Mở Đầu: (Phần này đã làm, bạn không phải làm phần nay).
Nội Dung:
Chương I: Vai trò của văn hóa gia đình trong cuộc sống hiện nay
1.1. Một số khái niệm:
Bạn nêu những khái niệm liên quan đến đề tài “Những biến đổi trong văn hóa gia đình ở Hà Nội HIện nay”
- Khái niệm về gia đình.
- Khái niệm về văn hóa.
- Khái niệm về văn hóa gia đình.
- Khái niệm về biến đổi
- Khái niệm về biến đổi văn hóa gia đình.
***Yêu Cầu: Ở phần này không cần phân đoạn a; b; c. Mỗi ý chỉ cần xuống dòng và có dấu hoa thị hoặc gạch ngang ở đầu dòng.
1.2. Định hướng về quyết định của Đảng về công tác xây dựng văn hóa gia đình. (gợi ý: phần này có trong nghị quyết TW 5 về gia đình)
1.3. Vai trò của gia đình ở Việt Việt Nam hiện nay.
1.3.1. Vai trò của gia đình nói chung.
1.3.2. Vai trò của văn hóa gia đình nói riêng.
1.4. Tiêu chí xây dựng văn hóa gia đình ( của nhà nước hoặc địa phương).
II. Sự biến đổi về văn hóa gia đình hiện nay.
2.1. Văn hóa gia đình truyền thống.
2.1.1. Truyền thống cưới hỏi.
2.1.2. truyền thống .
2.1.3. truyền thống .
***Yêu cầu: Không nhất thiết phải là những truyền thống cở bản như ma chay hiếu hỷ. Bạn cần nêu những truyền thóng đặc sắc, rõ nét văn hóa gia đình xưa. Tóm lại là những truyền thống xoay quanh văn hóa gia đình xưa, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
2.2. Mô hình gia đình.
2.2.1. Mô hình gia đình ít con.
2.2.2. Mô hình gia đình đông con
(gợi ý: Trước đây, ông ta thường có quan niệm nhà nào đông con là nhà đó có nhiều phúc Quan niệm này một phần bị ảnh hưởng từ sự phân chia ruộng đất, ruộng được chia theo đầu người, vì vậy gia đình nào có đông người thì gia đình đó sẽ có nhiều ruộng đất, có nhiều người làm ruộng, làm việc nhà. Như vậy gia đình sẽ được no ấm, đuề huề, có phúc Điều này lý giải vì sao khi tết đến nhiều gia đình Việt thường bày quả sung trên bàn thờ gia tiên là để cầu chúc cho gia đình luôn được sung túc, các con cháu trong gia đình luôn quây quần bên nhau. Mặt khác việc trọng nam khinh nữ trong thời kỳ trước đã khiến nhiều gia đình đẻ cố, đẻ thêm nhiều con để đẻ được con trai dẫn đến tình trạng đông con trong gia đinh. Hiện nhà nước ta đang co những khẩu hiệu “dù gái hay trai chỉ hai là đủ” ; “Hãy dừng lại hai con để nuôi dạy cho tốt”
2.2.3. Tứ đại đồng đường.
Nhiều thế hệ trong một gia đình ở với nhau.
*** Yêu cầu:
- Trong phần này bạn nêu rõ,các thành phần cấu tạo trong từng mô hình.Ví dụ: mô hình gia đình ít con là: thường có 2 vợ chồng và từ 1_2 con).
