩu.18
3. Tác động của việc xuất FOB và nhập CIF đến nền kinh tế đất nước nói chung và tình trạng nhập siêu nói riêng.
3.1 Tác động đến thị phần kinh doanh bảo hiểm trong nước: . 21
3.2. Xuất khẩu giá CIF, nhập khẩu giá FOB: góp phần giảm nhập siêu.21
Phần 3: Nguyên nhân xuất khẩu FOB, nhập khẩu CIF ở Việt Nam: .27
Phần 4: Giải pháp . 31
Phần kết luận . .32
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2747 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhập khẩu FOB, xuất khẩu CIF - Lời giải cho bài toán nhập siêu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu, tình hình không có biến động lớn.Trong 25 mặt hàng xuất khẩu được liệt kê, so với thực hiện năm 2008, chỉ có dầu thô giảm về lượng (âm 2,4%) do đã dành hơn 2 triệu tấn cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Các mặt hàng còn lại đều tăng. Tuy nhiên, do giá giảm mạnh nên kim ngạch đa số các mặt hàng đều giảm so với năm 2008 (chỉ có 8 mặt hàng tăng).
Tương tự, trong 27 mặt hàng nhập khẩu, đa số tăng về lượng (chỉ có 3 mặt hàng giảm), nhưng số mặt hàng tăng về giá trị cũng không nhiều (9 mặt hàng). Như vậy, kết quả xuất nhập khẩu năm 2009 đã khép lại với xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu không theo đúng kịch bản kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, mức giảm nhập siêu so với năm 2008 ít nhiều đã tạo thuận lợi cho việc ổn định kinh tế vĩ mô trong năm khó khăn này.
1.2 Số liệu thống kê xuất nhập khẩu năm 2009
(Nguồn TCHQ - Cục CNTT & Thống kê Hải Quan )
ĐV tính
Thực hiện 2009
Số lượng
trị giá
I. Tổng trị giá xuất khẩu
USD
57.096.274.461
DN có vốn đầu tư n/ngoài
"
24.177.688.976
Mặt hàng XK chủ yếu
Thủy sản
USD
4.251.313.256
Rau quả
"
438.868.759
Nhân điều
T
177.154
846.682.672
Cà phê
"
1.183.523
1.730.602.417
Chè các loại
"
134.115
179.494.456
Hạt tiêu
"
134.261
348.148.940
Gạo
"
5.958.300
2.663.876.861
Sắn và các sản phẩm từ sắn
"
3.301.915
573.816.371
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
USD
276.236.472
Than đá
T
24.991.924
1.316.560.088
Dầu thô
"
13.372.877
6.194.595.019
Xăng dầu các loại
"
1.923.894
1.005.194.221
Quặng và khoáng sản khác
"
2.151.033
134.957.920
Hoá chất
USD
89.711.391
Sản phẩm hoá chất
"
273.948.849
Chất dẻo nguyên liệu
T
130.523
160.245.122
Sản phẩm chất dẻo
"
807.929.233
Cao su
T
731.393
1.226.857.439
Sản phẩm từ cao su
USD
175.335.087
Túi xách, va li, mũ, ô dù
"
721730.702.261
Mây, tre, cói & thảm
"
178.712.078
Sản phẩm gỗ
"
2.597.649.222
Giấy và sản phẩm từ giấy
"
275.657.021
Hàng dệt và may mặc
"
9.065.620.437
Giày dép các loại
"
4.066.760.529
Gốm, sứ
"
266.912.031
Thủy tinh và các SP bằng thủy tinh
"
275.390.265
Đá quí và kim loại quí và sản phẩm
"
2.731.556.311
Sắt thép các loại
T
486.890
382.884.359
Sản phẩm từ sắt thép
"
603.890.555
Hàng đ/tử & LK m/tính
