MỤC LỤC
Phần I. MỞ ĐẦU . .4
1. Tính cấp thiết của đề tài . . 4
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu . 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . . .6
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Giả thuyết nghiên cứu .11
Phần II. NỘI DUNG .13
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn 13
1. Cơ sở lý luận .13
1.1. Lý thuyết vận dụng . 13
1.2. Khái niệm công cụ . .14
2. Cơ sở thực tiễn .15
2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 15
2.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu .16
Chương II: Nội dung và kết quả nghiên cứu . .22
I. Nhu cầu về quan hệ của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội là một vấn đề cần được xã hội, Trung tâm và các tổ chức quan tâm, đáp ứng . 22
1. Nhu cầu quan hệ chung 22
2. Nhu cầu quan hệ tình cảm khác giới .25
II. Thực trạng các mối quan hệ của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội IV, Ba Vì – Hà Nội . .26
1. Các mối quan hệ tình cảm của người già cô đơn tại Trung tâm .26
2. Rào cản và hệ quả từ những mối quan hệ tình cảm của người già .32
III. Vai trò can thiệp trợ giúp của Nhân viên công tác xã hội .34
1. Những kinh nghiệm về đáp ứng nhu cầu quan hệ cho người già cô đơn tại Trung tâm . .34
2. Vai trò của Nhân viên công tác xã hội .35
2.1. Vai trò can thiệp, trợ giúp trực tiếp . .35
2.2. Vai trò tác động và hoàn thiện chính sách xã hội .36
IV. Trường hợp điển cứu 37
1. Giới thiệu trường hợp .37
2. Tiếp cận trường hợp dưới phương pháp CTXH cá nhân .38
Chương III. Lượng giá kết quả và những bài học kinh nghiệm .43
1.Lượng giá kết quả thực tập .43
2.Những bài học kinh nghiệm 44
Phần III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 45
1. Kết luận 45
2. Khuyến nghị .45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .47
PHỤ LỤC .48
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6986 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhu cầu quan hệ của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội và vai trò can thiệp của Nhân viên công tác xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gồm nhiều thành phần khác nhau như người già lang thang xin ăn, lang thang buôn bán rong đường phố, người già lang thang không rõ nguồn gốc, người già neo đơn tàn tật,…số người già được gia đình gửi vào Trung tâm chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Trong đó, số người già cô đơn, không nơi nương tựa được Trung tâm nhận nuôi dưỡng lâu dài là một trong những đối tượng đặc biệt tại Trung tâm. Nhóm đối tượng này được Trung tâm nhận nuôi dưỡng lâu dài với hai lý do: đối tượng đó có nguyện vọng sống lâu dài tại Trung tâm, đối tượng mất liên lạc với gia đình và Trung tâm không có địa chỉ để gửi trả đối tượng sau hạn 3 tháng (với những trường hợp này, thường chỉ khi gia đình hoặc người thân tìm đến xin đối tượng ra khỏi Trung tâm thì Trung tâm mới trả đối tượng). Hầu hết các đối tượng này là những người cô đơn, không có hoặc đã mất vợ/chồng, một số còn giữ liên lạc với gia đình hay họ hàng còn số khác đều không còn giữ mối liên hệ nào. Với những đối tượng còn giữ mối quan hệ với gia đình, người thân; hầu hết các mối quan hệ này rất lỏng lẻo bởi đối tượng ít được về thăm gia đình và người thân cũng như gia đình ít có thời gian lên chăm sóc các đối tượng.
Khu chăm sóc người già tại Trung tâm được phân thành 4 phân khu nhỏ, mỗi phân khu là một dãy nhà có cán bộ quản lý riêng. Mỗi phòng ở được bố trí từ 6 đến 8 giường, và người già được sắp xếp ở chung với thanh niên tàn tật còn khả năng lao động. Đối tượng là người già cô đơn, không nơi nương tựa cũng được sắp xếp chỗ ở hỗn hợp với các đối tượng xã hội khác theo giới tính. Do đó, người già cô đơn được sống trong môi trường có nhiều thành phần, được tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau nhờ đó có thể hình thành các mối quan hệ xã hội khác nhau.
Hàng ngày được tiếp xúc và đón nhận sự chăm sóc từ người nuôi dưỡng, chịu sự quản lý và điều phối của nhân viên cơ sở; là yếu tố thuận lợi để người già cô đơn hình thành những mối quan hệ xã hội đối với người nuôi dưỡng và nhân viên trong Trung tâm.
