Đề tài Nho giáo

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

I. NHO GIÁO TRUNG HOA - NỀN TẢNG CỦA VÀNH ĐAI VĂN HOÁ ĐÔNG BẮC Á 2

1. Hệ thống tư tưởng Khổng - Mạnh(2) 4

2. Hệ thống tư tưởng Hán Nho 5

3. Hệ thống tư tưởng Tống Nho 6

II. SỰ TRUYỀN BÁ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á (TRIỀU TIÊN, NHẬT BẢN, VIỆT NAM) 7

1. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng ở Triều Tiên 9

2. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng tới Nhật Bản 12

3. Nho giáo du nhập và ảnh hưởng ở Việt Nam 16

III. MỘT SỐ NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT GIỮA NHO GIÁO Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO 28

MỤC LỤC 31

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3355 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nho giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhật Bản, và họ cũng mang Nho giáo truyền bá tới các nước này. Con đường thứ ba thì lại mang tính cưỡng ép và “đồng hoá” nhiều hơn. Các nền văn minh, các quốc gia khi đã phát triển tới đỉnh cao về kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự thường có ý muốn bành trướng thế lực, bành trướng lãnh thổ của mình bằng các cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia láng giềng. Cùng với quá trình xâm lược ấy là sự “đồng hoá” và cả “bị đồng hoá” về văn hoá. Đối với khu vực Đông Bắc Á, ở thời điểm đó, nền văn minh Trung Hoa đã phát triển tới đỉnh cao, hình thành một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền với lực lượng quân đội mạnh đã tiến hành xâm lược các quốc gia trong khu vực là Triều Tiên và Việt Nam, đồng thời tiến hành “đồng hoá” về văn hoá các nước này. Trong quá trình ấy, Nho giáo đã được truyền bá cưỡng ép vào các nước trong khu vực. Ba con đường trên có thể đúng với nước này, hoặc nước kia trong khu vực Đông Bắc Á hoặc đồng thời hội tụ ở từng nước, nhưng chúng ta cần phải thấy được và khẳng định khả năng thích ứng cao của Nho giáo. Nho giáo tự thân nó đã là một hệ tư tưởng phong phú, đa dạng, có khả năng hoà nhập vào nền văn hoá của các quốc gia trong khu vực hơn bất kì tôn giáo và hệ tư tưởng nào khác. Sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo tới các nước cũng có sự khác nhau, mà cách tốt nhất để tìm hiểu sự khác nhau này là hiểu về sự truyền bá và ảnh hưởng ở từng nước. Hay nói cách khác là đặt chúng ở bên cạnh nhau có lẽ chúng ta sẽ có thể rút ra những đặc điểm tương đồng và dị biệt. 1. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng ở Triều Tiên Nho giáo được truyền bá vào Triều Tiên trải qua một quá trình lâu dài và bằng cả ba con đường trên(1) (2) Xem thêm Lý Xuân Chung, Tìm hiểu vấn đề Nho giáo du nhập vào Hàn Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 316-2001, tr 68-70. . Cho đến nay vẫn chưa thể xác định chính xác thời điểm Nho giáo được du nhập vào Triều Tiên. Theo một số ý kiến nghiên cứu cho rằng Nho giáo đã ảnh hưởng và du nhập vào Triều Tiên từ rất sớm, có thể từ trước thời kỳ Ba vương Quốc, tức là vào khoảng thời gian những năm cuối trước công nguyên, khi Hàn Quốc chưa xuất hiện nhà nước phong kiến. Hay nói cách khác “Nho giáo đã ảnh hưởng nhất định tới bán đảo Triều Tiên từ trước thời kỳ Ba vương quốc” . Một số ý kiến khác xác định khá cụ thể cho rằng Nho giáo vào Triều Tiên vào khoảng các bộ lạc lớn ở bán đảo đã hợp nhất với nhau, tức