USD
2.763.018.885
Máy móc, TB, dụng cụ, PT khác
"
2.059.304.721
Dây điện và cáp điện
"
885.061.787
Phương tiện vận tải và phụ tùng
"
953.979.925
- Tàu thuyền các loại
Chiếc
274.646.046
- Phụ tùng ôtô
USD
525.880.428
Hàng hoá xuất khẩu khác
USD
6.564.799.501
II. Tổng trị giá nhập khẩu
USD
69.948.809.956
DN có vốn đầu tư n/ngoài
"
26.066.684.433
Mặt hàng NK chủ yếu
Hàng thủy sản
USD
282.479.174
Sữa và sản phẩm từ sữa
"
515.772.520
Hàng rau quả
"
279.059.988
Lúa mỳ
T
1.184.187
354.268.280
Dầu mỡ động, thực vật
"
495.578.716
Bánh kẹo và SP từ ngũ cốc
"
115.507.020
Thức ăn chăn nuôi
"
1.765.454.986
Nguyên, phụ liệu thuốc lá
"
321.573.660
Clanhke
T
3.554.422
133.334.472
Xăng dầu
"
12.205.744
6.255.487.646
-Xăng
“
3.636.103
1.969.438.485
-Diesel
“
6.503.092
3.254.815.728
-Mazut
“
1.854.259
626.452.133
-Nhiên liệu bay
“
655.822
378.505.699
-Dầu hoả
“
56.468
26.275.601
Khí đốt hoá lỏng
USD
775.159
437.492.917
Sản phẩm khác từ dầu mỏ
"
547.502.058
Hoá chất
"
1.624.704.373
Sản phẩm hóa chất
"
1.579.949.915
Nguyên liệu dược phẩm
USD
168.677.408
Dược phẩm
"
1.096.713.895
Phân bón
T
4.518.932
1.414.919.994
Urea
"
1.425.565
416.781.854
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu
"
488.494.550
Chất dẻo nguyên liệu
"
2.192.902
2.813.160.518
Sản phẩm từ chất dẻo
USD
1.093.672.916
Cao su các loại
T
313.325
409.536.818
Sản phẩm từ cao su
USD
260.505.063
Gỗ và sản phẩm
"
904.799.043
Giấy các loại
T
1.032.477
770.606.841
Sản phẩm từ giấy
USD
324.286.530
Bông
T
303.093
392.271.322
Xơ, sợi các loại
"
503.069
810.781.975
Vải
USD
4.226.363.714
NPL dệt, may, da giày
"
1.931.906.767
Đá quý, kim loại quý và SP
"
492.103.395
Thép các loại
T
9.748.715
5.360.906.858
Phôi thép
"
2.417.094
1.032.404.747
Sản phẩm từ thép
USD
1.362.447.878
Kim loại thường khác
T
550.172
1.624.965.230
Sản phẩm từ kim loại thường khác
USD
209.189.853
Điện tử, máy tính và l.kiện
"
3.953.966.370
Máy, TB, dụng cụ , phụ tùng
"
12.673.170.499
Dây điện và dây cáp điện
"
399.701.903
Ô tô nguyên chiếc
Chiếc
80.596
1.268.628.883
Linh kiện, phụ tùng ô tô
USD
1.802.239.244
Linh kiên và PT xe gắn máy
USD
621.303.545
Xe máy nguyên chiếc
chiếc
111.466
132.806.048
Phương tiện vận tải khác & PT
USD
616.166.829
Hàng hoá nhập khẩu khác
USD
7.625.350.342
2. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU THÁNG 7 VÀ 7 THÁNG NĂM 2010
Số liệu Thống kê Hải quan - 18/08/2010 11:00 AM
2.1 Đánh giá chung
Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam trong tháng 7/2010 đạt 13,04 tỷ USD, giảm 2,5% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước đạt gần 84,3 tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ năm 2009 (tương đương tăng 15,31 tỷ USD về số tuyệt đối). Trong đó xuất khẩu là 38,52 tỷ USD, tăng 18,3% và nhập khẩu là 45,78 tỷ USD, tăng 25,7%.