Người già cô đơn, không nơi nương tựa được quản lý và nuôi dưỡng trong Trung tâm bảo trợ xã hội hầu như chỉ được quan tâm về mặt vật chất. Các đối tượng khi vào Trung tâm, đều được phát đồ dùng tư trang như chăn màn, thau chậu, đồ dùng vệ sinh cá nhân hàng tháng và được nuôi ăn từ khoảng trợ cấp xã hội dành cho các đối tượng xã hội của Nhà nước. Được khám và chữa bệnh khi ốm đau ngay tại Trung tâm. Ngoài ra, các đối tượng còn khả năng lao động được huy động và phân công lao động vệ sinh trong phạm vi Trung tâm. Trong sinh hoạt tập thể và hoạt động giải trí, các đối tượng xã hội cũng được xem tivi, đọc báo, nghe đài,…và sinh hoạt tập thể (1lần/tuần). Theo Lý thuyết nhu cầu của Mavslow, ngoài những nhu cầu đã được đáp ứng như trên (nhu cầu cơ bản, nhu cầu được an toàn) thì các nhu cầu còn lại như: nhu cầu được yêu thương, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu thể hiện mình của người già cô đơn chưa được Trung tâm và xã hội quan tâm đáp ứng. Đặc biệt, nhu cầu xã hội của người già cô đơn là nhu cầu quan hệ và nhu cầu tình cảm ít được chú ý tới. Theo Tâm lý học phát triển, tuổi già là giai đoạn cần được quan tâm chăm sóc nhiều về mặt tình cảm, được xã hội yêu thương và tôn trọng. Người già cô đơn, không nơi nương tựa là nhóm đối tượng đã chịu nhiều thiệt thòi về đời sống, là nhóm yếu thế, do đó họ càng cần được xã hội quan tâm chăm sóc về mặt tình cảm hay ít ra là được đáp ứng những nhu cầu ưu tiên. Họ được nuôi dưỡng trong Trung tâm bảo trợ xã hội, bị giới hạn về không gian sống và thu hẹp rất nhiều mối quan hệ; do đó, họ rất cần được giao tiếp với người khác, được chia sẻ tâm sự với mọi người xung quanh.
Thực tế, tại Trung tâm vẫn chưa có những hoạt động nhằm hỗ trợ người già cô đơn tăng cường các mối quan hệ của bản thân. Đồng thời, Trung tâm cũng chưa có những chính sách cụ thể để giúp người già cô đơn tự đáp ứng các nhu cầu xã hội hay giải quyết tốt những hệ quả từ các mối quan hệ tình cảm giữa người già. Bên cạnh đó, chính sách xã hội của Nhà nước và những người làm công tác liên quan đến lĩnh vực này cũng chưa quan tâm tới vấn đề đáp ứng nhu cầu quan hệ tình cảm cho người già nói chung cũng như người già cô đơn, không nơi nương tựa tại các Trung tâm bảo trợ xã hội mà chủ yếu vẫn nặng về đáp ứng nhu cầu vật chất.
Như vậy, có thể thấy nhu cầu quan hệ của người già cô đơn không nơi nương tựa được nuôi dưỡng lâu dài tại các Trung tâm bảo trợ xã hội là một vấn đề cấp thiết, là nhu cầu ưu tiên đối với nhóm đối tượng này. Nhưng trên thực tế, nhu cầu quan hệ của người già cô đơn không nơi nương tựa vẫn chưa được Trung tâm nuôi dưỡng cũng như xã hội quan tâm đáp ứng.
