Cơ sở phương pháp luận để huy động nguồn vốn .
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN PHỤC VỤ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 2
II.CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH VỐN TRONG NƯỚC. 4
1.Huy động từ ngân sách Nhà nước. 4
2.Nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp Nhà nước. 6
3.Nguồn vốn huy động từ trong dân cư. 7
4.Thu hút từ vốn đầu tư nước ngoài. 7
III.VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG NƯỚC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC. 8
1.Vốn trong nước với vấn đề đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho phát triển kinh tế. 8
2.Huy động vốn trong nước với vấn đề xã hội 10
IV.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VỀ HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC. 11
1.Kinh nghiệm của Nhật Bản. 11
2.Kinh nghiệm của Hàn Quốc. 12
3.Kinh nghiệm của Anh. 13
4.Những bàI học vận dụng vào Việt Nam. 13
PHẦN II
Thực trạng của việc huy động vốn trong nước của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NƯỚC. 14
1.Tình hình chun 14
44 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 877 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp cơ bản để tăng cường huy động vốn đầu tư trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế Việt nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước yêu cầu mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang gặp nhiều khó khăn phức tạp cần phải khắc phục. Ngân sách nhà nước luôn ở trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư phát triển. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các nguồn thu từ thuế, các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và lãng phí. Số vốn huy động được thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn hạn không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Vốn đầu tư trực tiếp từ khu vực tư nhân hãy còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng. Một bộ phận không nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nước còn đang nằm ở ngân hàng thương mại đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tư được.
Theo các ý kiến dự báo thì khoảng 50- 70 nghìn tỷ đồng của nhân dân đang cất giữ dưới dạng tiền mặt, ngoạI tệ, tàI sản có giá trị caoChưa chuyển được thành nguồn vốn đầu tư và kinh doanh. Khoản tiền kiều hối hàng năm gửi về nước khoảng từ 0,6- 1 tỷ USD chưa được khai thác và sử dụng hợp lý.
Nguyên nhân của các yếu kém trên là do:
- Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế và các quan hệ tài chính tiền tệ mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, mức độ phân tán ở trong nước vừa nhỏ vừa phân tán.
- Cơ cấu sản xuất nói chung kém hiệu quả, sau hơn 10 năm đổi mới cầu về những sản phẩm truyền thống gần như đã bão hoà cần phải thay bằng những sản phẩm mới có chất lượng và hình thức cao hơn.
- Chính sách quản lý vĩ mô chưa hoàn thiện và đồng bộ, chưa khuyến khích mọi người bỏ vốn ra mở rộng sản xuất, môi trường đầu tư chưa ổn định còn nhiều rủi ro cho các nhà đâù tư.
Khả năng kinh doanh sinh lợi cao hơn lãi trả ngân hàng của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế. Điều đó cũng kéo theo các ngân hàng cũng gặp rủi ro khi cho vay, khó thu hồi vốn, phải sử dụng thế chấp như một công cụ chủ yếu. Đây chính là yếu tố hạn chế phân bổ có hiệu quả nguồn vốn
Để huy động nguồn vốn một cách có hiệu quả thì chúng ta nên áp dụng một số biện pháp sau:
- Đẩy mạnh thu hút vốn trực tiếp từ dân cư và doanh nghiệp, thúc đẩy đa dạng hoá các hình thức đầu tư.
ủng hộ chủ trương của nhà nước đang dự thảo về cơ chế” Đổi quyền sử dụng đất lấy công trình”. Biện pháp có thể là nhà nước giao quyền sử dụng đất (có thời hạn) cho chủ đầu tư để lấy công trình do chủ đầu tư xây dựng theo yêu cầu của nhà nước.
- Củng cố các ngân hàng thương mại và tín dụng theo hướng bảo đảm mục tiêu an toàn vốn cho gửi tiết kiệm. Mở thêm các điểm gửi thuận lợi cho người gửi và rút tiền linh hoạt khi xử lý các mức thời hạn
- Quán triệt chủ trương của Đảng nguồn vốn trong nước là quyết định cuối cùng với việc tích cực tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài, nhân dân ta góp tiền của và sẽ tiếp tục bỏ tiền của để xây dựng đất nước nhanh chóng thiết lập các cơ chế chính sách thích hợp đồng bộ hoá các thủ tục hành chính và các giải pháp vi mô để lập môi trường đầu tư lành mạnh, an toàn, hiệu quả.
