Đề tài Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI và ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005

Mở đầu 1

Chương I: Một số lý luận chung về FDI và ODA 2

I. Về nguồn vốn FDI 2

1. Khái niệm 2

2. Tầm quan trọng của FDI 2

II. Tổng quan về nguồn vốn ODA 4

1. Khái niệm 4

2. Vai trò của ODA trong phát triển kinh tế 5

3. Vai trò của nguồn vốn ODA trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài-kinh nghiệm từ các nước Đông Nam Á 7

III. Sự cần thiết huy động vốn FDI và ODA ở Việt Nam 9

 

Chương II: Thực trạng vốn FDI và ODA tại Việt Nam trong những năm vừa qua 10

I. Tình hình huy động vốn nước ngoài 10

1. FDI trong phát triển kinh tế Việt Nam 10

2. Thực trạng thu hút ODA 15

II. Những tồn tại và khó khăn trong thu hút vốn nước ngoài 19

1. Khó khăn ngoài nước 19

2. Những tồn tại và vướng mắc trong nước 19

 

Chương III: Phương hướng và giải pháp thu hút vốn FDI và ODA phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005 26

I. Những mục tiêu cơ bản phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005 26

1. Các mục tiêu phát triển kinh tế và yêu cầu về nguồn vốn 26

2. Xu hướng đầu tư quốc tế 28

II. Một số phương hướng và giải pháp thu hút vốn nước ngoài 28

1. Những giải pháp nhằm thu hút vốn FDI có hiệu quả 28

2. Những giải pháp trong thu hút và vận động vốn ODA 34

Kết luận 37

T

doc39 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI và ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP tăng từ 6,4% năm 1994 lên 8,6% năm 1997 và xấp xỉ 9,2% năm 1998. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường từ 15-20%, cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 52 triệu USD năm 1991 lên 1990 triệu USD năm 1998, xấp xỉ 40 lần. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trung bình chung của cả nước. Về lao động. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 400.000 lao động vào làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,... và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động gián tiếp khác, giảm bớt được áp lực của vấn đề thất nghiệp hiện đang nổi cộm, cơ cấu lại nguồn lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn có cơ hội được đào tạo nâng cao trình độ, tay nghề. Về công nghệ kỹ thuật. Nhiều công nghệ kỹ thuật tiên tiến đã được chuyển giao và đưa vào hoạt động thông qua các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong đó thể hiện rõ nhất là các thiết bị và kỹ thuật trong ngành bưu chính viễn thông, công nghệ lắp ráp và chế tạo ô tô, kỹ thuật điện tử, tin học, công nghệ thăm dò khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp hoá chất. Các ngành nghề, lĩnh vực được đầu tư công nghệ hiện đại hoạt động với năng suất cao, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cùng với công nghệ kỹ thuật mới được du nhập vào nước ta, hoạt động chuyển giao phương thức quản lý hiện đại, trình độ cao cũng được tiến hành. Vì thế năng lực và trình độ của cán bộ quản lý Việt Nam được nâng lên đáng kể. Về tình hình thu nộp Ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ 1988 đến 1998, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước khoảng 64.852 tỷ đồng, chiếm 19% tổng số thu về thuế và phí của ngân sách Nhà nước, cụ thể như sau: Thu từ lĩnh vực dầu khí: số thu nộp ngân sách từ lĩnh vực dầu khí chiếm tới 70,6% số thu của cả khu vực FDI, đạt 45.780 tỷ đồng (số liệu của giai đoạn 1998 trở về trước), trong đó 35,7% là thuế tài nguyên, 33,7% là thuế lợi tức, 1,1% thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, 29,5% là lãi bên Việt Nam được chia nộp ngân sách. Thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác: Số thu từ các doanh nghiệp này tăng với tốc độ 1995 - 85%, 1996 - 42%, 1997 – 46%, 1998 – 7,9%. Trong giai đoạn 1997-1998 mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nhưng số thuế