Nhu cầu quan hệ tình cảm khác giới
Người già cô đơn, không nơi nương tựa bị tổn thương và thiếu thốn về mặt tình cảm. Trong vấn đề chưa được đáp ứng nhu cầu quan hệ thì nhu cầu quan hệ tình cảm khác giới là một vấn đề đáng quan tâm đối với nhóm đối tượng này. Nhu cầu quan hệ tình cảm khác giới là một vấn đề của người già mới được xã hội đề cập và tranh luận trong thời gian gần đây. Đối với người già cô đơn, không nơi nương tựa đây thực sự là một nhu cầu cần thiết. Trên thực tế, người già cô đơn là nhóm đối tượng thiếu thốn nhiều về mặt tình cảm, không nhận được sự quan tâm chăm sóc và yêu thương từ con cháu, không còn người thân để chia sẻ tâm sự. Bên ngoài, họ có thể không biểu lộ hoặc tỏ thái độ phó mặc cuộc đời, nhưng trong sâu thẳm chắc chắn họ luôn tồn tại những mơ ước được người khác quan tâm, chia sẻ. Tuổi già có những nỗi buồn vui riêng tư, rất muốn được chia sẻ với người bạn đời. Được quản lý và nuôi dưỡng trong các Trung tâm bảo trợ xã hội, tiếp xúc với nhiều đối tượng xã hội khác nhau, họ có thể tìm đến người bạn đời để chia sẻ tâm sự và chăm sóc nhau lúc về già.
Đối với những đối tượng người già cô đơn là nam giới, họ vẫn có nhu cầu quan hệ, đặc biệt là nhu cầu quan hệ tình dục. Đó là bản năng của con người, là nhu cầu sinh học. Do đó, bên cạnh việc chia sẻ tâm sự người già cô đơn nam giới cần được quan hệ và đáp ứng nhu cầu bản năng đó. Xã hội phải thừa nhận và thay đổi quan niệm đối với vấn đề quan hệ tình cảm khác giới của người già cô đơn.
Như vậy, người già tại Trung tâm bảo trợ xã hội IV đang gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu quan hệ, đặc biệt là quan hệ tình cảm. Đây là vấn đề nhạy cảm và cần được xã hội quan tâm giúp đỡ, nhằm nâng cao đời sống tình cảm cho người già cô đơn trong điều kiện sống thiếu thốn.
II. Thực trạng các mối quan hệ của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội IV, Ba Vì- Hà Nội.
Các mối quan hệ tình cảm của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm
Mối liên hệ tình cảm gia đình, người thân, bạn bè và các tổ chức xã hội
Người già cô đơn sinh sống tại Trung tâm thường bị bó hẹp trong môi trường độc lập, ít các mối quan hệ bên ngoài với gia đình, bạn bè và các tổ chức xã hội.
+ Mối quan hệ với gia đình, người thân: Người già cô đơn tại Trung tâm bảo trợ xã hội IV, hầu hết đều là những đối tượng không còn gia đình hoặc người thân, mất liên hệ với gia đình và người thân vì một lý do nào đó, rất ít trường hợp vẫn còn giữ mối liên hệ với con cháu hoặc họ hàng, nhưng không có người chăm sóc nuôi dưỡng,…họ buộc phải sống nhờ vào sự nuôi dưỡng của Trung tâm bảo trợ xã hội; do đó, trừ những đối tượng còn giữ mối liên hệ ở mức độ nhất định thì hầu hết người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội đều không còn các mối liên hệ với gia đình, người thân và xã hội bên ngoài. Những đối tượng này được nuôi dưỡng lâu dài tại Trung tâm và họ coi Trung tâm bảo trợ xã hội là mái nhà cũng như nơi dừng chân, an nghỉ cuối đời của họ. Những người này thường rất ít nghĩ về gia đình, người thân mà họ thường quan tâm đến đời sống của mình ở Trung tâm, sống vui vẻ, bằng lòng với cuộc sống hiện tại.
Đối với các đối tượng có nguyện vọng sống lâu dài tại Trung tâm còn mối liên hệ với gia đình hoặc người thân, vẫn nhận được sự quan tâm của gia đình mặc dù đó là sự liên hệ rất lỏng lẻo. Đối tượng vẫn được về thăm gia đình hay người thân khi có nguyện vọng trên cơ sở được sự đồng ý của cán bộ quản lý trong Trung tâm. Người thân của các đối tượng thường chỉ lên thăm và gửi quà (bánh kẹo, mì tôm, quần áo cho các cụ), ít quan tâm chăm sóc tới đời sống tinh thần của các cụ.