Ghi chú: tốc độ tăng xuất khẩu, tốc độ tăng nhập khẩu so với cùng tháng của năm 2009
Thâm hụt thương mại trong tháng 7/2010 là 978 triệu USD, tăng 31,9% so với tháng trước, nâng tổng mức nhập siêu của cả nước trong 7 tháng qua lên 7,25 tỷ USD và bằng 18,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
2.2. Xuất khẩu
2.2.1. Quy mô và tốc độ
Trị giá xuất khẩu trong tháng đạt 6,03 tỷ USD, giảm 4,6% so với tháng trước, trong đó khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt gần 3 tỷ USD, tăng 5% so với tháng 6/2010.
Tính đến hết tháng 7/2010, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 38,52 tỷ USD, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 17,8 tỷ USD, tăng 41,2% so với cùng kỳ một năm trước đó.
2.2.2. Một số mặt hàng xuất khẩu chính
2.2.3Hàng dệt may: Tháng 7, xuất khẩu trong tháng đạt 1,08 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay, tăng 9,8% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7/2010, trị giá hàng dệt may xuất khẩu đạt 5,85 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 3,6 tỷ USD, tăng 21,1% và chiếm 61% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản tiếp tục là 3 đối tác lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam trong 7 tháng qua với kim ngạch và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2009 lần lượt là 3,3 tỷ USD và 20,2%; 986 triệu USD và 2,3%; 580 triệu USD và 13,3%. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 3 thị trường này đạt 4,87 tỷ USD, chiếm 83,3% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
2.2.4Gạo: Xuất khẩu gạo trong tháng đạt 853 nghìn tấn, tăng 57,6% với kim ngạch đạt hơn 359 triệu USD, tăng 54,1% so với tháng 6/2010. Lượng xuất khẩu gạo tăng cao đã làm kim ngạch tăng do yếu tố lượng là hơn 134 triệu USD, trong khi giá bình quân xuất khẩu gạo trong tháng 7 giảm 2,2% đã làm kim ngạch giảm do giá giảm là 8 triệu USD. Lượng gạo xuất khẩu trong tháng tăng mạnh sang các thị trường như Philippin, Băng la đét, Bờ Biển Ngà, Cuba, Senegal, Ghana và Malaysia…
2.2.5Hàng thủy sản: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng đạt 466 triệu USD, tăng 16,8% so với tháng trước. Trong đó, xuất sang EU đạt 109 triệu USD, tăng 17,8%; sang Hoa Kỳ đạt 95,7 triệu USD, tăng 44,3% và sang Nhật Bản đạt 90,1 triệu USD, tăng hơn 11% so với tháng trước.
Bảng 2: Cơ cấu xuất khẩu hàng thuỷ sản tháng 7/2010 và 7 tháng 2010
(Đơn vị tính: Lượng: nghìn tấn; Đơn giá: USD/tấn; Trị giá:triệuUSD)
Nhóm hàng
Tháng 7/2010
7 tháng/2010
Lượng
Trị giá
Lượng
Trị giá
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Kim ngạch
Tỷ trọng (%)
Cá Tra & Ba sa
58
124
26,6
362
777
31,2
Tôm
24
213
45,6
111
932
37,4
Cá & SP cá các loại
28
78
16,7
172
499
20,0
Mực & Bạch tuộc các loại
8
32
6,8
50
205
8,3
Hải sản loại khác
4
20
4,2
25
76
3,1
Tổng cộng
122
466
100,0
720
2.488
100,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan
2.2.6 Dầu thô: lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là 497 nghìn tấn, giảm 42%, kim ngạch xuất khẩu đạt 284 triệu USD, giảm 43% so với tháng 6/2010. Tính đến hết tháng 7/2010, lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 4,9 triệu tấn, giảm 45,5% và kim ngạch đạt 2,96 tỷ USD, giảm 20% so với cùng kỳ năm 2009.
2.2.7 Cao su: Lượng xuất khẩu trong tháng đạt 88,3 nghìn tấn, tăng 52,3% so với tháng trước, nâng tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này trong 7 tháng/2010 lên 327 nghìn tấn, giảm 2,4% so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch xuất khẩu cao su trong tháng đạt 245 triệu USD, tăng 49,4% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2010 lên 901 triệu USD, tăng 86,7% so với cùng kỳ năm 2009.
Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt Nam trong 7 tháng qua với 188 nghìn tấn, giảm 18,4% so với 7 tháng/2009 và chiếm 57,4% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Malaixia: 19,1 nghìn tấn, tăng 28,6%; Hàn Quốc: 17,9 nghìn tấn, tăng 13,6%; Đài Loan: 15,4 nghìn tấn, tăng 38,5% và Đức: 13 nghìn tấn, tăng 51,1%…
2.2.8 Giày dép các loại: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 490 triệu USD, tăng 1,6% so với tháng 6. Tính đến hết tháng 7/2010, xuất khẩu nhóm hàng giày dép của nước ta đạt 2,8 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,98 tỷ USD, tăng 16,3% và chiếm hơn 71% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép của cả nước.
Dẫn đầu về nhập khẩu giày dép của nước ta trong 7 tháng/2010 là thị trường EU đạt 1,26 tỷ USD, tăng 5,5% và chiếm 45,6% xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 747 triệu USD, tăng 22,2%; sang Nhật Bản đạt 95,3 triệu USD, tăng 27,2%; sang Mêxicô đạt 98,9 triệu USD, tăng 28,1%;... so với cùng kỳ năm trước.
2.2.9 Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 7/2010, xuất khẩu mặt hàng này đạt 304 triệu USD, tăng 17,3% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam 7 tháng/2010 lên 1,83 tỷ USD, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm 2009.
Hết tháng 7/2010, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường lớn nhất nhập khẩu mặt hàng gỗ & sản phẩm gỗ của Việt Nam với 755 triệu USD, tăng 33,4%, tiếp theo là thị trường EU: 230 triệu USD, tăng 15,5%; Trung Quốc: 211 triệu USD, tăng gấp gần 2 lần so với cùng kỳ năm 2009…
2.2.10 Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trong tháng xuất khẩu đạt 315 triệu USD, tăng 1,7% so với tháng 6, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng năm 2010 lên 1,85 tỷ USD, tăng 31,2% so với 7 tháng/2010.
Các thị trường nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện của nước ta trong 7 tháng/2010 chủ yếu là: sang Hoa Kỳ: 308 triệu USD, tăng 26,8%; sang Trung Quốc: 308 triệu USD, tăng 144%; sang Nhật Bản: 220 triệu USD, tăng 11,8%... so với 7 tháng/2009.
2.3. Nhập Khẩu
2.3.1. Quy mô và tốc độ
Trị giá nhập khẩu trong tháng là hơn 7 tỷ USD, giảm nhẹ (0,7%) so với tháng trước, trong đó khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 3,12 tỷ USD, giảm 1,6%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu của nước ta trong 7 tháng/2010 là 45,78 tỷ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, trị giá nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 19,47 tỷ USD, tăng 46,5% so với cùng kỳ một năm trước đó.
2.3.2. Một số mặt hàng nhập khẩu chính
Xăng dầu các loại: trong tháng, lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước là gần 960 nghìn tấn, tăng 21,9%, nâng tổng lượng xăng dầu nhập khẩu của cả nước 7 tháng lên 6,17 triệu tấn, giảm 21,6%, trị giá là 3,83 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2009.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ: Singapore với 1,99 triệu tấn, giảm 29%; tiếp theo là Trung Quốc: 866 nghìn tấn, giảm 24%; Đài Loan: 620 nghìn tấn, giảm 53,3%; Hàn Quốc: 570 nghìn tấn, giảm 7,2%; Malayxia: 415 nghìn tấn, tăng 92%;…
2.3..4Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng nhập khẩu gần 207 nghìn tấn, tăng 4,2% so với tháng trước và đạt trị giá là 370 triệu USD. Hết tháng 7/2010, tổng lượng chất dẻo nguyên liệu nhập khẩu của cả nước là 1,3 triệu tấn, kim ngạch là 2,1 tỷ USD, tăng 5% về lượng và 43,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến hết tháng 7/2010, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc với 242 nghìn tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ 2009; A rập Xêút: 211 nghìn tấn, tăng 48,5%; Đài Loan: 204 nghìn tấn, tăng 8,4%; Thái Lan: 140 nghìn tấn, giảm 18,8%…
2.3.5 Phân bón các loại: lượng phân bón nhập khẩu trong tháng là 224 nghìn tấn, tăng 77,3% so với tháng 6, nâng tổng lượng phân bón các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng là 1,63 triệu tấn, giảm 34,4%, trị giá là 513 triệu USD, giảm 36,8% so với cùng kỳ năm 2009.