- Nêu ưu, nhược điểm và sự ảnh hưởng của từng mô hình. Ví dụ 1: Với mô hình ít con thì kinh tế gia đình sẽ ổn định hơn, các con được nuôi dạy tốt hơn, được quan tâm hơn. Tuy nhiên gia đình ít con dễ dẫn đến tình trạng nuông chiều sinh hư, đòi hỏi, không biết quan tâm đến người khác mà chỉ quen được người khác quan tâm; hay việc chăm sóc kỹ quá khiến trẻ mất đi tính tự lập của bản thân. Điều này có ảnh hưởng nghiêm trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ sau này với những thói quen xấu như ỷ lại gia đình, lười lao động, đòi hỏi, không biết quan tâm đến người khác, như vậy người đầu tiên chịu ảnh hưởng của kết quả giáo dục như vậy chính là người làm cha, người làm mẹ. VD 2: Trong mô hình của gia đình đông con có mặt lợi đó là đông vui, con cái lớn sẽ biết giúp đỡ cha mẹ trong việc nhà cũng như trông nom các em bé hơn. Sự yêu thương, chiều chuộng cũng sẽ được chia sẻ cho nhiều thành viên trong gia đình vì vậy sẽ không dẫn tới chuyện nuông chiều thái quá như mô hình gia đình ít con. Vì gia đình đông con nên sẽ gây ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình, chi tiêu bị hạn chế, trong điều kiện này cũng sẽ tạo điều kiện giáo dục cho con cái cách chi tiêu sao cho hợp lý, tiết kiệm, tránh lãng phí, biết yêu thương, chia sẻ cũng như đùm bọc lẫn nhau trong những lúc khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên với gia đình đông con cha mẹ sẽ phải làm việc nhiều hơn để có thu nhập cho gia đình, cha mẹ không thể quản lý hết các con của mình, không có thời gian chăm sóc cho gia đình, thiếu sự giáo dục của gia đình, con cái lêu lổng ngoài xã hội, dễ bị lôi cuốn vào những tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, móc túi, cờ bạc, mại dâm VD3:mô hình tứ đại đồng đường là nhiều thế hệ trong một gia đình sống với nhau.điều này giúp các thành viên trong gia đình cũng như trong họ hàng hiểu nhau, tiếp xúc với nhau nhiều hơn, tình cảm mật thiết hơn, tránh trường hợp giữa ông bà và con cháu có những khoảng cách không đáng có. Tuy nhiên, do va chạm và tiếp xúc với nhau nhiều, trong thời gian sinh hoạt dễ xảy ra những mâu thuẫn gia đình do tranh chấp quyền lợi, tài sản .dẫn đến nạn nứt tình cảm trong gia đình, dòng họ.
2.3. Văn hóa gia đình trong đời sống hiện nay.
2.3.1. Những thách thức đối với văn hóa gia đình trong đời sống hiện nay.
2.3.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa gia đình:
a. Truyền thông ( Quảng cáo, ca nhạc, phim nước ngoài )
b. Văn hóa phương tây ( 1 phần bắt nguồn từ những du học sinh của Việt Nam về nước và cả những du học sinh của nước ngoài đến Việt Nam, có ảnh hưởng rất nhanh đến lối sống, văn hóa nói chung và văn hóa gia đình nói riêng theo hai chiều hướng tích cực và tiêu cực).
c. Kinh tế thị trường.
d. Giáo dục.
e. Công nghệ thông tin, internet.
f. Công việc.
Trong thời kỳ CNH-HĐH con người cũng dần thích nghi với điều kiện sống, cũng trở nên công nghiệp, nhịp sống trở nên nhanh, không còn mang tính chất ổn định như trước. Lối sống nhanh, vội kéo theo đó là ăn nhanh, làm nhanh các dịch vụ phát triển, thời gian làm việc kéo dài, không chỉ làm việc tại công ty, cơ quan nhà nước mà còn phải làm thêm để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Không chỉ vậy, ngày nay học ngoài việc học các học dinh, sinh viên còn tích cực đi làm thêm sẽ thường không ăn cơm nhà, tích cực ăn ngoài hàng. Các thành viên trong gia đình không có thời gian gặp gỡ , tâm sự.tạo điều kiện xây dựng khoảng cách giữa các thành viên . Mặt khi làm việc nhiều hơn , có nhiều thời gian tiếp xúc với đồng nghiệp khác giới dễ nảy sinh những tình cảm nơi công sở là một vấn đề đang diễn ra rất phổ biến tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Chương III: Những giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy văn hóa gia đình trong gia đình hiện nay.
3.1. Những giá trị tích cực trong văn hóa gia đình.
3,2, Những giá trị tiêu cực trong văn hóa gia đình.