Đối với cả hai đối tượng người già cô đơn, dù còn hay đã mất liên hệ với gia đình người thân, thì họ đều có chung một đặc điểm là không nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng từ những người thân yêu nữa. Họ đang sống nhờ vào sự nuôi dưỡng của xã hội mà đại diện là những cán bộ, nhân viên quản lý trong Trung tâm bảo trợ xã hội. Mối quan hệ gia đình, người thân với họ bị chia cắt và mờ nhạt, không sâu sắc như những mối quan hệ gắn bó giữa họ với Trung tâm bảo trợ xã hội. Do đó, có thể thấy rằng người già cô đơn không nơi nương tựa được nuôi dưỡng lâu dài tại Trung tâm bảo trợ xã hội rất ít mối quan hệ với gia đình và người thân. Ngay cả khi còn giữ mối liên hệ thì đó cũng không phải là những mối quan hệ mật thiết, bền chặt.
+ Với bạn bè: Có thể trước đây họ đã có những người bạn thân, những bạn đồng hương, nhưng thời điểm hiện tại đã mất liên lạc. Bạn bè hiện tại đối với họ là bạn cùng phòng, bạn cùng sinh sống trong Trung tâm. Người già cô đơn, không nơi nương tựa được sắp xếp chỗ ở hỗn hợp với những đối tượng xã hội khác như: người già lang thang xin ăn đang trong thời gian qui định (ở Trung tâm 3 tháng), người già mắc bệnh tâm thần, thanh niên khuyết tật,…Do đó, người già cô đơn có cơ hội được tiếp xúc với rất nhiều thành phần khác nhau, mở rộng các mối quan hệ của bản thân. Tuy nhiên, theo quan sát thực tế cho thấy, những mối quan hệ tình cảm bạn bè của người già cô đơn trong Trung tâm không được tốt. Người già tại đây thường ít có bạn thân để chia sẻ tâm sự, ít chơi với người cùng phòng. Nguyên nhân có thể do họ không tìm thấy sự tương đồng ở nhau, hoặc bản tính của họ không muốn giao lưu với người khác, không thể hoà hợp được với những người khác. Điều này cũng không có gì là lạ, khi người già thường là người có nhiều biến đổi và rối loạn về tâm sinh lý, sống không hợp nhau là lẽ tất yếu. Những bạn trẻ sống cùng người già thường khó chịu khi người già lúc nào cũng nhận xét và đánh giá về mình, trong khi người già luôn cho rằng mình nói đúng sự thật. Do đó, người già thường không được thoải mái về tinh thần và luôn cảm thấy khó chịu. Minh chứng cho vấn đề này là người già cô đơn thường hay xảy ra va chạm, xích mích với bạn cùng phòng, nhất là đối với những đối tượng có vấn đề về sức khoẻ tâm thần; người già bản tính đã khó chịu nên họ không thể chịu đựng hay nhường nhịn những đối tượng khác trong cùng một môi trường sống. Họ thường xuyên cãi vã, nói xấu nhau, quát mắng nhau mỗi khi được dịp tiếp xúc. Như vậy, trong môi trường sống hỗn hợp nhiều thành phần đó, người già cô đơn rất khó tìm thấy sự chia sẻ và khó có được những mối quan hệ tốt với những người xung quanh.
+ Với các tổ chức xã hội: Mặc dù sống trong Trung tâm, người già không có mối quan hệ trực tiếp với các tổ chức xã hội bên ngoài, nhưng họ vẫn có khả năng nhận biết và thể hiện tình cảm của mình đối với những tổ chức xã hội đã từng gắn bó. Đặc biệt, người già đã từng tham gia hoạt động thanh niên xung phong, làm nhiệm vụ chiến trường ngày xưa vẫn hát say sưa những bài ca trường sơn, kể chuyện say sưa về những ngày tháng oanh liệt, trong họ luôn ẩn chứa tấm lòng yêu nước sâu sắc. Điều này chứng tỏ, mặc dù thực tế họ đã không còn giữ các mối quan hệ với tổ chức xã hội bên ngoài nhưng trong thâm tâm người già vẫn hồi ức và thường sống lại với những kỷ niệm xưa, vẫn thể hiện mối quan tâm của mình với đất nước và xã hội.
Mối quan hệ với Cán bộ, Nhân viên cơ sở, người nuôi dưỡng và môi trường sống trong Trung tâm
Sống trong Trung tâm bảo trợ xã hội IV- Ba Vì- Hà Nội, người già cô đơn thường xuyên được tiếp xúc với nhân viên quản lý, nhân viên y tế và chịu ảnh hưởng bởi môi trường sinh hoạt của Trung tâm. Điều này cũng có phần ảnh hưởng trực tiếp đến những mối quan hệ tình cảm của người già.