là vào khoảng năm 403-221 TCN(3) Lê Quang Thiêm; Văn hoá, văn minh và yếu tố văn hoá truyền thống Hàn, Nxb Văn học, 1998, tr 295 . Tuy nhiên tất cả đều thống nhất rằng Triều Tiên là đất nước tiếp nhận Nho Giáo sớm nhất trong khu vực, có lẽ đơn giản vì quốc gia có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, văn hoá-xã hội gần gũi với Trung Hoa nhất. Ảnh hưởng của Nho giáo chính thức ở Hàn Quốc từ thời kì Ba vương quốc (Koguryo; Pec-chê, Silla) vào khoảng cuối thế kỷ IV. Nho giáo du nhập vào ba vương quốc này vào những khoảng thời gian khác nhau. Trong đó sớm nhất là vương quốc Koguryo do có đường biên giới tiếp giáp với Yên, Tề, Lỗ (Trung Quốc xưa). Ngay từ buổi đầu dựng nước, quan lại Koguryo đã học sách chữ Nho, sử dụng chữ Hán trong công việc hành chính. Trong cuốn “Tam quốc sử ký” (Cuốn sử cổ nhất của Triều Tiên); tới năm 392, thời vua Sơ-su-rin, đời vua thứ 17, nhà vua ra chỉ dụ “lập nhà Thái học, giáo dục đệ tử” bằng các sách kinh điển Nho giáo (như Ngũ kinh, Tam sử (Sử ký, Hán thư và hậu Hán thư)(1) Trích theo Lý Xuân Chung, Sđd, tr 70 . Cũng trong khoảng thời gian này, hoặc có thể muộn hơn một chút, Nho giáo đã được du nhập vào hai vương quốc còn lại. Sau khi Silla thống nhất toàn bán đảo, Nho giáo đã có những bước phát triển mới. Theo “Tam quốc sử ký”, vào khoảng năm 682 trường Quốc học được thành lập, trực thuộc bộ Lễ. Tới năm 717, chân dung Khổng Tử và 72 vị tiên hiền đã được rước từ nước Đường về đặt trong viện Hàn lâm ở Silla. Năm 750 trường Quốc học được đổi tên thành trường Thái học, quy mô đào tạo, chương trình giảng dạy, sách vở học tập được tổ chức chặt chẽ hơn. Tuy nhiên có thể thấy rằng Nho giáo vào bán đảo Triều Tiên thời kì Ba vương quốc chỉ chiếm vị trí khá khiêm tốn trong đời sống chính trị cũng như đời sống tinh thần đối với quý tộc vương triều. Và cũng giống như Việt Nam và Nhật Bản, thời kì đầu Nho giáo mới du nhập vào, “suốt trong thời đại Ba vương quốc, Phật giáo và Nho giáo ở Hàn Quốc đã tồn tại sát cạnh bên nhau một cách hài hoà(2) Lê Quang Thiêm, Sđd, tr 298 . Thời kỳ Koryo (918-1392), đây là thời kỳ Phật giáo phát triển tới đỉnh cao ở Triều Tiên, còn Khổng giáo thì đã cung cấp cơ sở cho ý thức hệ chính trị chính thức. Tuy nhiên Nho giáo thời kì này có xu hướng ảnh hưởng lấn át dần Phật giáo. Thông qua chế độ giáo dục và khoa cử, Nho giáo đã dần dần chiếm vị trí quan trọng trong xã hội Triều Tiên lúc bấy giờ. Đến cuối triều đại Koryo, Tân Khổng giáo đã bắt đầu xuất hiện và truyền bá vào Triều Tiên. Trước sự rối ren và đảo lộn về đạo lý và tinh thần ở Koryo lúc bấy giờ, Tân Khổng giáo đã nhanh chóng được tiếp thu và có ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Koryo, và xã hội Triều Tiên sau này. Triều đại Koryo chấm dứt, tướng Yi-Song-kie (hay còn gọi là vua Tae-jo) lên ngôi vua lập ra triều đại Cho-son (1392-1910). Suốt triều đại này, Khổng giáo có sự phát triển thịnh hành nhất, ảnh hưởng lớn tới mọi mặt, mọi hoạt động trong xã hội Cho-son. Triều Tiên khi ấy được xem như là một đất nước Nho giáo tiêu biểu nhất trong vùng. Nho giáo không chỉ ảnh hưởng tới chính quyền Trung ương mà còn ảnh hưởng tới từng gia đình, từng cá nhân. Nho giáo không chỉ được tiếp nhận những giá trị bên ngoài mà còn được người Triều Tiên bổ sung và phát triển sáng tạo, điển hình là sự ra đời của kiểu chữ viết riêng của dân tộc Triều Tiên - chữ Hangul (1446). Nội dung Nho giáo ảnh hưởng thời Cho-son là lấy Trung và Hiếu làm hệ thống trật tự, coi đạo đức chuẩn là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín hay nói cách khác cuộc sống hàng ngày của người dân được chỉ đạo bởi các nguyên tắc của Tân Khổng giáo. Có tới 200 học viện Khổng giáo và nhà thờ Khổng giáo được xây dựng ở triều đại này. Trường học Khổng giáo được trở thành kiểu trường học chính thống. Chế độ học và khoa cử Nho giáo được tổ chức, sắp xếp đào tạo ở mức độ cao hơn. Cuối thời Cho-son, Tân Khổng giáo ở Triều Tiên xuất hiện nhiều trường phái và phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau. Đặc biệt là Nho giáo phải đối diện với những thách thức đến từ bên ngoài: đó là cuộc xâm lược 7 năm (1592 - 1598) của Nhật Bản và một số tác động của tôn giáo và khoa học phương Tây. Trước những thách thức ấy, Nho giáo cũng được đổi mới cho phù hợp với sự thay đổi của thời đại. Tuy nhiên, sau đó từ sự xâm chiếm của người Nhật năm 1910 trở về sau, hệ thống tư tưởng Nho giáo đã dần mất đi vai trò là cơ sở của nhà nước cai trị. Nhưng chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng cho tới nay, xã hội Triều Tiên vẫn còn dấu ấn đậm nét của tư tưởng Nho giáo. 2. Nho giáo truyền bá và ảnh hưởng tới Nhật Bản Khác với Triều Tiên và Việt Nam, con đường mà Nho giáo truyền bá vào Nhật Bản lại mang tính chủ động, “lựa chọn” tiếp thu hơn. Nguyên nhân của sự khác biệt này có lẽ là do sự khu biệt về địa lí, sự thuần nhất về văn hoá của Nhật Bản và đặc biệt là việc không bị nước ngoài (Trung Hoa) đô hộ. Tất cả những điều kiện đó đã giúp Nhật Bản có thể duy trì sự ổn định, tính bền vững xã hội, và chủ động tiếp thu những luồng tư tưởng từ bên ngoài vào. Hiện nay, đa số các học giả đều cho rằng Khổng giáo được truyền bá vào Nhật Bản qua Triều Tiên vào khoảng trước thế kỷ thứ V(1) Theo “Nhật Bản thư ký”: Năm 285 (tức năm Thái Khang thứ 6, Tấn Vũ Đế Trung Quốc và năm thứ 16 Thiên hoàng ứng thần Nhật Bản) Nho giáo truyền bá vào Nhật Bản. Trích theo Y Văn Thành, ảnh hưởng của Nho học đối với Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật bản số 5 (10/1998), tr 44 thông qua con đường giao thương buôn bán và qua những người Hàn Quốc di cư sang Nhật Bản. Nhưng phải đến nửa đầu thế kỷ VI, giai cấp quý tộc Nhật Bản mới chính thức chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện đầu tiên trong “Luật 17 điều” công bố năm 604 của thái tử Sotoku Taishi (574 - 622) đặt tư tưởng trung quân lên hàng đầu (“nước không thể có hai vua”). Và ngay từ buổi đầu ấy, ở trong không gian của xã hội Nhật Bản và biệt lập, Nho giáo Trung Hoa đã không thể lan truyền mà không bị biến tướng. Michio Morishima đã nhận xét rất hình ảnh như sau: “ngay từ đầu người Nhật ở mức độ nào đấy đã lĩnh hội các luận thuyết theo cách riêng của mình và vận dụng những luận giải khác về chúng. Cuộc cách mạng tôn giáo đã diễn ra một cách mau chóng, và có lẽ là vô ý thức, ngay trên boong của các con tàu đến từ Trung Quốc và Triều Tiên hay trên các bãi tắm tại các bờ biển Nhật Bản”(3) Michio Morishima, Tại sao Nhật bản “thành công”: Công nghệ phương làng và tính cách Nhật Bản; Nxb KHXH, 1991, tr 15 . Nhưng không chỉ tiếp thu Nho giáo từ Triều Tiên sang, Triều đình Nhật Bản còn cử các đoàn sứ giả sang Trung Quốc để giao lưu và học tập và tiếp thu Nho giáo qua thế giới quan của mình rồi về truyền bá lại cho