3/ Huy động vốn trong nước với các vấn đề xã hội.
Trong 5 năm (1991- 1995) vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội là 193,537 tỷ đồng ( tính theo giá hiện hành) tương đương 18,6 tỷ USD. Trong đó vốn đầu tư trong nước là 137,305 tỷ đồng chiếm 29%. Vốn đầu tư trong nước thuộc khu vực nhà nước là: 70.011 tỷ đồng ( bao gồm vốn ngân sách, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đầu tư ), chiếm 31,6%, bình quân hàng năm tăng 16%. Khu vực ngoàI nhà nước đã đầu tư 67,294 tỷ đồng chiếm 37,7% so với vốn đầu tư trong nước.
Trong 3 năm (1996- 1998) tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện là253,614 tỷ đồng tương đương khoảng 20- 21 tỷ USD. So với mục tiêu toàn xã hội của kế hoạch 5 năm 1996- 2000 là 41- 42 tỷ USD thì 3 năm1996- 1998 đã thực hiện được khoảng 40- 50%.
Nguồn vốn đầu tư huy động toàn xã hội ngày càng tăng so với GDP. Naawm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP, thì đến năm 1991 đạt 15,22%, năm 1993 đạt 21%, năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9% , nawm 1997 đạt 27,5% và năm 1998 đạt28,2%.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ngày càng đa dạng hoá, hình thức huy động được huy động qua nhiều kênh như vốn ngân sách nhà nước, phát hành tráI phiếu công trình. Hiện nay hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để tái đầu tư hoặc đầu tư xây dựng mới đang được mở rộng. Hình thức doanh nghiệp tự vay vốn của nước ngoào để đầu tư có sự bảo lãnh của nhà nước cũng đã được mở rộng và hoàn thiện dần. Những năm gần đay đã triển khai nhiều dự án đầu tư theo hình thức BOT ( xây dựng- chuyển giao- kinh doanh), BTO ( xây dựng – kinh doanh- chuyển giao). Đối tượng sử dụng vốn đầu tư đã có sự thay đổi căn bản, theo hướng xoá bỏ dần bao cấp.
Vốn đầu tư từ nguồn ngoài quốc doanh cos tốc độ tăng trưởng rõ rệt và ngày càng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn này chủi yếu tập trung trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, nhà đất, khách sạn nhà hàng...
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 1996- 1998
Nguồn vốn huy động
1996
1997
1998
1996- 1998
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tổng vốn đầu tư.
Vốn nhà nước
Vốn ngoài QD
Vốn dân cư
Vốn FDI
Hệ số icor
778,14
30614
21773
15600
26400
-
100
39,4
28,0
20,1
33,9
3,04
90800
38000
22000
14743
30800
-
100
41,9
24,2
16,2
33,9
3,49
85000
39000
20000
13500
26000
-
100
45,9
23,5
15,9
30,6
3,6
253614
107614
63733
43843
83200
-
100
42,43
25,19
17,28
32,80
-
Để đảm bảo đầu tư đúng định hướng, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ, nâng cao sử dụng vốn tín dụng đầu tư ưu đãi, cần đổi mới cơ chế quản lý và chính sách đầu tư theo chương trình dự án. Tất cả các công trình dự án đều phải tân thủ một cách nghiêm ngặt các trình tự đầu tư xây dựng cơ bản.
IV/ Kinh nghiệm của một số nước về huy động vốn đầu tư trong nước.
Nguồn vốn luôn là một vấn đề đặt ra hàng đầu cho mọi nền kinh tế công nghiệp hoá. Tuy nhiên do lợi thế của mỗi một quốc gia là khác nhau và do sự khác nhau về lợi thế so sánh nên con đường để kiến tạo nguồn vốn sản xuất là hết sức đa dạng.
1/ Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Nhật bản là một cường quốc kinh tế ở Châu á với cách tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế khác với nhiều nước khác. Những năm cuối thế kỷ XIX dưới thời Minh Trị, Nhật còn là một nước rất nghèo, nền kinh tế mới đi vào công cuộc cải cách. Để có khoản tích luỹ vốn đầu tư ban đầu cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nhật đã dựa vào cơ cấu chính quyền rất mạnh cộng với thu thuế rất lớn từ nhân dân. Thông qua biện pháp này Nhật đã huy động được nguồn vốn rất lớn cho phát triển kinh tế
Các nhà kinh tế đã tổng kết và đưa ra các nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật là:
- Sự gia tăng nguồn vốn nhanh chóng, đa dạng hoá cơ cấu sản xuất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tăng cường điều tiết và vai trò của chính phủ trong nền kinh tế quốc dân, mở rộng thị trường.