+ Quan hệ với Cán bộ, nhân viên, người nuôi dưỡng:
Hằng ngày được tiếp xúc và chịu sự quản lý của nhân viên trong cơ sở, đã hình thành nên những mối quan hệ gắn bó đối với người già. Có thể là thái độ quý mến, quý trọng nhưng cũng có khi là sự thù ghét, chống đối đối với đội ngũ nhân viên cơ sở. Thực tế, khi được phỏng vấn thì nhiều người già đã bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân viên trong Trung tâm. Với câu hỏi “Ông (bà) cảm thấy nhân viên quản lý trong Trung tâm mình đối xử với ông (bà) như thế nào?”, đã nhận được nhiều câu trả lời dạng như “ Nhân viên rất tốt với tôi”, “ Họ đối xử rất tốt”,… Đây chính là những bằng chứng thể hiện người già trong Trung tâm có mối quan hệ gắn bó tình cảm khá thân thiết đối với nhân viên cơ sở. Điều này cũng cho thấy, đội ngũ nhân viên cơ sở đã phần nào quan tâm (thể hiện thái độ chăm sóc tốt) đối với người già cô đơn.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người già khi được hỏi thì trả lời ngược lại, thậm chí còn có thái độ phản kháng và trách móc cán bộ, nhân viên cơ sở. Điển hình như câu trả lời “Ăn cơm xong là nó khoá cửa lại luôn, không được ra ngoài”, cộng thêm vẻ mặt tức giận. Thái độ cộng với cách xưng hô của đối tượng này đã chứng tỏ thái độ không thoải mái của họ đối với nhân viên cơ sở.
Về phía nhân viên cơ sở, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng luôn làm tròn công tác chăm sóc và nuôi dưỡng đối với người già tại Trung tâm. Những khi rảnh rỗi, họ thường ngồi nói chuyện và tâm sự với người già cô đơn, khuyến khích các cụ hát hò, kể chuyện,…
+ Với môi trường sống trong Trung tâm:
Người già cô đơn hầu hết đều cảm thấy thoải mái khi sống trong môi trường nuôi dưỡng của Trung tâm. Họ hài lòng với điều kiện sống hiện tại, vui vẻ chấp nhận và sống rất bình thản. Đặc biệt, những người có nguyện vọng sống lâu dài tại Trung tâm luôn có thái độ sống tốt, gắn bó với mọi người và coi đây thực sự là nơi dừng chân của cuộc đời. Với thái độ đó, họ không còn tư tưởng ra bên ngoài xã hội sống, họ chăm chỉ lao động và hưởng thụ cuộc sống như hưởng thụ sự an nhàn của tuổi già. Thậm chí, họ rất yêu mến và cảm thấy thích thú với môi trường sống này. Có cụ được hỏi thì trả lời “ Tôi cảm thấy môi trường sống ở đây rất dễ chịu nên muốn ở lâu dài luôn”.
Tuy nhiên, cũng có những đối tượng cảm thấy không thoải mái vì phải sống chung với rất nhiều thành phần đối tượng xã hội khác nhau. Họ không có một không gian riêng để tự mình hưởng thụ cuộc sống. Bên cạnh đó, điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng của Trung tâm rất eo hẹp, người già vốn đã khó ăn lại càng nhàm chán và không thiết ăn uống, không đảm bảo dinh dưỡng khiến người già gầy yếu, bệnh tật,…người già cô đơn phải chấp nhận tất cả những điều kiện này khiến họ mệt mỏi và buồn chán. Đôi khi họ không còn muốn tiếp tục sống trong Trung tâm mà vẫn phải gắng sống, vì chẳng còn biết đi đâu.