dân chúng. Như vậy rõ ràng là “khi Khổng giáo được tiếp nhận ở Nhật Bản thì nó đã mang sắc thái Nhật Bản rồi”(1) Hà Huy Tuấn, Sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng cơ bản của Khổng giáo ở Nhật Bản cho đến thời kỳ Tokugawa, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 3 (2006), tr 34-40 . Sau thời gian đầu có sự hài hoà giữa Khổng giáo và Phật giáo ở thời đại của thái tử Sotoku, nhất là từ sau cuộc cải cách Taika (năm 646) đến đầu thế kỷ VIII, hệ thống chính trị Nhật Bản mang màu sắc đơn thuần Khổng giáo gần như một bản sao của hệ thống chính quyền nhà Đường cho dù có một số điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của Nhật Bản(2) Nguyễn Thị Hồng Vân, Khổng giáo trong lịch sử Nhật Bản, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 6 (12-2004), tr 49. . Dấu ấn của Khổng giáo thể hiện rõ nét trong trật tự xã hội, cơ chế đạo đức, luật pháp, giáo dục Nhật Bản. Đến thời Nava (710-794) ảnh hưởng của Nho giáo ngày càng sâu sắc, đã vượt khỏi phạm vi của giai cấp thống trị mà còn phổ cập tới mọi tầng lớp trong xã hội Nhật Bản. Ngay cả kinh đô Nava cũng mô phỏng theo kinh đô Trường An nhà Đường. Tuy nhiên bước sang thế kỷ IX, trong xã hội Nhật Bản bắt đầu xuất hiện những mâu thuẫn về hệ tư tưởng, mô hình đạo đức. Dường như sau một thời gian tiếp thu Nho giáo truyền thống thì xã hội Nhật Bản đã bắt đầu nhận thấy nhiều hạn chế không phù hợp với các điều kiện thực tế xã hội. Nên bản thân xã hội Nhật Bản đã từng bước “đào thải”, “gạn lọc” những giá trị Nho giáo truyền thống. Làm cho Nho giáo bước vào giai đoạn suy giảm vai trò đáng kể trong xã hội Nhật Bản suốt từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVI, thay vào đó là sự hưng thịnh của Phật giáo ở Nhật Bản (1192-1542). Những giá trị đạo đức, giáo dục Nho giáo và cúng tế Khổng Tử cũng suy giảm rất nhanh. Đặc biệt năm 1177, trường đại học Khổng giáo đã bị cháy và không được xây dựng lại(1) Richard Bowring và Peter Kornicki; Bách khoa thư Nhật Bản, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản xuất bản, Hà Nội, 1995, tr 197 . Tuy nhiên do đã có ảnh hưởng trong lịch sử Nhật Bản trong suốt thời gian dài, nên Nho giáo vẫn có những ảnh hưởng nhất định trong xã hội Nhật Bản, nhất là trong hệ tư tưởng của hoàng gia. Nếu như ở Nhật Bản Nho giáo có sự suy giảm vị trí phần nào, thì ở Trung Quốc thời kì này trào lưu Tân Khổng giáo (Tống nho) bắt đầu trở nên hưng thịnh và lan rộng ra các quốc gia trong khu vực Đông Bắc Á. Trên thực tế thì ngay từ thế kỷ XII(2) Richard Bowring và Peter Kornicki, Sđd, tr 198 -XIII, Tân Khổng giáo đã được truyền bá vào Nhật Bản và bắt đầu nhen nhóm một trào lưu Nho giáo mới trong xã hội Nhật Bản. Bước vào thời cận thế (1543-1868), Khổng giáo Nhật Bản bước vào giai đoạn phục hồi và hưng thịnh. Tuy vậy phải đến thời kì Tokugawa (1603-1866), Nho giáo mới được truyền bá sâu rộng nhất và dành được vị trí quan trọng bởi có sự bảo hộ của nhà nước, chính quyền Mạc Phủ. Nho giáo Nhật Bản thời kỳ này chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Chu Hy đời Tống (1130 - 1200). Nho giáo được coi là nền học vấn chính trong sách lược trị quốc của chính quyền Tokugawa. Không chỉ ở cấp chính quyền Trung ương, ở các lãnh địa, một số Daimyo cũng là những người đỡ đầu hăng hái cho Khổng giáo, họ tự nghiên cứu Tân Khổng giáo; xây dựng nhiều trường học Nho giáo trên lãnh