3.3. Phát huy những giá trị của văn hóa gia đình trong gia đình hiện nay.
- dựa trên những giá trị tích cực và tiêu cực trong văn hóa gia đình đã nêu trên, phải nhân thức được vai trò cũng như tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người, từ đó phát huy những mặt mạnh vốn có, loại bỏ hoặc cải cách những giá trị tiêu cực, áp dụng những giá trị tích cực trong cuộc sống hiện đại. tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách chọn lọc
59 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 9011 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biến đổi trong văn hóa gia đình ở Hà Nội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề xướng, mỗi gia đình Việt Nam đang có những đổi thay về cơ bản so với gia đình truyền thống trước đây. Trong mỗi gia đình thời hiện đại, vợ chồng được bình đẳng với nhau. Cha mẹ và con cái có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi trên cơ sở ràng buộc của luật pháp Nhà nước. Không còn tồn tại cơ chế gia trưởng, phương pháp bạo lực trong gia đình. Con cái phải tôn trọng cha mẹ, nhưng cha mẹ cũng không được làm nhục con cái. Pháp luật không thừa nhận quyền trưởng nam, mà mọi người con trong gia đình đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau đối với gia đình và xã hội.
Yếu tố cơ bản của gia đình phương Đông nói chung và gia đình Việt Nam nói riêng kể cả xưa và nay đều rất tôn trọng tình ruột thịt giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc. Tinh thần truyền thống đó chính là cơ sở để duy trì và phát huy các mối quan hệ cư xử tốt đẹp trong đời sống hiện đại ngày nay. Đó cũng là cái gốc rễ để chúng ta xây dựng thành công mô hình gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.
Gia đình truyền thống có các ưu điểm là có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống, bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa gia đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình này là ở chỗ trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn cả những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông bà – các cháu, giữa mẹ chồng – nàng dâu… Bên cạnh việc duy trì được tinh thần cộng đồng, gia đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân. Trong điều kiện của xã hội hiện đại "một ngày bằng hai mươi năm" loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và chậm thích ứng. Điều này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống kiểu đại gia đình giảm đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày nay.
2.1.1. Truyền thống cưới hỏi.
Dù trải qua những năm tháng lịch sử dân tộc, tiếp thu nền văn hóa phương Tây hay cách tân theo sự phát triển của thời đại nhưng đám cưới vẫn giữ trong mình phong vị riêng của cuộc sống cộng đồng xưa. Những nét đẹp đó vẫn được lưu truyền, trường tồn và phát triển.
Cưới là một phong tục, một nghi lễ đậm phong vị dân tộc nhưng lại nhiêu khê tốn kém. Phần lớn các đám cưới cổ xưa của người Việt thường được tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ – cuốn sách dạy người ta những việc về quan, hôn, tang, tế. Về sau tuỳ từng vùng, từng thời, từng gia cảnh mà việc hỷ (cưới) được tổ chức khác nhau. Nhưng cho dù là ở đâu, thời nào thì một đám cưới truyền thống cũng gồm các thủ tục, các bước chính là: kén chọn, giạm ngõ (chạm mặt), hỏi, cưới, lại mặt và nộp cheo.
Theo các phong tục ngày xưa, nghi lễ trong cưới hỏi phải gồm đủ sáu lễ. Đó là lễ "Nạp thái" (người mai mối đem ý định kết sui gia của nhà trai đến thưa chuyện với nhà gái). Lễ tiếp theo là "Vấn danh" (hỏi tên tuổi cô gái, cốt để nhờ thầy xem tuổi hai người xung hay hạp). Lễ thứ ba là "Nạp cát" (đưa tin vui, tức là tin về sự hợp tuổi, hai gia đình có thể tiến tới việc hôn nhân). Lễ thứ tư là "Nạp trưng" (nạp những lễ vật cần thiết đối với nhà gái). Lễ thứ năm là "Thỉnh kỳ" (nhà trai xin ngày cử hành hôn lễ) và lễ cuối cùng là "Thân nghing" (đón dâu).
Nhưng ngày nay, chúng ta đã giản lược chỉ còn ba lễ chính: Chạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới.
- Lễ chạm ngõ: Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ chạm ngõ ngày nay không còn theo lối xưa, mà chỉ là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được tự do đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mai mối và cũng không cần lễ vật rườm rà. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như đã có nơi có chốn.Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thông qua đó hai gia đình có thể biết rõ về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp tục hay không quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ chạm ngõ theo truyền thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau.Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, không có khởi đầu. Vì thế, tuy không phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hôn lễ. Hơn nữa, lễ này không tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản sắc văn hóa dân tộc thì việc bỏ qua là điều không hợp lý.