Quan hệ tình cảm khác giới:
Tất cả chúng ta đều phải thừa nhận rằng nhu cầu về tình cảm là một nhu cầu thuộc về bản năng của con người, đó là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu đối với con người. Bởi con người không sống độc lập riêng lẻ mà luôn có mối quan hệ với xã hội xung quanh. Tình cảm khác giới và nhu cầu tình dục cũng thuộc về bản năng của con người. Khi giữa hai con người đã nảy sinh mối quan hệ tình cảm khác giới, thì nhu cầu quan hệ tình dục giữa họ là điều tất yếu. Điều này đã lý giải cho những mối quan hệ tình cảm khác giới nảy sinh giữa người già tại Trung tâm, giữa họ nảy sinh mối quan hệ tình cảm và dẫn họ tới thực hiện các hành vi tình dục. Đôi khi, không phải chỉ xuất phát từ tình cảm mà họ thực hiện hành vi đó. Đối với các cụ già là nam giới, thì quan hệ tình cảm khác giới với họ không chỉ nhằm mục đích chia sẻ tâm sự mà còn hướng tới thoả mãn nhu cầu tình dục. Nhiều trường hợp thực hiện hành vi tình dục chỉ nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu hoặc mục đích trao đổi vật chất (giá trị vật chất thực tế như: thuốc lá, gói mì tôm,…). Các đôi thường tranh thủ những lúc vắng người (giờ ăn tập trung, giờ ngủ, giờ lao động,…) để “gặp gỡ”. Những nơi thường được lựa chọn làm “điểm hẹn” có thể là góc nhà, vườn rau hay thậm chí là phòng ở chung. Đã có những trường hợp người trong phòng bắt quả tang chị em dẫn khách vào phòng để thực hiện những hành vi tình dục. Đối với các cụ bà, quan hệ tình cảm khác giới là nhu cầu cần thiết và nhằm tới sự chia sẻ tâm sự, giúp đỡ chăm sóc nhau khi bệnh tật,…nhu cầu tình dục không còn trở nên cần thiết đối với họ. Nhưng khi đã nảy sinh mối quan hệ tình cảm khác giới với một cụ ông thì buộc họ phải chấp nhận đáp ứng nhu cầu tình dục của đối phương.
Những câu chuyện tình đẹp trong Trung tâm luôn là những mẩu chuyện hài để mọi người bàn tán. Điều đáng chú ý, là các đối tượng hầu như chưa được kiểm tra sức khoẻ định kỳ, không được khám xét nghiệm HIV, do đó tình trạng này có thể trở thành nguy cơ lây nhiễm các loại bệnh dịch. Mặc dù, nhận biết được thực trạng này nhưng cán bộ và nhân viên quản lý cơ sở rất khó khăn trong việc đưa ra giải pháp khắc phục và cải thiện tình hình. Vấn đề nan giải ở đây chính là làm thế nào để vừa đáp ứng được nhu cầu quan hệ tình cảm khác giới cho người già cô đơn mà vẫn kiểm soát và phòng tránh được những hệ quả từ các mối quan hệ tình cảm khác giới đó.
Rào cản và hệ quả từ những mối quan hệ tình cảm của người già
Rào cản trong việc đáp ứng nhu cầu quan hệ tình cảm cho người già:
Có thể nhận thấy những rào cản trong việc đáp ứng nhu cầu tình cảm người già xuất phát từ những yếu tố sau:
+ Bản thân người già: Rào cản lớn xuất phát từ bản thân người già. Bởi họ bước vào Trung tâm với một tâm trạng và thái độ bị động, coi đó là nơi cuối cùng của cuộc đời,...Người già cô đơn luôn có tâm lý mặc cảm, tự ti về bản thân, cảm thấy mình là người vô giá trị, là người thừa của xã hội. Vô hình chung họ đã tạo cho mình một rào cản tâm lý với môi trường sống trước mắt. Ngoài ra, nhận thức hạn chế đã đưa họ đến suy nghĩ sai lầm, luôn nhìn nhận xung quanh như suy nghĩ của bản thân, từ đó mà tự gây áp lực cho chính bản thân mình. Đối với nhu cầu tình cảm nam nữ và quan hệ tình dục, bản thân người già chỉ biết đó như một nhu cầu bản năng mà ít có sự kiểm soát về mặt lý trí, nên thường không đem lại cảm giác thoải mái về mặt tâm lý, lúc nào cũng cảm thấy bị cộng đồng lên án. Họ không biết rằng đó là nhu cầu bản năng của mỗi con người, và xã hội phải thừa nhận cũng như trân trọng những mối quan hệ tình cảm khác giới đó. Do vậy, người già cô đơn đã tự tạo nên một rào cản cho chính bản thân để hạn chế những mối quan hệ xã hội của họ với môi trường và con người xung quanh.