địa của mình, hàng năm thường xuyên tổ chức các nghi lễ cúng tế Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo cũng ảnh hưởng đến tầng lớp Samurai; ngoài sự trung thành và tinh thông võ nghệ, các Sumurai cũng bắt đầu nghiên cứu và đi theo những tư tưởng Nho giáo. Ngoài ra, các tầng lớp bình dân, thương nhân Nhật Bản thời kì này cũng xem trọng Nho giáo, lấy đó làm quy tắc ứng xử trong cuộc sống. “Tinh thần duy lý của Tân Khổng giáo kết hợp với mục tiêu hiệu quả cộng đồng của văn hoá Nhật Bản đã hướng người dân dần đi vào cải tạo xã hội một cách có ý thức”(1) Hà Huy Tuấn; Sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng cơ bản của Khổng giáo ở Nhật Bản do đến thời kỳ Tokugawa; Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 3 (5-2006), tr 39. . Ngoài những tín đồ Nho giáo theo trường phái Chu Hi, thời Tokugawa còn có hai trường phái khác nghiên cứu Nho giáo. Thứ nhất là những người kế tục tư tưởng Nho giáo mới do Dương Vương Minh (1473-1529) khởi xướng, thứ hai là trường phái Cổ học (Kogaku) chủ trương nhấn mạnh về việc trở về với giáo lý Khổng Tử và Mạnh Tử. Các trường phái này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nghiên cứu Nho giáo và cụ thể hoá thể chế chính trị, luật pháp Nho giáo đang được chính quyền Mạc phủ áp dụng trong nước. Tới nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, do những biến đổi về kinh tế - xã hội Nhật Bản, Nho giáo bắt đầu suy giảm ảnh hưởng trong xã hội. Nhất là sau cải cách Minh Trị (1868) đến thập niên 1880, cùng với sự lên ngôi của Thần đạo thì các tôn giáo khác và các hệ tư tưởng khác (trong đó có Nho giáo) đồng loạt mất đi vị trí vốn có của mình. Tuy nhiên, cuộc cải cách Minh Trị thực chất là nhằm khôi phục quyền lực của Thiên Hoàng, và cùng với đó là khôi phục vị trí hàng đầu của lòng trung thành trong các mối quan hệ, vì vậy Nho giáo đã từng bước khôi phục lại địa vị vốn có trong xã hội. Bước sang thế kỷ XX, Nho giáo không chỉ khôi phục hoàn toàn mà còn phát triển rất mạnh biểu hiện qua việc thành lập nhiều tổ chức nghiên cứu Nho giáo và các nghi lễ được tiến hành thường xuyên. Những giá trị đạo đức của Nho giáo được áp dụng một cách có ý thức để thúc đẩy mối liên kết thống nhất hài hoà trong xã hội, chống lại chủ nghĩa cá nhân có nguồn gốc từ phương Tây. Cho tới trước năm 1945, Nho giáo Nhật Bản không ít lần bị lợi dụng để sử dụng cho mục đích xâm lược, thậm chí được gắn với chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Nên vị trí và uy tín của Nho giáo đã một lần nữa bị suy giảm và mất uy tín sau thất bại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945. Ngày nay, những di sản của Nho giáo như đền thờ kinh sách vẫn được duy trì nghiên cứu, sử dụng và được đánh giá tích cực hơn, song rõ ràng Nho giáo đã được hiểu theo ý nghĩa khác trong xã hội Nhật Bản hiện đại ngày nay. Như vậy, Nho giáo tuy không phải là tôn giáo (hệ tư tưởng) bản địa nhưng từ khi du nhập vào Nhật Bản, nó đã có được vị trí, ảnh hưởng không thể phủ nhận trong lịch sử Nhật Bản. Dù vị trí và ảnh hưởng của Nho giáo có thể thay đổi trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhưng không vì thế mà làm mất đi những giá trị sâu sắc của nó trong văn hoá Nhật Bản. Những giá trị đó được xem như là một phần không thể thiếu của lịch sử Nhật Bản nói chung và lịch sử tư tưởng Nhật Bản nói riêng. Do điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, do khác nhau về ý thức hệ, cấu trúc xã hội, không bị cưỡng ép tiếp nhận, nên ngay từ đầu Nho giáo Trung Hoa đã được lựa chọn, được uốn nắn theo tinh thần dân tộc của Nhật Bản, phục vụ cho lợi ích của dân tộc. Chính vì vậy, nó còn được gọi là Nho giáo Nhật Bản. 3. Nho giáo du nhập và ảnh hưởng ở Việt Nam Nếu như ở Triều Tiên và Nhật Bản trước khi Nho giáo truyền bá vào đã tồn tại những hệ thống tín ngưỡng dân gian cổ truyền như Saman giáo (Triều Tiên); hay Thần đạo (Nhật Bản), thì Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đạicũng tương tự như vậy. Trước khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, trong thời đại dựng nước, Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn minh rực rỡ - nền văn minh sông Hồng và hình thái nhà nước sơ khai - Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc, với một hệ thống tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú và đa dạng. Điều đó tạo ra nền tảng bền vững cho toàn bộ sự sinh tồn và phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách của thời kì đen tối nhất trong lịch sử - thời kỳ hơn 1000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc”(1) Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2002,tr 34 . Khác với Triều Tiên và Nhật Bản, con đường du nhập Nho giáo vào Việt Nam đầu tiên và chủ yếu từ quá trình xâm lược, đô hộ và “đồng hoá” xã hội Việt Nam của phong kiến Trung Hoa. Năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính Nam Việt, biến Âu Lạc thành đất đai nhà Hán. Việt Nam chính thức chịu sự đô hộ của Trung Quốc. Để nô dịch nhân dân về tư tưởng, ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào Việt Nam. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời kì đầu công nguyên (khoảng 110 TCN, đầu năm 39 sau CN), hai thái thú quận Giao Chỉ và Cửu Chân là Tích Quang và Nhâm Diên đã tích cực “dựng học hiệu”, mở trường dạy Nho học và truyền bá phong tục Hán tộc. Nho giáo vào Việt Nam chính thức từ thời hai thái thú ấy. Từ năm thứ 8 đến thứ 25 sau công nguyên, do vụ loạn Vương Mãng và các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơn Đông mà đông đảo kẻ sĩ nhà Hán lánh nạn, di cư sang Giao Châu, họ góp phần truyền bá đạo Nho bằng cách mở trường kiếm sống(2) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb CTQG, 1993, tr 61 . Tuy nhiên, các vị quan đô hộ vẫn là những người tích cực hơn cả trong việc truyền bá Nho giáo và Việt Nam. Thậm chí có những vị còn được các nhà Nho Việt Nam thời phong kiến tôn là “Nam giao học tổ”(3) Sĩ Nhiếp, người gốc Hán làm thái thú Giáo chủ từ năm 186 đến năm 226 còn được tôn là “Sĩ Vương” (ông tổ của nền học vấn phương Nam). Điều này càng khẳng định con đường truyền bá Nho giáo vào Việt Nam trước tiên và chủ yếu là từ quá trình xâm lược và đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Tuy nhiên, Nho giáo và chữ Hán trong suốt thời kì Bắc thuộc chỉ được truyền bá và phát triển trong bộ phận quan lại đô hộ và tầng lớp trên của xã hội ở những trung tâm chính trị lớn; chưa có ảnh hưởng rộng rãi trong dân chúng ở các xóm làng. Và khuynh hướng chủ yếu, là khuynh hướng thích nghi và hoà nhập với tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người Việt chủ yếu là tư tưởng Khổng Mạnh và Hán Nho. Sang tới thời Lý - Trần (1009-1400), thời kì mới giành lại được độc lập, nhìn chung nhà nước chủ trương một chính sách khoan dung hoà hợp và chung sống hoà bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo (Phật giáo, Đạt giáo, Nho giáo và tín ngưỡng dân gian), hay còn gọi l à thời kì “Tam giáo đồng nguyên”, “Tam giáo tịnh tồn”. Tuy nhiên, với yêu cầu xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á - Trung Hoa và duy trì trật tự xã hội phát triển văn hoá, giáo dục; cho nên ở thời kì này Nho giáo cũng được sử dụng và trở thành một công cụ thiết yếu của Nhà nước. Các nhà vung sùng Phật thời Lý - Trần vẫn cần đến sự hỗ trợ của Nho giáo. Ở thời Lý, Nho giáo tuy được Nhà nước chấp nhận nhưng vẫn giữ vị trí khiêm tốn. Năm 1070, Văn Miếu được xây dựng, thời Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học cho Hoàng Thái Tử. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi thái học sinh đầu tiên. Các kì thi Tam giáo cũng được tổ chức trong thời Lý. Đến năm 1076, mở trường Quốc tử giám, chỉ cho con em quan lại vào học. Qua thời Trần, Nho giáo và Nho học khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học được mở, khoa cử đều kỹ hơn. Các vua Trần đã cố gắng dung hoà Phật - Nho trong đường lối trị nước. Tầng lớp Nho sĩ ngày một phát triển và đã dần dần tham gia vào chính quyền nhà nước, nắm giữ các chức vụ quan trọng trước đây chỉ dành cho tầng lớp quý tộc gia thất. Ở làng xã, quá trình Nho giáo xâm nhập khá chậm và mờ nhạt dân chúng vẫn sống theo những phong tục cổ truyền, chưa bị ràng buộc bởi những quy phạm Nho giáo. Tư tưởng Nho giáo thời kỳ này chủ yếu là tư tưởng Nho giáo Khổng Mạnh, Hán Nho, bắt đầu xuất hiện Tống Nho. Sang tới thời Lê Sơ (1428-1527); văn hoá Đại Việt đã chuyển sang giai đoạn thắng thế của văn hoá Đông Á, Nho học - Nho giáo. Các nhà vua thời Lê sơ đã từ bỏ chính sách khoan dung Tam giáo đồng nguyên trước đây mà chuyển sang chính sách “độc tôn Nho giáo và Nho học”. Giai đoạn này, Tống Nho (Tân Khổng giáo) đã được đề cao như một hệ tư tưởng chính thống của Nhà nước, bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ quan liêu. Nền giáo dục và khoa cử thời Lê sơ rất được coi trọng, “thế tục, phổ cập và bình đẳng” nhằm mục đích đào tạo nhân tài và quan lại cho chế độ phong kiến. Việc khuyến khích học hành và thi cử theo Nho giáo từ thời Lê Sơ về sau đã tạo ra một tầng lớp Nho sĩ đông đảo. Nho giáo không chỉ ảnh hưởng tới tầng lớp trên mà còn ngấm cả vào làng xã cổ truyền của người Việt. Tổ chức chính quyền có sự tham khảo các kiểu Nhà nước Tống, Minh (Trung Quốc), Pháp luật cũng được tham khảo nhìêu pháp luật Đường, Minh. Cuối thời Lê Sơ và các thế kỉ sau đó (thế kỷ XVI, XVII, XVIII), chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng, triều đình phong kiến rệu rã, đạo đức phong kiến bị vi phạm nghiêm trọng do những cuộc chiến tranh giành quyền lực kéo dài giữa Lê và Mạc, Trịnh và Nguyễn, kéo theo sự suy giảm của Nho giáo. Việc học tập, thi cử Nho học vẫn được duy trì, song cả mục đích, nội dung đã xa rời đạo lý Khổng - Mạnh. Việc mua bán đề thi, văn bằng, học vị diễn ra công khai và có chủ trương của Nhà nước. Đạo đức, quan hệ tôn ti trật tự, lễ nghị Nho giáo bị vi phạm một cách nghiêm trọng, có xu hướng trở lại với Tam giáo đồng tôn. Sau thời kì loạn lạc, chia cắt và khủng hoảng, nhà Nguyễn (1802-1884) lên nắm quyền, để củng cố địa vị thống trị đã ra sức phục hồi và phát triển Nho giáo. Các vua nhà Nguyễn là những người