Bước đàu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá Nhật đã có tỷ lệ tích luỹ vốn hàng năm là 21,8% đến năm 1968 là 29,2% lớn hơn hai lần so với Mỹ và gần bằng 2 lần của Anh.
Năm 1959 GDP của Nhật bằng 81% của Đức nhưng tổng đầu tư vào tư bản cố định của Nhật đã vượt Đức.
Nhật duy trì được mức tích luỹ cao là nhờ mức lương thấp trong khi năng xuất lao động thì rất cao và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Huy động được khối lượng lớn nguồn vốn từ người dân vào trong kinh doanh, chi phí cho quan sự thấp, chi phí sử dụng nguồn vốn thấp và khống chế được mức chi tiêu công cộng ở mức thấp.
2/ Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cách từ thập kỷ 60, kể từ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ nhất ra đời năm 1962, nền kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Bình quân tốc độ tăng GDP hàng năm là 9% cao hơn rất nhiều so tốc độ tăng bình quân của thế giới. Trong cùng thời gian công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trên 20% năm, dịch vụ tăng trên 14%/ năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đã giúp cho Hàn Quốc giải quyết được nhiều vấn đề như giảm thất nghiệp, giảm tỷ lệ nghèo đói, giảm mức chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị.
Tài trợ cho các nhu cầu đầu tư trước tình hình kinh tế trong nước kém phất triển, nguồn tích luỹ từ nội bộ ít, nguồn tài trợ bên ngoài giảm sút chính phủ đã khuyến khích đầu tư làm tăng việc sử dụng nguyên liệu trong công nghiệp, khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích du nhập công nghệ kỹ thuật mới.
Sử dụng công cụ thuế và tăng cường tiết kiệm của chính phủ, sử dụng công cụ thuế như một công cụ kích thích đầu tư, tăng cường sử dụng chính sách lãi suất thấp, chính phủ đưa ra các điều kiện để hoàn lại vốn và trả lãi cho các nhà đầu tư. Để tập trung vốn cho phát triển các ngành mũi nhọn.
3/ Kinh nghiệm ở Anh.
Học thuyết Mác đã nhận định là sự tích luỹ tư bản nguyên thuỷ nhất thiết phải diễn ra trước khi có sự phát triển kinh tế. Cơ sở thực tiễn của học thuyết này bắt nguồn từ thực tiễn kinh nghiệm phát triển kinh tế của nước Anh, nơi mà buôn bán, bóc lột thuộc địa và một số hình thức khác đã tạo cho nước Anh có được nguồn vốn tích luỹ khổng lồ. Đến cuối thế kỷ XIIX nguồn vốn tích luỹ của nước Anh biến thành tư bản đầu tư vào công nghiệp. Từ thực tiễn đó cho thấy, trước cách mạng công nghiệp nước Anh đã trải qua chủ nghĩa tư bản thương mại hàng thế kỷ. Như vậy thì con đường và giải pháp cơ bản để tạo dựng vốn đầu tư vào công nghiệp hoá và phát triển kinh tế là phát triển mạnh tự do thương mại nhằm tạo ra từ tích luỹ nội bộ nền kinh tế kết hợp với sự cướp bóc từ các nước thuộc địa.
4/ Những bài học vận dụng vào Việt nam.
Kinh nghiệm huy động vốn từ các nước rất đa dạng không theo một khuôn mẫu định trước nào. Điểm chung có thể rút ra là các nước thành công trong chính sách này đều tân thủ những quy luật kinh tế cơ bản, tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của nước mình và tính đến một cách cặn kẽ đIều kiện tự nhiên, địa lý, các nguồn lực tự nhiên cũng như các phong tục tập quán, tâm lý người dân, đặc đIểm riêng của dân tộc mình. Tuy nhiên có những điểm riêng đáng chú ý của từng nước được nghiên cứu có thể mang lại nhiều lợi ích cho quá trình phát triển kinh tế ở nước ta.