+ Yếu tố xã hội: Điều kiện vật chất và chế độ chăm sóc ở Trung tâm không thể đáp ứng được những mong muốn của người già. Bởi đây chỉ là môi trường quản lý và nuôi dưỡng các đối tượng xã hội, hoạt động chủ yếu dựa vào trợ cấp xã hội của Nhà nước dành cho các đối tượng, Trung tâm không thể đủ kinh phí để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng. Từ chỗ chưa đáp ứng đầy đủ về nhu cầu vật chất dẫn đến người già không thoải mái về nhiều mặt khác. Đặc biệt, ảnh hưởng lớn đến tinh thần, chỉ lo nghĩ về cuộc sống bên ngoài không nhìn nhận và quan tâm đến cuộc sống thực tại.
Sống chung với nhiều đối tượng xã hội khác nhau, dễ dẫn tới những bất hoà và căng thẳng đối với người già cô đơn tại Trung tâm. Họ phải chấp nhận và chịu đựng những mối quan hệ xung đột, mâu thuẫn với người cùng phòng.
Thái độ phục vụ và chăm sóc của nhân viên trong cơ sở, thái độ ứng xử của họ đối với người già chưa nhiệt tình, đặc biệt là thái độ kỳ thị đối với người già rất dễ gây nên tâm lý mặc cảm cho người già.
Ngoài ra, gia đình các đối tượng là một yếu tố cản trở lớn đến việc đáp ứng nhu cầu tình cảm của người già. Gia đình chính là mối liên hệ tình cảm vững chắc nhất đối với mỗi cá nhân, nhưng người già thường bị tách rời gia đình, thậm chí bị cắt đứt mối quan hệ với gia đình. Chính những vấn đề về gia đình khiến người già suy nghĩ nhiều và lo lắng quá mức.
Do nhiều vấn đề khác nhau đã cản trở và ảnh hưởng sâu sắc tới việc đap ứng nhu cầu tình cảm cho người già tại Trung tâm.
Những hệ quả từ các mối quan hệ của người già cô đơn:
Trong các mối quan hệ của người già cô đơn có thể dễ dàng gây ra những hệ quả bất lợi.
+ Người già cô đơn ít có mối quan hệ mật thiết với gia đình, khiến họ dễ trở nên cáu gắt, trầm cảm,…dần dần mất cảm giác về mối quan hệ tình cảm yêu thương gắn bó với gia đình và người thân.
+ Những mâu thuẫn, xung đột trong các mối quan hệ giữa người già cô đơn với bạn cùng phòng, nhân viên và người nuôi dưỡng,…có thể gây nên những căng thẳng về mặt tâm lý cho người già, khiến người già nảy sinh thái độ căm ghét hoặc thực hiện những hành vi gây hại như đánh nhau, phá phách,…
+ Những mối quan hệ tình cảm khác giới và tình trạng quan hệ tình dục bừa bãi của người già nam giới làm tăng nguy cơ lây truyền các loại bệnh dịch qua đường tình dục cho những đối tương khác (như: lậu, giang mai, HIV,…). Trong khi đó, Trung tâm chưa đủ điều kiện để xét nghiệm và khám chữa những dịch bệnh này.
+ Đối với các cụ bà, khi nảy sinh mối quan hệ tình cảm khác giới có thể làm tăng nguy cơ bị bạo hành tình dục, gây tổn thương đến thể chất và tinh thần.
III. Vai trò can thiệp, trợ giúp của Nhân viên công tác xã hội
Những kinh nghiệm về nâng cao đời sống tình cảm cho người già tại Trung tâm
Trung tâm bảo trợ xã hội IV đã làm rất nhiều nhiệm vụ trong cùng lúc đối với tất cả các đối tượng xã hội như: tiếp nhận, quản lý, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục,… Bên cạnh đó, những nhân viên quản lý ở đây còn gánh vác thêm nhiều nhiệm vụ khác và phải giải quyết tất cả những vấn đề nảy sinh của các đối tượng ( giảng hoà mâu thuẫn, xử lý trộm cắp, dự phòng tránh thai,…). Đặc biệt, còn quan tâm đến những sinh hoạt thường ngày của các đối tượng xã hội, luôn đảm bảo cho các đối tượng xã hội được an toàn. Vấn đề về nhu cầu quan hệ tình cảm của người già trên thực tế ít được nhân viên cơ sở quan tâm đến, song trong quá trình giải quyết các vấn đề nảy sinh đã bao gồm những vấn đề quan hệ tình cảm của người già. Thông qua quá trình làm việc với Kiểm huấn viên và tiếp xúc trao đổi với nhân viên làm việc trực tiếp với các đối tượng người già, có thể tiếp thu được những kinh nghiệm trong quá trình làm việc của đội ngũ nhân viên cơ sở.