Trong 7 tháng qua, Việt Nam nhập khẩu phân bón chủ yếu có xuất xứ từ: Trung Quốc: gần 639 nghìn tấn, giảm 28,1%; Nga: 236 nghìn tấn, giảm 17%; Nhật Bản: 123 nghìn tấn, tăng 54,8%; Philippin: 84,2 nghìn tấn, giảm 57,1%…
.2.3.6 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là 1,19 tỷ USD, tăng 0,1% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu 7 tháng/2010 lên 7,4 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2009.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam trong 7 tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,43 tỷ USD, tăng 14%; Nhật Bản: 1,42 tỷ USD, tăng 13,9%; Hàn Quốc: 551 triệu USD; tăng 20,4%; Đức: 441 triệu USD, tăng 21,2%…
2.3.7 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng là 415 triệu USD, tăng 6,1% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu trong 7 tháng/2010 lên 2,58 tỷ USD, tăng 32,3% so với cùng kỳ 2009.
Hết tháng 7/2010, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung cấp nhóm hàng này cho nước ta với 858 triệu USD, tăng 16,8% so với 7 tháng/2009. Tiếp theo là Nhật Bản: 554 triệu USD, tăng 35,4%; Hàn Quốc: 346 triệu USD, tăng 2,8 lần; Malaysia: 194 triệu USD, tăng 26,3% và Đài Loan: 166 triệu USD, tăng 6,9% …
2.3.8 Ô tô nguyên chiếc: trong tháng, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu là 4,4 nghìn chiếc, giảm 3,6% so với tháng 6, nâng lượng nhập khẩu 7 tháng/2010 lên 23,9 nghìn chiếc với trị giá là 494 triệu USD.
Xe ôtô nguyên chiếc nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc với gần 14,8 nghìn chiếc, giảm 30,3%. Tiếp theo là Nhật Bản: 2,68 nghìn chiếc, giảm 12,5%; thị trường Trung Quốc: 2,42 nghìn chiếc, tăng 4,4%; Đài Loan: 2,1 nghìn chiếc, tăng 77%;… so với cùng kỳ năm 2009.
2.3..9 Sắt thép các loại: trong tháng, lượng sắt thép nhập khẩu là 617 nghìn tấn, giảm 13,3% so với tháng trước, trị giá nhập khẩu là gần 474 triệu USD, giảm 12,4%.
Hết 7 tháng/2010, tổng lượng nhập khẩu sắt thép của Việt Nam là gần 4,73 triệu tấn, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2009 với kim ngạch là hơn 3,2 tỷ USD. Trong đó, lượng phôi thép là gần 1,1 triệu tấn, giảm 22,6%, trị giá đạt hơn 575 triệu USD.
Việt Nam nhập khẩu sắt thép trong 7 tháng/2010 chủ yếu có xuất xứ từ: Trung Quốc với gần 1,38 triệu tấn, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2009; Nhật Bản: 861 nghìn tấn, tăng 18,8%; Hàn Quốc: 717 nghìn tấn, tăng 36%; Nga: 446 nghìn tấn, giảm 52%; Malaixia: 430 nghìn tấn, tăng 14,5%; Đài Loan: 379 nghìn tấn, giảm 48,7%;…
2.3.10 Nhóm hàng nguyên liệu, phụ liệu ngành dệt may, da, giày: trong tháng nhập khẩu đạt 825 triệu USD, giảm 3,9% so với tháng trước. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 462 triệu USD, giảm 5,1%; nguyên phụ liệu dệt may da giày có cùng mức kim ngạch so với tháng trước là 225 triệu USD; xơ sợi dệt là gần 86 triệu USD, giảm 11,3% và bông gần 52 triệu USD, tăng 5,5% so với tháng 6/2010.