- Lễ ăn hỏi: Có thể nói, lễ ăn hỏi là một thông báo chính thức về sự kết giao của hai gia đình và hai họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi.Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, nó đã bao hàm cả lễ dẫn cưới. Chính vì thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cưới. Lễ vật của lễ ăn hỏi thường là: cau tươi, bánh cốm, chè, rượu, bánh xu xê (phu thê), phong bì tiền… những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền. Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới có thể hiểu là để thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại. Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai. Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự.
- Lễ cưới: Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, nên có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được dư luận xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Ý nghĩa của lễ này là: Công bố sự thành hôn của đôi trai gái (còn được gọi là lễ Thành hôn). Lễ cưới bao gồm các nghi thức sau: Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân trong gia đình đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu để báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp. Lễ rước dâu: Dù đoàn rước dâu của nhà trai có đi bằng phương tiện gì chăng nữa thì trước khi vào nhà gái cũng phải “chấn chỉnh đội hình”. Thông thường, đi đầu là đại diện nhà trai (là người khéo ăn, khéo nói, có vị thế xã hội); tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè (ở Việt, mẹ chồng thường không đi cùng để đón con dâu). Đoàn rước dâu cũng không cần đông người lắm, vì nếu đông quá nhà gái có thể sẽ không đủ chỗ tiếp; và quan trọng hơn là tạo điều kiện để nhà gái không bị động, không bị bất ngờ trong khi nghênh tiếp. Sau khi đã vào nhà gái, nhà trai được mời an tọa. Hai bên giới thiệu nhau, sau một tuần trà, đại diện nhà trai đứng dậy có vài lời với nhà gái xin chính thức được rước cô dâu về. Khi được “các cụ” cho phép, thì chú rể mới được vào phòng trong để trao hoa cho cô dâu, cùng cô dâu đến trước bàn thờ thắp nén hương rồi ra chào bố mẹ, họ hàng hai bên. Cha mẹ cô dâu dặn dò đôi vợ chồng trẻ về cách sống, về tình yêu thương, về đạo lý vợ chồng. Sau đó, vị đại diện nhà trai sẽ đáp lời thay chú rể và xin rước dâu lên xe. Nhà gái sẽ cùng theo xe hoa về nhà trai dự tiệc cưới. Về đến nhà trai, việc đầu tiên là cô dâu và chú rể được cha mẹ dẫn đến bàn thờ để thắp hương yết tổ (lễ gia tiên), rồi chào họ hàng bên chồng. Sau đó, cô dâu được dẫn vào phòng cưới, ngồi lên chiếc giường cưới do một người được nhà trai chọn sẵn (mắn con) trải chiếu. Cuối cùng, nhà trai mời nhà gái và tất cả những người cùng tham dự tiệc cưới…
Theo quan niệm dân gian thì cưới xin là một nghi thức lớn và quan trọng nhất trong cuộc đời của mỗi con người, đồng thời nó cũng thể hiện nét văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia. Ngày nay, tục lệ cưới xin đã có phần đơn giản, nhanh gọn và tiết kiệm hơn nhiều, nhưng không vì thế mà mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc...
2.1.2. Truyền thống đạo Hiếu
“Hiếu” được hình thành từ xa xưa, về sau được Nho giáo phát triển và thể chế hoá thành chuẩn mực đạo đức. Về cơ bản, nội dung phạm trù “hiếu” mang một ý nghĩa tích cực, đó là bổn phận làm con phải có hiếu với cha mẹ. Trong việc thực hành đạo hiếu, người Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, song đạo hiếu ở Việt Nam vẫn có nét đặc sắc riêng, không hà khắc và cứng nhắc như trong quan niệm của Nho giáo. Đặc biệt, truyền thống “hiếu” của dân tộc được kế thừa và nâng cao trong tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh. Ở Người, phạm trù“hiếu” được chuyển đổi mang tính cách mạng. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trò của chữ “hiếu” trong gia đình cũng như ngoài xã hội; kế thừa, phát triển “hiếu” theo tinh thần Hồ Chí Minh, gắn với yêu cầu của xây dựng gia đình văn hoá mới.