+ Cho phép người già còn gia đình có nguyện vọng về thăm gia đình được thực hiện mong muốn của họ. Người già khi có nhu cầu về thăm gia đình, viết đơn xin phép ban quản lý và được về thăm gia đình theo thời hạn (những dịp lễ, tết,…).
+ Phân công những đối tượng xã hội còn trẻ khoẻ hỗ trợ giặt giũ, giúp đỡ người già yếu (giúp đỡ tự nguyện)
+ Tổ chức sinh hoạt tập thể mỗi dãy nhà hoặc cả khu (1 lần/tuần)
+ Tổ chức các hoạt động xem phim, đọc báo tập trung để giải trí
+ Trong giải quyết những hệ quả từ các mối quan hệ tình cảm: thường xuyên phải giải quyết những xung đột nảy sinh giữa các đối tượng
+ Thường xuyên hỏi thăm và trò chuyện với người già cô đơn, không nơi nương tựa để lắng nghe những chia sẻ của họ.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là những mối quan tâm chung mà thực tế chưa có một biện pháp nào trực tiếp tác động để đáp ứng đầy đủ nhu cầu quan hệ tình cảm cho người già tại Trung tâm. Do đó, vấn đề đáp ứng nhu cầu quan hệ cho người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm cần có sự quan tâm giải quyết từ nhiều phía, trong đó có vai trò của nhân viên công tác xã hội.
Vai trò của Nhân viên công tác xã hội
Vai trò can thiệp, hỗ trợ trực tiếp
Công tác xã hội là một ngành khoa học xã hội mang tính thực hành thực tiễn cao. Mục đích hướng đến của công tác xã hội là giải quyết những vấn đề xã hội và nâng cao năng lực cho các nhóm yếu thế, giúp họ có khả năng vượt qua khó khăn của chính bản thân.
Người già là nhóm đối tượng yếu thế, một trong những đối tượng quan trọng mà công tác xã hội hướng đến. Đặc biệt, người già được nuôi dưỡng tại các Trung tâm bảo trợ là những đối tượng đặc thù cho sự tác động trợ giúp của công tác xã hội. Họ là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về tâm lý, mặc cảm về bản thân rất cần nhận được sự quan tâm của xã hội.
Đối với vấn đề đáp ứng nhu cầu quan hệ cho người già tại các Trung tâm bảo trợ xã hội, với vai trò là người can thiệp trực tiếp các đối tượng, nhân viên công tác xã hội giải quyết vấn đề ở những mặt sau:
Hỗ trợ về mặt tâm lý: Thông qua hoạt động tham vấn, nhân viên công tác xã hội giúp người già cô đơn được an ủi và ổn định về mặt tâm lý. Trong quá trình làm việc, nhân viên công tác xã hội giúp các đối tượng hiểu rõ tình trạng nhu cầu và những mối quan hệ tình cảm thực tại, giúp người già cô đơn kiểm định các mối quan hệ xã hội của họ, giúp họ nhận ra giá trị của bản thân. Để từ đó, người già cô đơn không còn mặc cảm, tự ti mà có thể làm quen và mở rộng mối quan hệ của mình với những người xung quanh.
Giải quyết vấn đề ưu tiên: Cùng người già thảo luận để tìm ra vấn đề ưu tiên giải quyết của họ, những khó khăn chủ yếu gây nên vấn đề đó và xây dựng kế hoạch hành động. Ví dụ: Người già thường buồn chán và không muốn giao tiếp với người khác; trong trường hợp này cần tìm hiểu nguyên nhân gây nên sự buồn chán và điều gì khiến họ không muốn giao tiếp với người khác để tìm giải pháp xoá bỏ nguyên nhân gây nên tình trạng đó.
Thay đổi nhận thức của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo thực tập- Nhu cầu quan hệ của người già cô đơn, không nơi nương tựa tại Trung tâm bảo trợ xã hội và vai trò can thiệp của Nhân viên công tác x.doc