Hết tháng 7/2010, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày đạt kim ngạch là 5,41 tỷ USD, tăng 33,4% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó, nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hơn 3,4 tỷ USD, tăng 35% so với cùng kỳ năm 2009.
Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng này cho Việt Nam trong năm qua là: Trung Quốc: 1,7 tỷ USD, Đài Loan: 971 triệu USD, Hàn Quốc: 952 triệu USD, Hồng Kông: 290 triệu USD, …
2.3.11 Nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 191 triệu USD, giảm 12,2% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu trong 7 tháng lên gần 1,36 tỷ USD, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm 2009. Trong đó nhập khẩu mặt hàng khô dầu đậu tương trong tháng là 284 nghìn tấn, giảm 19,2%, trị giá là gần 109 triệu USD, nâng lượng nhập khẩu trong 7 tháng lên 1,94 triệu tấn với trị giá gần 828 triệu USD, chiếm 61% kim ngạch nhập khẩu nhóm thức ăn gia súc và nguyên liệu.
Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu có xuất xứ từ: Achentina với 361 triệu USD, tăng 21,8%; Hoa Kỳ: 283 triệu USD, tăng gần gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2009; Ấn Độ: 220 triệu USD, giảm 22,8%; Braxil: 93,5 triệu USD, tăng mạnh 326%;…
3. Tác động của việc xuất FOB và nhập CIF đến nền kinh tế đất nước nói chung và tình trạng nhập siêu nói riêng.
3.1 Tác động đến thị phần kinh doanh bảo hiểm trong nước:
Quy ước quốc tế cũng quy định rất rõ ràng, chặt chẽ về trách nhiệm của người mua, người bán tương ứng với những điều kiện giao hàng nêu trên. Ở các nước phát triển, khi bán hàng - tức là khi xuất khẩu hàng hóa - người bán thường tìm mọi cách để giao hàng với điều kiện tiền hàng cộng bảo hiểm cộng cước, (cost + insurance + freight), còn gọi là bán theo giá CIF. Điều đó có nghĩa là, người bán - người xuất khẩu - giao hàng cho người mua trên tàu của người bán, tại cảng của nước người mua - người nhập khẩu. Khi mua hàng, tức là khi nhập khẩu, người mua lại luôn luôn đàm phán để mua được hàng theo điều kiện giao hàng lên tàu, (free on board), còn gọi là mua hàng theo giá FOB. Ở nước ta, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu đang thực hiện theo phương thức ngược lại. Khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam giao hàng theo giá FOB, tức là giao hàng cho bên mua trên tàu của bên mua tại cảng Việt Nam. Khi mua hàng, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam lại nhận hàng trên tàu của người bán tại cảng Việt Nam. Đó là tập quán kinh doanh trong xuất - nhập khẩu ở Việt Nam đã hình thành từ rất lâu và vẫn tồn tại cho đến nay. Kinh doanh bảo hiểm rất đa dạng, với các loại hình bảo hiểm khác nhau. Song, bảo hiểm hàng hóa xuất - nhập khẩu có vị trí rất quan trọng. Song, tập quán kinh doanh xuất - nhập khẩu ở nước ta đang hoàn toàn ngược lại với thông lệ quốc tế như trình bày trên đã dẫn đến hậu quả là: các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam gần như hoàn toàn mất thị phần bảo hiểm trong lĩnh vực này. Đó là điều không có gì khó hiểu khi cả xuất khẩu và nhập khẩu, các thương nhân nước ngoài đều giành lấy quyền thuê tàu và giao hàng tại cảng Việt Nam. Khi quyền thuê tàu là của thương nhân nước ngoài (kể cả khi một đại lý vận tải của Việt Nam làm thủ tục thuê tàu theo hợp đồng ủy quyền) thì quyền lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm hàng hóa tất yếu cũng thuộc quyền của thương nhân nước ngoài. Việc thương nhân nước ngoài tìm đến và mua bảo hiểm của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm Việt Nam cho hàng hóa của họ có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng năm là rất lớn và có xu hướng tăng nhanh. Chẳng hạn, năm 2008, xuất khẩu của nước ta đạt khoảng 62 tỷ USD, nhập khẩu xấp xỉ 90 tỷ USD. Phí bảo hiểm cho lượng hàng hóa này là một số khổng lồ. Vì vậy, để "tuột khỏi tay" quyền thu phí bảo hiểm với lượng hàng hóa đó là một thiệt hại vô cùng lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm mà còn với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3.2. Xuất khẩu giá CIF, nhập khẩu giá FOB: góp phần giảm nhập siêu.