Đã từ lâu, cha ông ta hết sức coi trọng việc giáo dục đạo lý làm người cho con cháu, mà trước hết là phải lấy chữ hiếu làm đầu. Bởi lẽ, một con người mà không có hiếu đối với ông bà, cha mẹ, không biết yêu thương, kính trọng những người sinh thành dưỡng dục mình, thì khi ra ngoài xã hội, con người ấy khó trở thành người có tình cảm, biết yêu thương những người xung quanh. Trách nhiệm, nghĩa vụ đối với ông bà, cha mẹ được cô đúc trong khái niệm hiếu. Hiếu không những được xem là đứng đầu của đức hạnh, mà còn là cội nguồn để có được phúc thiện. Theo đó, mỗi cá nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc, chuẩn mực đạo đức của gia đình, gia tộc, tuân theo nề nếp gia phong “trên kính dưới nhường”, khác đi đều bị coi là bất hiếu.
Trong giai đoạn đầu của Nho giáo, quan niệm về hiếu có những nét tích cực nhất định. Ví như Khổng Tử nói: “Trong khi cha mẹ còn sống phận làm con chớ có đi chơi xa. Nếu đi chơi đâu thì thưa trước cho cha mẹ biết”. Hoặc khi cha mẹ làm điều gì trái với đạo thì con cái phải dùng cách ôn hoà mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe thì lại tỏ lòng cung kính và hiếu thảo, rồi dần lựa cách mà nói cho cha mẹ biết lẽ phải để sửa đổi lại. Đó là những nét mang tính nhân văn, nó không chỉ cần cho xã hội Nho giáo xưa mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ đạo hiếu với cha mẹ ở xã hội hiện đại ngày nay. Nho giáo cũng cho rằng, những người con có hiếu còn là những người biết khéo tiếp nối được cái chí của cha mẹ, biết khéo noi gương được việc làm của cha mẹ, biết phân biệt để xem những cái nào hay thì theo, cái nào dở thì bỏ. Khổng Tử nói: “Xét người con thì khi cha còn sống, xem chí hướng của người ấy, khi cha chết thì xem hành vi của người ấy. Ba năm không thay đổi so với đạo của cha, thì có thể gọi là hiếu vậy”.
Trong dân gian, đạo hiếu được thể hiện ngay trong những lời ru từ khi con người mới sinh ra, còn nằm trong nôi. Nội dung chữ hiếu trong dân gian đơn giản, thiết thực, bất kỳ ai cũng có thể thực hiện được, chỉ cần có tấm lòng hiếu thảo thực tâm. Đó là sự quan tâm, chăm sóc, cầu mong cha mẹ khoẻ mạnh, sống lâu, vui vẻ. Đó cũng là những cố gắng gìn giữ, phát huy nề nếp, gia phong, là sự biết ơn ông bà tổ tiên và sự chăm sóc các thế hệ sau. Bởi bất cứ ai tồn tại trên cõi đời đều được sinh ra từ cha mẹ mình. Thể hiện đạo hiếu với cha mẹ không chỉ là bổn phận, trách nhiệm của người làm con, mà còn là quyền lợi thiêng liêng và cao cả của mỗi người. Việc giáo dục đạo hiếu giúp con cái thấy được bổn phận làm con, giữ đúng vị trí của mình trong gia đình là vấn đề hết sức quan trọng trong giáo dục gia đình từ xưa đến nay. Không chú tâm tới giáo dục đạo hiếu trong gia đình là thiếu sót, quên lãng cái nền móng thiết yếu nhất của đạo đức xã hội và con người.
Trong thực tế đầy biến động của xã hội hiện nay, bên cạnh những tấm gương hiếu thảo, những tấm lòng nhân nghĩa, ân tình với cha mẹ, thì vẫn còn đó nhiều người con đã có thái độ bất nhân, bất nghĩa, thiếu tôn trọng hoặc có hành vi hỗn láo, vô đạo đức với cha mẹ. Một số người coi việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ như một gánh nặng. Một số người khác lại nghĩ rằng, chỉ cần đóng góp tiền bạc để nuôi dưỡng cha mẹ là đã làm tròn bổn phận của người con. Có những gia đình kinh tế khó khăn, điều kiện vật chất eo hẹp nên không có điều kiện hoặc thường lảng tránh việc chăm sóc cha mẹ. Nhưng cũng có những người rất giàu có thì lại báo hiếu chỉ bằng cách thuê những người xa lạ về chăm sóc cha mẹ, để cha mẹ sống trong buồn tủi, cô đơn.