lợi tức vẫn tăng từ 685.366 triệu đồng lên đến 716.110 triệu đồng. 2. Thực trạng thu hút ODA. Trong những năm qua, nguồn vốn ODA vào nước ta tăng không ngừng. Trải qua 8 Hội nghị quốc tế về ODA dành cho Việt Nam, các khoản cam kết ODA dành cho nước ta từ 1993 đến 2000 lên tới 17,5 tỷ USD và 1,2 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế, trong đó phần viện trợ không hoàn lại chiếm gần 25%. Đặc biệt hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 9 (7-8/12/2001) đã tuyên bố cộng đồng thế giới cam kết tài trợ cho Việt Nam khoản vốn vay 2,4 tỷ USD trong năm 2002 để tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của mình. Trong khi nguồn vốn này trên thị trường quốc tế rất có hạn và bị cạnh tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển thì lượng vốn vào Việt Nam như vậy là rất khả quan. Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam. Các nhà tài trợ chính về vốn ODA cho Việt Nam là Nhật Bản, Australia, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển,... Ngoài ra còn có các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu á (ADB), Liên minh châu Âu (EU), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),... Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt Nam có gần 30 đối tác hợp tác phát triển song phương và 15 đối tác hợp tác phát triển đa phương; hơn 300 các tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, ba nhà tài trợ lớn nhất chiếm gần 80% tổng vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam là Nhật Bản, ADB và WB. Nhật Bản là một trong những nước có khối lượng ODA lớn và cũng là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam. Nhật Bản bắt đầu các chương trình viện trợ cho Việt Nam từ tháng 11/1992. Tính đến nay, Nhật Bản đã cam kết tài trợ cho Việt Nam khoảng 6 tỷ USD, trong đó có các khoản vay ưu đãi đã ký khoảng 5,3 tỷ USD. Vốn vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm trong đó có 10 năm ân hạn. Các hình thức tài trợ chủ yếu là: vay với điều kiện ưu đãi, viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp hàng hoá, nhưng hình thức phổ biến nhất là tín dụng ưu đãi và viện trợ không hoàn lại. Tín dụng ưu đãi thường có mức lãi suất thấp từ 0,25% đến 2,3%. WB bắt đầu thiết lập quan hệ với Việt Nam từ tháng 10/1993 và cam kết tài trợ cho Việt Nam các khoản tín dụng trên 2,6 tỷ USD với thời hạn vay 40 năm trong đó có 10 năm ân hạn, lãi suất 0%, chi phí quản lý 0,75%/năm. Nguồn vốn của WB dùng đầu tư các dự án giao thông vận tải, thuỷ lợi, nông nghiệp và phát triển nông thôn, năng lượng, giáo dục, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. ADB là tổ chức lớn thứ ba cho Việt Nam vay các khoản tín dụng ưu đãi từ Quỹ phát triển châu á (ADF). Với những nỗ lực trong công cuộc đổi mới kinh tế, Việt Nam được hưởng đặc ân, xếp trong nhóm thành viên được vay vốn vay ưu đãi của ADB. ADB đã cam kết cho Việt Nam vay 1,6 tỷ USD vốn tín dụng để đầu tư cho 19 dự án, thời hạn cho vay 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, lãi suất 0%, chi phí quản lý 1%/năm. Ngoài ra còn có 70 khoản trợ giúp kỹ thuật trị giá 47 triệu USD không hoàn lại. Từ 1999, Việt Nam được chuyển từ nhóm A lên B1 nên phải vay một phần từ nguồn vốn thông thường (OCR) với lãi suất thị trường và thời gian ngắn hơn. Nguồn ADF cũng giảm bớt tính ưu đãi, thời gian vay còn 32 năm, trong đó có 8 năm ân hạn, chi phí quản lý sẽ nâng lên 1,5% cho thời kỳ sau khi hết thời gian ân hạn. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của ADB dùng để hỗ trợ cho việc cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tăng cường thể chế và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, hợp tác tiểu vùng và tiểu vùng Mêkông mở rộng nhằm phối hợp chung các nước trong tiểu vùng. Ngoài ra, nguồn vốn ODA của ADB còn hỗ trợ cho đầu tư tư nhân, cổ phần hoá và cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Từ 1993 đến 2000 ta đã ký các hiệp định nhằm thực hiện các cam kết. Nguồn vốn mà ta ký được bằng 80% nguồn ODA đã cam kết, trong đó 85% là vốn vay, 15% là viện trợ không hoàn lại. Trong ba năm 1997, 1998, 1999, vốn ODA được giải ngân trung bình mỗi năm trên 1,1 tỷ USD. Theo đánh giá của các chuyên gia WB thì tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA như vậy vẫn là chậm, do đó chương trình viện trợ của WB dành cho Việt Nam đang từ 500 triệu USD năm 1996 xuống còn 431 triệu USD vào năm 1999. Có thể thấy chương trình viện trợ của WB đang có chiều hướng thu hẹp lại. Trái ngược với quan điểm của WB, Nhật Bản lại tỏ ra lạc quan về tốc độ giải ngân nguồn vốn ODA, và ông chủ tịch Hội đồng kinh tế Nhật Bản từng tuyên bố mặc dù nền kinh tế nước này có gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn vừa qua nhưng Nhật Bản vẫn cố gắng duy trì vốn ODA cho Việt Nam, trong khi nguồn vốn này cho nhiều nước đã bị cắt giảm. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan thì mức giải ngân của nước ta vẫn thấp, từ đó dẫn tới một số hạn chế: Một là, không huy động được các công trình đi vào hoạt động đúng tiến độ. Hai là, các điều kiện ưu đãi của khoản vay ODA giảm sút do rút ngắn thời gian ân hạn. Ba là, uy tín về năng lực tiếp thu nguồn vốn ODA bị giảm. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 (11 tháng) Vốn giải ngân (triệu USD) 413 725 737 900 1000 1200 1350 1450 Kết quả giải ngân vốn ODA (1993-2000) Vốn ODA đã được đầu tư vào tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, các ngành kinh tế quốc dân, và vào hầu hết các địa phương, kể cả vùng núi, vùng đồng bào dân tộc. Nguồn vốn ODA thực sự đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nước ta, đời sống nhân dân đã được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Cùng với vốn đầu tư phát triển khác từ Ngân sách Nhà nước, ODA tạo ra động lực cho việc khai thác và phát huy tác dụng các nguồn lực trong nước, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, thúc đẩy tiến trình hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, cơ cấu sư dụng vốn ODA giai đoạn 1993-2000 như sau: năng lượng điện chiếm 28%, giao thông 27%, nông lâm ngư nghiệp và thuỷ lợi 13%, giáo dục-y tế-khoa học công nghệ 13%, cấp-thoát nước 9%, hỗ trợ ngân sách và các ngành khác 10%. Về công nghiệp, vốn ODA đã góp phần tăng năng lực một số ngành, đặc biệt là ngành điện như số liệu trên đã cho thấy. Hầu hết các nguồn điện, hệ thống đường dây, trạm biến thế quan trọng đều được đầu tư hoặc hỗ trợ bằng ODA như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, Phả Lại, Hàm Thuận-Đà My, nhiệt điện Phú Mỹ II. Về giao thông vận tải và bưu chính viễn thông, tỷ trọng ODA dành cho hai lĩnh vực này đã tăng lên đáng kể. Các công trình giao thông trọng điểm và cả các dự án giao thông nông thôn cũng đều được tài trợ bằng ODA. Nhiều công trình lớn được hoàn thành với sự góp mặt của ODA như quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 18, quốc lộ 10, cầu Mỹ Thuận,... Về nông nghiệp, một lượng vốn không nhỏ được đầu tư cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, phần lớn là vốn viện trợ không hoàn lại. Cơ sở hạ tầng của nhiều vùng nông thôn đã có những cải thiện rõ rệt (đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, điện, nước sạch cho sinh hoạt,...). Việc đầu tư nguồn vốn ODA vào nông nghiệp đã thúc đẩy sự gia tăng sản lượng nông nghiệp với nhịp độ phát triển tương đối cao trong thời gian qua. Về khoa học công nghệ, tuy ODA đầu tư vào khoa học công nghệ không nhiều nhưng nó đã đem lại những kết quả khả quan. Một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ thuộc nhiều lĩnh vực đã được đào tạo, cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại, phòng thí nghiệm,... được nâng cấp. Nhiều công nghệ hiện đại đã được đưa vào sản xuất. Từ đó nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn ODA cho vay lại đã có hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển của các doanh nghiệp, đáp ứng các nhu cầu bức bối về vốn để thực hiện các mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Ngoài ra, nguồn vốn ODA còn phát huy ưu điểm ở một số ngành khác thuộc các lĩnh vực văn hoá xã hội, y tế, giáo dục,... II. Những tồn tại và khó khăn trong thu hút vốn nước ngoài. 