Theo điều kiện cơ sở giao hàng cif thì người bán là người có nghĩa vụ thuê tàu và mua bảo hiểm, còn theo fob là người mua là người thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa. Vì vậy, khi các doanh nghiệp VN nhập cif và xuất fob đã chuyển quyền được thuê tàu và mua bảo hiểm về hàng hóa cho các đối tác. Như vậy, khi nhập khẩu cif thì doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam ngoài việc phải nhập khẩu hàng hóa, lại còn nhập khẩu thêm dịch vụ bảo hiểm cho hàng hóa và vận chuyển hàng hóa. Điều này làm tăng việc xuất khẩu ngoại tệ trong nước, và làm tăng kim ngạch nhập khẩu trong nước. Cũng tương tự như vậy, đối với các doanh nghiệp VN xuất khẩu theo điều kiện Fob thì đã không tiết kiệm được phần ngoại tệ nếu giành được quyền về thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa. Chính vì nguyên nhân như vậy đã làm tăng việc nhập siêu của nước ta lên cao hơn. Khi các DN XK đều giao hàng theo điều kiện CIF, thì chắc chắn thị trường dịch vụ cho thuê tàu biển và các sản phẩm bảo hiểm của các DN cung cấp dịch vụ này trong nước sẽ có thêm cơ hội phát triển, tăng doanh thu. Các DN XK cũng được lợi vì sẽ thu được trị giá ngoại tệ cao hơn, so với XK theo điều kiện FOB. Ngoài ra, nếu DN thiếu vốn, có thể dùng tín dụng thư (L/C) thế chấp tại ngân hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn. DN lại được quyền chủ động trong việc giao hàng, không phải lệ thuộc vào việc điều tàu do người NK chỉ định.Theo tính toán, nếu sử dụng dịch vụ vận tải và bảo hiểm trong nước để XK theo điều kiện CIF thì trong năm 2007 Việt Nam đã có thể thu thêm hơn 3 tỉ USD tiền XK các dịch vụ vận chuyển quốc tế và bảo hiểm hàng hoá. Tức là thay vì chỉ XK được 48,56 tỉ USD, giá trị XK của Việt Nam sẽ đạt 51,95 tỉ USD. Chiều ngược lại, nếu tất cả các DN trong nước NK theo điều kiện FOB, thuê tàu và mua bảo hiểm VN, trả phí bằng đồng Việt Nam, thì chỉ phải thanh toán 58,32 tỉ USD hàng NK, thay vì 62,7 tỉ USD như hiện nay. Số ngoại tệ do tiết kiệm được tiền bảo hiểm và cước tàu phải trả cho nước ngoài giảm tới 4,38 tỉ USD. Như vậy, nếu việc XK theo điều kiện CIF và NK theo điều kiện FOB được thực hiện một cách tuyệt đối trong năm 2007, thì cán cân nhập siêu của Việt Nam có thể giảm còn 6,37 tỉ USD, thay vì 14,14 tỉ USD. Tức là nhập siêu có thể giảm tới 60%/năm.Cũng vẫn giả sử như trên, năm 2008 chúng ta sẽ xuất khẩu được 67,309 tỷ USD thay vì chỉ có 62,906 tỷ USD và như vậỵ thì nhập siêu chỉ là 7,478 tỷ USD thay vì 17,51 tỷ USD nếu tiến hành xuất giá FOB và nhập giá CIF. Đến năm 2009 các chỉ tiêu này lần lượt là, xuất khẩu đạt 76,059 tỷ USD thay vì chỉ có 71,084 tỷ USD và như vậy thì nhập siêu chỉ là 10,694 tỷ USD thay vì 22,199 tỷ USD. Như vậy cán cân xuất nhập khẩu quốc gia đã được cải thiện đáng kể. Tương tự nếu tất cả các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu theo điều kiện FOB, kim ngạch nhập khẩu trong năm 2007 của cả nước chỉ là 58,32 tỷ USD, thay và 62,7 tỷ USD nhập khẩu theo điều kiện CIF. Số ngoại tệ nhập khẩu giảm 4,38 tỷ USD, do chúng ta tiết kiệm được tiền bảo hiểm và cước tàu phải trả cho nước ngoài. Cũng vẫn giả sử trên thì năm 2008 và năm 2009 kim ngạch nhập khẩu của nước ta lần lượt là 74,787 tỷ USD và 86,753 tỷ USD thay vì 80,416 tỷ USD và 90,283 tỷ USD nếu nhập khẩu theo giá CIF. Như vậy tiết kiệm được 1 lượng lớn ngoại tệ cho đất nước.
BẢNG PHÂN TÍCH SỐ LIỆU XK THEO ĐIỀU KIỆN CIF – NK THEO ĐIỀU KIỆN FOB
Điều kiện F.O.B
(Tỷ USD)
Bảo hiểm (I)
+ Cước vận
tải (F)
(Tỷ USD)
Điều kiện CIF
(Tỷ USD)
Cán cân xuất siêu
dự kiến
(Tỷ USD)
Năm 2007
- Xuất khẩu
- Nhập khẩu
48,56
58,32
(+)3,39
(-)4,38
51,95
62,7
(-)6,37
Năm 2008
Xuất khẩu
- Nhập khẩu
62,906
74,787
(+)4,403
(-) 5,629
67,309
80,416
(-)7,478
Năm 2009
Xuất khẩu
- Nhập khẩu
71,084
86,753
(+)4,975
(-)6,5299
76,059
93,283
(-)10,694
Ghi chú: - Tỷ lệ phí bảo hiểm hàng hoá từ: 0,2% - 0,9% trên trị giá CIF, tuỳ theo loại hàng hoá.- Tỷ lệ cước tàu từ 5 – 10% trên trị giá CIF, tuỳ theo tỷ trọng của hàng hoá, địa điểm giao hàng, phương tiện vận chuyển (tàu hoặc container).- Tỷ lệ bảo hiểm (I) và cước tàu (F): Theo bảng tính trên lấy trung bình là 7%.
Ngoài ra, điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty vận tải ở Việt Nam phát triển: trong thời gian qua, các công ty vận tải của Việt Nam phát triển chưa mạnh so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore… nguyên nhân chủ yếu là do “cầu” chưa tăng. Do đó, nếu các nhà xuất khẩu chọn điều kiện nhóm C thay thế nhóm F thì sẽ “cầu” tất yếu sẽ gia tăng, vì đối với nhóm C, nhà xuất khẩu chịu chi phí vận tải chính nên chủ yếu sẽ thuê các công ty vận tải ở Việt Nam vận chuyển. Khi đó các công ty vận tải có cơ hội để phát triển mạng lưới vận tải quốc tế, góp phần khẳng định vị thế của công ty vận tải ở Việt Nam trên thị trường thế giới. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tàu (hoặc container) của Việt Nam đang rất thiếu việc làm, nếu các nhà xuất khẩu liên hệ mua bảo hiểm hàng hoá và thuê tàu (container) trong nước, chắc chắn sẽ làm tăng doanh số cho các doanh nghiệp này, giải quyết thêm việc làm cho cộng đồng của chúng ta, hơn là để các công ty nước ngoài thu được phí bảo hiểm và cước tàu
Các công ty bảo hiểm ở Việt Nam cũng có điều kiện để phát triển: mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ở nước ta tăng liên tục nhưng hoạt động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhập Fob- bán Cif lời giải cho bài toán nhập siêu.doc