Những hiện tượng tích cực và tiêu cực về đạo hiếu trong gia đình đang xảy ra trong xã hội hiện nay đã đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc mà chúng ta phải giải quyết. Bên cạnh việc phát huy, nêu gương những tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, thì chúng ta cũng cần phải lên án và phê phán các hiện tượng con cái ngược đãi cha mẹ. Muốn thực hiện được điều đó, chúng ta phải nâng cao hơn nữa vai trò của giáo dục chữ hiếu trong giai đoạn hiện nay. Nếu từ xa xưa, cha ông ta đã rất coi trọng và rèn giũa chữ hiếu thì ngày nay, chúng ta phải ra sức nâng niu, trân trọng và gìn giữ nó.
Thực hiện đạo hiếu trong gia đình, chúng ta sẽ nối được nghiệp nhà, làm rạng rỡ tổ tông và góp phần cho sự ổn định, phát triển của xã hội. Chữ hiếu từ xưa đến nay không trực tiếp tạo nên mức tăng trưởng GDP mỗi năm của Việt Nam, nhưng lại có một ý nghĩa hết sức lớn lao là đã tạo ra những con người Việt Nam nghĩa tình, hiếu thảo. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định vai trò của chữ hiếutrong gia đình cũng như ngoài xã hội; kế thừa, phát triển hiếu theo tinh thần Hồ Chí Minh, gắn với việc xây dựng gia đình văn hoá mới đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá xã hội và xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2.1.3. Truyền thống thờ cúng tổ tiên
Theo truyền thống của người Việt thì gia đình nào cũng có ban thờ để thờ cúng tổ tiên, ông bà không kể giàu nghèo hay địa vị xã hội. Thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt và bàn thờ tổ tiên là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong gia đình thờ cúng ông bà tổ tiên để luôn nhắc nhở con cháu rằng : "cây có cội, nước có nguồn", vì nhớ ơn mà phải cố gắng gắng giữ lấy "nếp nhà" (gia phong) và phấn đấu theo nguyện vọng ông bà là "con hơn cha, nhà có phúc".
Nói về truyền thống thờ cúng ở Việt Nam, một trang web nước ngoài viết: “Thờ cúng tổ tiên ông bà là tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây liên kết rắn rỏi để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác”. Nhà dân tộc học người Nga G.G. Stratanovich cũng có cách nhìn nhận tương tự. Người Việt Nam dù theo Phật giáo, Đạo giáo hay Kitô giáo, nhất thể đều thờ cúng tổ tiên. Đó là một phần máu thịt vẫn ngày đêm rong ruổi trong huyết quản để nuôi sống cả cơ thể đạo đức gia đình. Vào bất kì một gia đình người Việt nào cũng thấy bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Ngày lễ tết, ngày tế tự hay các dịp hiếu hỷ khác, con cháu quây quần trước là kính cẩn vong linh ông bà tổ tiên, sau là sưởi ấm quan hệ gia đình, dòng họ.
Vong linh ông bà tổ tiên nơi chín suối kia có biết được tấm lòng hiếu thảo của con cháu hay không là điều nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, song giá trị đọng lại trong nhận thức của từng thành viên là vô cùng quý giá. Đạo thờ ông bà không chỉ là một sợi dây linh thiêng gắn kết gia đình, dòng tộc, mà qua đó mỗi thành viên đều được giáo dục đạo đức truyền thống gia đình. Người Việt Nam và các nước phương Đông coi trọng ngày mất và ngày giỗ của tổ tiên, thể hiện của tinh thần coi trọng quá khứ và di sản từ quá khứ. Có hai ý nghĩa lớn hình thành nên đạo thờ này ở phương Đông, một là quan niệm chữ hiếu đối với thế hệ đi trước, qua các nghi lễ thể hiện mong muốn ông bà tổ tiên có một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia, bên cạnh đó, họ cũng mong muốn được vong linh tổ tiên che chở, “chỉ đạo” trước những khúc mắc của cuộc sống phàm trần, và hai là ý nghĩa giáo dục dành cho người còn sống.
Như vậy thờ cúng tổ tiên ở đây không chỉ là tín ngưỡng dân gian bình thường mà nó trở thành như là một tập quán sống có đạo lý của người Việt Nam xưa nay, đó là tinh thần đề cao việc nhân nghĩa, thủy chung, "uống nước nhớ nguồn", "ăn trái nhớ người trồng cây" và hơn nữa nó còn như là hạt nhân quan trọng liên kết các giá trị căn bản trong nền văn hóa truyền thống Việt Nam .