trực tiếp truyền bá Nho giáo và đào tạo Nho sĩ. Các nội dung mệnh trời, tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tiết nghĩa… của Nho giáo được đề cao theo hướng duy tâm và khắc nghiệt hơn. Tuy nhiên dù rất cố gắng nhưng Nho giáo Việt Nam thời Nguyễn cũng không tránh khỏi xu hướng “suy thoái”, không phù hợp với thời đại nữa. Vào cuối thời Nguyễn, Nho giáo triều Nguyễn bắt đầu bộc lộ tiêu cực, bảo thủ và lỗi thời, bất lực trước những thách thức của lịch sử. Sau hàng ước 1884, Việt Nam chính thức trở thành thuộc địa của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: “Nho giáo Việt Nam đã mất đi vai trò chủ đạo của nó trong hệ tư tưởng Việt Nam, cũng như trong cuộc đấu tranh chống lại đế quốc thực dâm xâm lược. Như vậy, tính từ thời Bắc thuộc, đến hết phong trào Cần Vương, Nho giáo đã có mặt ở Việt Nam hơn hai nghìn năm và trong đó có gần 500 năm được coi là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến. Vì lẽ đó, Nho giáo có đủ thời gian và điều kiện để bám rễ và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam, và có thể coi là một phần bản sắc của văn hoá Việt Nam. Nhưng cũng như Triều Tiên và Nhật Bản, Nho giáo khi vào Việt Nam đã bị bản địa hoá, đã phải dung hoà với những tín ngưỡng dân gian, để trở thành cái gọi là Nho giáo Việt Nam. III. MỘT SỐ NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT GIỮA NHO GIÁO Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG BẮC Á Như phần trên đã trình bày, nền tảng chung của “vành đai Nho giáo” chính là những giá trị căn bản “bất biến” của Nho giáo Trung Hoa, mà cụ thể hệ tư tưởng Khổng - Mạnh; hệ tư tưởng Hán Nho; hệ tư tưởng Tống Nho. Nhưng rõ ràng khi ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa xâm nhập và truyền bá vào Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, Nho giáo đã buộc phải biến đổi “bản địa hoá”, “bị khúc xạ”(1) Theo cách dùng của Pham Ngọc, Bản sắc Văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, 2001 để tồn tại phù hợp với điều kiện địa - kinh tế, địa - chính trị, địa - văn hoá của các quốc gia trong khu vực. Vì vậy Nho giáo Trung Hoa đã “có sự lệch không chỉ một pha mà lệch đến hai ba pha” không chỉ lệch về thời gian mà cả về không gian, tạo thành một “độ khúc xạ” nhất định giữa Nho giáo Trung Hoa với Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản và Nho giáo Việt Nam. Theo GS Phan Ngọc, “độ khúc xạ” có thể được hiểu rất đơn giản như sau: “Chỉ sau khi đã phân xuất ra cái cơ sở chung, bất biến của Khổng giáo qua các nước và các thời đại ta mới có điều kiện xét độ khúc xạ. Độ khúc xạ này chẳng có gì huyền bí. Ta có thể xem Khổng giáo nguyên thuỷ như một tia sáng và nước Việt Nam (có thể đúng với cả Triều Tiên và Nhật Bản - TG) như một môi trường mà tia ánh sáng ấy xuyên qua. Môi trường này là tâm thức Việt Nam (tâm thức Triều Tiên và tâm thức Nhật Bản - TG”(1) Phan Ngọc, Sđd, tr 214 . Khi tia sáng đó đia qua môi trường ấy thì nó không đi thẳng tắp mà theo một góc khúc xạ nà đó, cái đó gọi là độ khúc xạ. Chính “độ khúc xạ”, “sự lệch pha” đó tạo nên những điểm tương đồng và dị biệt không chỉ giữa Nho giáo Trung Hoa với Nho giáo Triều Tiên, Nho giáo Nhật Bản và Nho giáo Việt Nam mà còn giữa Nho giáo các nước với nhau. Nhưng những sự khác biệt và tương đồng ấy lại đan xen, hoà lẫn thậm chí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNho giáo.doc