1. Khó khăn ngoài nước. Đối với FDI. Luồng vốn đầu tư vào Việt Nam từ các nước Châu á sẽ phục hồi chậm do chính các nước này giờ đây đang cần vốn để lấy lại đà tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là nếu phạm vi (vùng, lãnh thổ) của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư tại Việt Nam không được mở rộng thì khả năng tăng vốn ĐTNN tại nước ta sẽ là vô cùng hạn chế. Bên cạnh đó, cạnh tranh trong thu hút vốn ĐTNN sẽ quyết liệt hơn rất nhiều trong thời gian tới. Các nước trước đây đầu tư vào Việt Nam thì nay trở thành đối thủ cạnh tranh với Việt Nam (Thái lan, Indonesia, Maylaysia ...). Chính sự mất giá đồng tiền trong cuộc khủng hoảng khu vực lại là lợi thế của các nước này trong việc thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay. Ngoài ra, tính hấp dẫn tương đối của môi trường đầu tư nước ta đã có dấu hiệu thụt lùi so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy Việt Nam phải có nỗ lực lớn để dành lại khả năng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN. Đối với ODA. Hiện nay, nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, các nước giàu có giành cho các nước nghèo không phải là vô hạn mà chỉ có thời hạn nhất định và xuất hiện xu hướng giảm đi, trong khi số nước nghèo có nhu cầu viện trợ có chiều hướng tăng lên. Do đó sẽ xuất hiện khó khăn trong việc huy động nguồn tài trợ. Mặt khác, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực và những tác động ngày càng lớn tới nền kinh tế thế giới thời gian qua cũng làm cho các tổ chức tài chính quốc tế và Chính phủ các nước gặp khó khăn về nguồn vốn do phải lo cứu trợ cho các nước nên việc tìm nguồn vốn tài trợ sẽ trở nên khó khăn hơn. 2. Những tồn tại và vướng mắc trong nước. a) Đối với thu hút FDI. Thị trường lớn, nhưng sức mua tương đối hạn chế. Hiện nay, gần 80% dân số nước ta sống ở khu vực nông thôn, có thu nhập thấp. Dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể đạt trung bình từ 5-7% trong 10 năm tới. Như vậy, thu nhập bình quân đầu người sẽ ở mức xấp xỷ 650 USD/đầu người vào năm 2010 (mức hiện nay khoảng 350 USD/người). Mức thu nhập này vẫn còn là rất thấp so với các nước đang phát triển trong khu vực, do vậy hạn chế sức mua của thị trường Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào nước ta còn mang tính tự phát, không theo quy hoạch ngành, vùng. ĐTNN đã cơ bản chiếm lĩnh tất cả các ngành và địa bàn đầu tư có lợi thế. Việc thu hút vốn đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp và vào các địa bàn có điều kiện kinh tế không thuận lợi sẽ là rất khó khăn trong thời gian tới (đầu tư kém hiệu quả, rủi ro cao, thu hồi vốn lâu, đặc biệt sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của thiên tai). Một số ngành mũi nhọn như dầu khí, ô tô, xi măng, thép ... cũng sẽ gặp khó khăn trong thu hút vốn đầu tư do trữ lượng dầu hạn chế hoặc sản xuất hiện đang vượt quá nhu cầu trong nước. Đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao cũng chưa nhiều, nhất là đầu tư chiều sâu và chuyển giao các công nghệ gốc còn hạn chế. Khả năng tiếp nhận nguồn vốn bên ngoài còn hạn chế do khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam và các nước trong khu vực còn khá lớn. Điều này, một mặt làm giảm số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được, mặt khác làm cho khả năng làm chủ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn ở mức độ thấp. Một số nguyên nhân cụ thể của tình trạng trên như sau: Trình độ công nghệ sản xuất còn yếu kém, đặc biệt trong các ngành công nghiệp chế tạo và chế biến. Trình độ cán bộ quản lý cũng như công nhân chuyên nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của tình hình mới. Các doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động đều còn rất non trẻ, không những thiếu vốn, non kém về trình độ quản lý mà còn thiếu cả kinh nghiệm hoạt động. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ kinh doanh trên mặt hàng rộng nhưng thiếu chuyên ngành, mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng các khối khách hàng tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách hàng cũng như thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm, quảng cáo... Chính vì vậy, khả năng trở thành đối tác có hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Môi trường đầu tư trong nước còn có rất nhiều điểm bất cập. Một điểm đáng lưu ý là khi doanh nghiệp có vốn ĐTNN đi vào hoạt động, nó không chỉ bị điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về ĐTNN mà còn bị điều chỉnh bởi toàn bộ khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam. Do đó, mặc dù môi trường đối với đầu tư nước ngoài đã trở nên thông thoáng hơn rất nhiều, nhưng môi trường kinh doanh chung trong nền kinh tế vẫn chứa đựng nhiều nhược điểm, gây cản trở đối với sự hình thành, hoạt động và giải thể của các doanh nghiệp nói chung. Trong thời gian gần đây, mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang chuyển dần từ những chính sách áp dụng riêng cho khu vực ĐTNN sang những chính sách áp dụng chung trong toàn bộ môi trường kinh doanh. Cụ thể những tồn tại cơ bản trong chính sách thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam như sau: Một là, định hướng cơ cấu vốn ĐTNN. Định hướng thu hút vốn đầu tư chưa thật sự cụ thể và rõ ràng, chưa xác định rõ được những mục tiêu gọi vốn trọng tâm cho từng thời kỳ và đảm bảo tính cân đối phát triển giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Ví dụ, trong giai đoạn 1996-2000, số vốn đầu tư vào ngành kinh doanh dịch vụ, khách sạn là khá lớn nên đã xảy ra hiện tượng dư thừa năng lực. Trong khi đó, đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng quá nhỏ, không khai thác được lợi thế của thị trường Việt Nam về nguồn nguyên liệu và lao động. Hiện nay, cơ cấu ngành đã có những dấu hiệu chuyển biến tích cực nhưng cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ vẫn còn biểu hiện thiếu cân đối. Các nhà đầu tư mới chỉ tập trung vào một số vùng kinh tế trọng điểm, khiến sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế ngày càng lớn hơn. Hai là, thủ tục hành chính. Luật Đầu tư nước ngoài còn nhiều quy định chưa thực sự cụ thể và chưa theo nguyên tắc “một cửa”. Nhiều quy định tuy có thực hiện thí điểm ở một số nơi, nhưng khi triển khai trên diện rộng còn bộc lộ nhiều vướng mắc, nhất là các quy định về đất đai, về đền bù và giải toả mặt bằng, về thiết kế, xây dựng, về quản lý dự án sau khi đã cấp giấy phép. Chế độ thẩm định và cấp giấy phép đầu tư còn được duy trì đối với phần lớn các dự án ĐTNN tại Việt Nam. Quy trình xét duyệt dự án còn liên quan đến nhiều cơ quan phê duyệt và cấp phép, thời gian kéo dài, làm gia tăng rủi ro và các chi phí cho dự án đầu tư ngay từ giai đoạn khởi động. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn ĐTNN tiến hành xin phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền đối với hầu hết những thay đổi trong dự án (thay đổi cán bộ quản lý; tăng vốn; điều chỉnh lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh; tăng/giảm lao động ...). Những thủ tục này làm hạn chế đáng kể tính linh hoạt trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay chưa có các quy định cụ thể cũng như hệ thống tổ chức hoàn chỉnh về quản lý các doanh nghiệp có vốn ĐTNN sau khi đã được cấp giấy phép. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ quản trong quản lý nhà nước về ĐTNN nhưng thực sự chưa có đủ khả năng theo dõi toàn bộ hoạt động đầu tư mà mới chỉ theo dõi được trong giai đoạn cấp giấy phép. Các cơ quan chủ quản, các ngành, các tổng công ty sau khi cho các xí nghiệp thành viên tham gia liên doanh thường không có quyền kiểm soát, quản lý điều hành vì vốn tham gia của phía Việt Nam thường nhỏ hơn đối tác nước ngoài. Do thiếu các quy định cụ thể về quản lý doanh nghiệp có vốn ĐTNN nên dẫn đến tình trạng kiểm tra, thanh tra tuỳ tiện của các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, gây nhũng nhiễu đối với các doanh nghiệp. Ba là, hình thức đầu tư. Cho tới nay, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị bó buộc trong 3 hình thức đầu tư cổ điển là: doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Những mô hình này là phù hợp trong giai đoạn đầu thực hiện chính sách thu hút vốn ĐTNN. Tuy nhiên, với quy mô ngày càng lớn, nhu cầu thu hút vốn đầu tư trong nước của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng gia tăng nhanh. Điều này cho thấy cần thiết phải mở rộng loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn trong số các hình thức đầu tư được pháp luật cho phép tại Việt Nam. Bốn là, môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng. Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc xoá bỏ dần hàng rào ngăn cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, hiện còn tồn tại song song hai bộ luật khuyến khích đầu tư khác biệt nhau áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nếu xét về hình thức sở hữu doanh nghiệp thì hiện tồn tại ba “sân chơi” riêng biệt dành cho doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự tồn tại song song của ba hệ thống luật điều chỉnh tạo nên một môi trường pháp lý phức tạp, chồng chéo, và đặc biệt tạo ra một môi trường cạnh tranh bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật bổ trợ về các vấn đề như cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ, bảo hộ người tiêu dùng ... đến nay vẫn chưa được ban hành hoặc đã ban hành nhưng tính hiệu lực thi hành không cao. Đây là những yếu tố quan trọng giúp tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh và bình đẳng trong nước. Ta có thể thấy một ví dụ điển hình là hệ thống văn bản pháp lý về sở hữu trí tuệ của Việt Nam là tương đối đầy đủ (về bản quyền, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu thương mại...). Tuy nhiên, khi có vi phạm thì hình thức xử lý mới chỉ là nhắc nhở chứ không bị xử phạt hành chính và tài chính (qui chế xử phạt chưa rõ ràng). Chính vì vậy, các nhà đầu tư cảm thấy không yên tâm vì có thể bị xâm phạm lợi ích bất cứ lúc nào và không được bồi thường thiệt hại đầy đủ. Năm là, các vấn đề về thuế. Hiện nay khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN hiện đang được áp dụng mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp chung thấp hơn so với doanh nghiệp trong nước (25% so với mức 32% của doanh nghiệp trong nước). Tuy nhiên, các nhà ĐTNN phải nộp thuế chuyển lợi nhuận về nước ở mức từ 5-10%. Như vậy, họ phải chịu hai lần thuế và mức thuế suất thuế thu nhập thực tế đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 30-35%, tương đương với mức thuế của doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, Luật thuế nhu nhập doanh nghiệp hiện tại chưa cho phép doanh nghiệp được khấu trừ một số khoản chi phí chính đáng mà doanh nghiệp thực chi. Điều này càng làm thuế suất “thực tế” tăng có hơn rất nhiều so với mức thuế danh nghĩa nêu trong các sắc thuế của Nhà nước. Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 19/5/2001 tuy đã áp dụng mức thuế suất chung cho người Việt Nam và người nước ngoài thường trú trên 6 tháng, nhưng biểu thuế suất luỹ tiến với cao nhất là 50% hiện nay là quá cao so với mức trung bình ở châu á (chỉ 30%). Mức thuế thu nhập cá nhân cao trực tiếp ảnh hưởng tới chi phí thuê lao động là người nước ngoài và người Việt Nam, làm giảm đáng kể lợi thế so sánh về lao động của nước ta. Thuế suất cao cũng khuyến khích công dân Việt Nam có kỹ năng đạt tiêu chuẩn quốc tế tìm việc ở những nước có thuế thu nhập thấp hơn, đồng thời khuyến khích nạn trốn thuế và tham nhũng. Hệ thống thuế của Việt Nam tuy đã được nghiên cứu và điều chỉnh nhiều lần nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp và ngang bằng với trình độ quản lý của các nước trong khu vực. Các quy định về thuế còn phức tạp, quá nhiều mức thuế suất, thường xuyên thay đổi nên đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, khiến các doanh nghiệp không thể ổn định kế hoạch sản xuất. Cho tới nay Việt Nam chưa có các quy định về chống chuyển giá, chuyển thuế. Sáu là, tiếp cận các yếu tố sản xuất. Đây là vấn đề vướng mắc không chỉ đối với các nhà đầu tư nước ngoài mà còn đối với cả các nhà đầu tư trong nước. Những vấn đề nổi cộm chủ yếu liên quan đến chính sách quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; chính sách quản lý ngoại hối; các quy định về cầm cố, thế chấp trong lĩnh vực ngân hàng; các chính sách về tiếp cận các nguồn vốn trong nước với nhiều hình thức huy động vốn khác nhau (Ví dụ: hiện nay các doanh nghiệp có vốn ĐTNN không được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn trong nước)... b) Một số tồn tại trong thu hút ODA. Vốn đối ứng cho các dự án vay vốn luôn là vấn đề nan giải. Mọi chương trình dự án đều đòi hỏi có sự đóng góp của cả hai phía: nhà tài trợ và nước chủ nhà. Trước khi ký kết các hiệp định, điều ước quốc tế về ODA cần xác định rõ mức đóng góp của phía Việt Nam, nhưng thực tế khi điều ước quốc tế được ký kết giữa hai chính phủ thì vốn đối ứng vẫn chưa được ghi ngay mà phải chờ đến khi dự án khả thi được duyệt thì vốn đối ứng mới được ghi. Vì thế, sau khi vốn đối ứng đã được duyệt nhưng việc rút vốn gặp rất nhiều khó khăn, không phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Quá trình triển khai dự án và giải ngân thường chậm, không thực hiện đúng lịch trình cam kết với phía nước ngoài, làm giảm lòng tin đối với các nhà tài trợ. Giải ngân chậm làm cho các điều kiện đã được ưu đãi kém đi, thời gian ân hạn giảm, thời hạn có hiệu lực của vốn cũng giảm. Thời gian chuẩn bị dự án trước và sau khi ký điều ước quốc tế về ODA thường kéo dài từ 1,5 - 2 năm. Thủ tục xét duyệt dự án phải qua nhiều cấp, việc đấu thầu và xét duyệt kết quả đấu thầu phải qua nhiều khâu rất phiền hà. Công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập. Chưa có khung thể chế tài chính trong nước đối với các dự án cho vay lại của ODA. Vì thế nhiều trường hợp không tính được hiệu quả tài chính của dự án, mất nhiều thời gian chuẩn bị và ký kết các hợp đồng cho vay lại. Công tác quản lý dự án thường bị buông lỏng nên không cập nhật được tình hình thực hiện dự án để khi cần có thể can thiệp kịp thời. Thiếu một hệ thống thông tin đầy đủ về các dự án, thiếu sự kết nối các cơ quan quản lý với đơn vị thụ hưởng ODA và với các nhà tài trợ để nâng cao hiệu quả quản lý các dự án ODA. Về mặt nhận thức vẫn còn những quan niệm và cách hiểu khác nhau về ODA, có người cho rằng đây là khoản cho không, quà biếu, vật tặng. Một số địa phương có quan niệm sử dụng ODA “vay là được” mà không tính đến khả năng trả nợ và hiệu quả, dẫn đến tình trạng lãng phí và tham nhũng, gây hậu quả xấu cho việc tiếp nhận ODA. Chương III Phương hướng và giải pháp thu hút vốn fdi và oda phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001-2005. I. Những mục tiêu cơ bản phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005. 1. Các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0213.doc
Tài liệu liên quan