2.2 Mô hình gia đình
Mô hình phổ biến của gia đình Việt Nam thường là hai, ba thế hệ nhưng thời trước còn có những gia đình bốn, năm thế hệ (gọi là “tứ ngũ đại đồng đường”). Tuy nhiên gia đình Việt Nam vẫn gắn bó chặt chẽ hơn: “có thể người ta không nhìn thấy bất cứ dân tộc nào trên trái đất này một sự gắn bó hoàn hảo trong gia đình, một tình cảm sâu sắc như ở dân tộc An Nam.”
Cùng với sự biến động về quy mô gia đình là sự biến động về loại hình (mô hình) gia đình đang diễn ra trong đời sống cư dân đô thị nước ta hiện nay nói chung và cư dân Hà Nội nói riêng. Ngoài các loại hình gia đình hạt nhân, gia đình mở rộng, gia đình thiếu khuyết của xã hội truyền thống, đã xuất hiện nhiều kiểu loại mới chưa từng có trước đây (kiểu loại gia đình cũ cũng có sự biến đổi).
2.1.1 Mô hình ít con
Ngày nay ở Hà Nội, mô hình gia đình ít con ngày càng chiếm tỉ lệ cao (66%), thường có hai vợ chồng và từ một đến hai con.Nguyên nhân:
+ Sự phát triển kinh tế, xã hội ở đô thị tạo điều kiện cho sự tách hộ của các gia đình thời bao cấp trước đây, chẳng hạn vấn đề nhà ở đã được cải thiện một bước.
+ Thanh niên nông thôn thoát ly gia đình ra thành phố đến các khu công nghiệp học tập, làm ăn, công tác rồi kết hôn với nhau (với người thành phố tạo nên những gia đình hạt nhân mới.
+ Tâm lý của lớp trẻ khi lập gia đình muốn tự do, tự chủ trong kinh tế, trong cuộc sống dẫn tới sự tách hộ ra ở riêng.
Gia đình ít con ở đô thị có cơ cấu gọn nhẹ (quy mô từ 4-5 người gồm hai thế hệ là chủ yếu) nên dễ cơ động (thay đổi chỗ ở, nơi làm việc) linh hoạt và có khả năng thích ứng với các biến động kinh tế - xã hội. Những đặc điểm trên làm cho gia đình ít con ở đô thị hiện nay (ở trạng thái động) khác với gia đình ít con trước đây (ở trạng thái tĩnh).
Mô hình gia đình ít con hay còn gọi là gia đình đơn đang trở nên phổ biến ở các độ thị và cả ở nông thôn, thay cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai trò chủ đạo. Gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn là gia đình hạt nhân trong đó chỉ có một cặp vợ chồng (bố mẹ) và con cái mà họ sinh ra. Xu hướng hạt nhân hoá gia đình ở Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng vì nhiều ưu điểm và lợi thế của nó.
Trước hết, gia đình ít con tồn tại như một đơn vị độc lập, gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng thích ứng nhanh với các biến đổi xã hội, có sự độc lập về quan hệ kinh tế. Kiểu gia đình này tạo cho mỗi thành viên khoảng không gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Vai trò cá nhân được đề cao. Tuy nhiên, gia đình ít con cũng có những điểm yếu nhất định. Chẳng hạn, do mức độ liên kết giảm sút và sự ngăn cách không gian giữa các gia đình nên khả năng hỗ trợ lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế. Ảnh hưởng của các thế hệ tới nhau ít đi cũng làm giảm khả năng kế thừa, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong gia đình. Ngoài ra, do gia đình hạt nhân ít con, cháu nên điều kiện, thời gian chăm sóc, gần gũi thể hiện tình cảm của con cháu đối với cha mẹ, ông bà ít hơn. Điều này càng thể hiện rõ khi xã hội phát triển thì các điều kiện bảo trợ, chăm sóc cho người già, người cao tuổi nhiều hơn thì khoảng cách gắn kết tình cảm gia đình càng lớn. Dù vậy, gia đình ít con vẫn là loại hình khá phổ biến ở nước ta hiện nay và đó cũng là loại gia đình thịnh hành trong các xã hội công nghiệp, đô thị phát triển.
Quan điểm, mục tiêu về Chiến lược xây dựng Gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010 của Thủ tướng Chính phủ ngày 16-5, xác định rõ: Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng gia đình Việt Nam ít con (mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2.2. Mô hình gia đình đông con
Trước đây, ông ta thường có quan niệm nhà nào đông con là nhà đó có nhiều phúc…Quan niệm này một phần bị ảnh hưởng từ sự phân chia ruộng đất, ruộng được chia theo đầu người, vì vậy gia đình nào có đông người thì gia đình đó sẽ có nhiều ruộng đất, có nhiều người làm ruộng, làm việc nhà. Như vậy gia đình sẽ được no ấm, đuề huề, có phúc…Điều này lý giải vì sao khi tết đến nhiều gia đình Việt thường bày quả sung trên bàn thờ gia tiên là để cầu chúc cho gia đình luôn được sung túc, các con cháu trong gia đình luôn quây quần bên nhau. Mặt khác việc trọng nam khinh nữ trong thời kỳ trước đã khiến nhiều gia đình đẻ cố, đẻ thêm nhiều con để đẻ được con trai dẫn đến tình trạng đông con trong gia đình. Hiện nhà nước ta đang có những khẩu hiệu góp phần giảm bớt tình trạng dân số tăng nhanh như: “Thực hiện kế hoạch hóa gia đình”; “dù gái hay trai chỉ hai là đủ” ; “Hãy dừng lại hai con để nuôi dạy cho tốt”.
Trong mô hình của gia đình đông con có ưu điểm đó là đông vui, con cái lớn sẽ biết giúp đỡ cha mẹ trong việc nhà cũng như trông nom các em bé hơn. Sự yêu thương, chiều chuộng cũng sẽ được chia sẻ cho nhiều thành viên trong gia đình vì vậy sẽ không dẫn tới chuyện nuông chiều thái quá như mô hình gia đình ít con. Vì gia đình đông con nên sẽ gây ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình, chi tiêu bị hạn chế, trong điều kiện này cũng sẽ tạo điều kiện giáo dục cho con cái cách chi tiêu sao cho hợp lý, tiết kiệm, tránh lãng phí, biết yêu thương, chia sẻ cũng như đùm bọc lẫn nhau trong những lúc khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên với gia đình đông con cha mẹ sẽ phải làm việc nhiều hơn để có thu nhập cho gia đình, cha mẹ không thể quản lý hết các con của mình, không có thời gian chăm sóc cho gia đình, thiếu sự giáo dục của gia đình, con cái lêu lổng ngoài xã hội, dễ bị lôi cuốn vào những tệ nạn xã hội như: Trộm cắp, móc túi, cờ bạc, mại dâm…
Mặt khác, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ.
2.2.2 Mô hình gia đình tứ đại đồng đường
Ngày xưa, “tam đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường” – nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà, thường là điển hình của những gia đình có phúc đức, có nền nếp gia giáo.
Mô hình này hay còn được gọi là gia đình mở rộng, gia đình lớn, gồm ba, bốn thế hệ trở lên (ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt) cùng chung sống. Đây là kiểu gia đình mở rộng từ gia đình hạt nhân. Theo số liệu 2003 của trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ ở thành phố Hà Nội loại hình này chiếm tỉ lệ 35%. Điều này được xác định bởi những nhu cầu của các cặp vợ chồng trẻ ở đô thị muốn chung sống với bố mẹ chồng hoặc bố mẹ vợ để thế hệ già có thể đỡ đần họ trong việc chăm sóc, nuôi dậy các cháu nhỏ, mặt khác cũng phản ánh tình trạng khó khăn về nhà ở, do vậy các cặp vợ chồng, cha mẹ và con cái, cháu chắt chưa có điều kiện ra ở riêng.
Gia đình tứ đại đồng đường ở Việt Nam được các nhà nghiên cứu cho là loại hình gia đình chứa nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nôi văn hoá bản địa, được bảo lưu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Về ưu điểm của gia đình tứ đại đồng đường: có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống, bảo tồn, lưu giữ được các truyền thống văn hoá, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ, gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần, chăm sóc người già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hoá gia đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên, nhược điểm của loại hình gia đình này là trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp cũng tồn tại những tập tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra, sự khác biệt về tâm lý, tuổi tác, lối sống, thói quen cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông bà - các cháu; giữa mẹ chồng - nàng dâu... Bên cạnh việc duy trì được tinh thần cộng đồng, gia đình tứ đại đồng đường phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
2.3. Văn hóa gia đình trong đời sống hiện nay.