Kinh nghiệm ở một số nước còn cho thấy quỹ đầu tư còn là một định chế tài chính trung gian tương đối thích hợp để huy động và sử dụng nguồn vốn lớn. Đây là một mô hình kinh tế bổ ích cho quá trình phát triển kinh tế ở Việt nam vì vậy chúng ta phải tiến hành công tác nghiên cứu nó một cách tỉ mỷ xem cái gì có thể vận dụng được và cái gì không áp dụng được.
Nó góp phần vào giải quyết bài toán khó về huy động vốn đầu tư trong nước, tích luỹ trong nước chỉ được cải thiện nhờ chính sách lãi suất mà còn nhờ tiết kiệm chi tiêu của chính phủ. Việc hạn chế phần chi tiêu này góp phần tích cực trở lại với vấn đề huy động vốn trong nước. Một chính phủ gọn nhẹ với những nguyên tác chi tiêu một cách hợp lý có ý nghiã thực sự đối với tích luỹ cho nội bộ nền kinh tế quốc dân.
phần II.
Thực trạng của việc huy động vốn trong nước của việt nam trong thời gian vừa qua.
I /Tthực trạng của việc huy động vốn trong nước.
1. Tình hình chung
Nền kinh tế nước ta mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh trên mình còn mang đầy thương tích, khủng hoảng trầm trọng. Vì thế nền kinh tế nước ta mang nặng tính tập trung , quan liêu, bao cấp cho nên chưa tạo ra động lực kinh doanh phát triển. Chính Phủ tiến hành đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền cũ lấy một đồng tiền mới, mỗi người dân chỉ được đổi ở một mức độ giới hạn, nếu vượt qua giới hạn thì bị giữ lại ở ngân hàng một thời gian khá dài sau đó mới được rút ra. Bằng việc đổi tiền sẽ hy vọng sớm cải thiện được cán cân tiền tệ trong nền kinh tế. Tuy nhiên biện pháp này chỉ cắt giảm được lượng tiền tích trữ ngoài sổ sách của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh còn trong khu vực tư nhân và trong nhân dân kết quả thu được rất hạn chế vì phần lớn tiền tồn tại dưới dạng vàng và đô la Mỹ. Sau khi tiến hành đổi tiền mặt thì các doanh nghiệp quốc doanh gàn như bị tê liệt, gây nên tình trạng thiếu tiền mặt nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề này buộc Chính phủ phải phát hành tiền để duy trì sự hoạt động cho các doanh nghiệp quốc doanh và vì vậy làm tăng thêm mức độ lạm phát. Trong khi đó:
Công suất sử dụng thực tế máy móc thiết bị thấp, chỉ đạt 30%, riêng ngành cơ khí đạt 20% công suất thiết kế.
Chi phí năng lượng để làm ra một sản phẩm cao hơn so với tiêu chuẩn tiên tiến của thế giới từ 1,5- 2 lần.
Chất lượng sản phẩm thấp, so với tiêu chuẩn xuất khẩu chỉ đạt 15%. Sản phẩm sản xuất ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Tình trạng thua lỗ của các xí nghiệp khá phổ biến, gần 30% trong số 1695 xí nghiệp quốc doanh trung ương và 40% trong số 10389 xí nghiệp quốc doanh địa phương hoạt động bị lỗ vốn.
Nguyên nhân của việc sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả là do quản lý và sử dụng vốn theo cơ chế quan niêu bao cấp, thể hiện:
- Lãng phí vốn do bao cấp và bao cấp tín dụng thể hiện:
+Tỷ trọng vốn đầu tư cho thiết bị quá thấp, công nghệ lạc hậu và không đồng bộ.
+ Chi phí quá lớn, 1 đồng vốn bỏ ra chỉ có 0,54 đồng chuyển thành tài sản cố định.
Đầu tư tràn lan thiếu trọng điểm, không tính toán rõ hiệu quả đầu tư. Còn nguyên nhân khác quan là do các nguồn vốn vay và các khoản viện trợ, ta không có toàn quyền lựa chọn và quyết định các dự án có hiệu quả, thậm trí nhiều trường hợp phải nhận các thiết bị lạc hậu.
Nguồn vốn trong nước trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, một phàn là do tích luỹ nội bộ là chưa lớn, nhưng nguyên nhân quan trọng là chưa có các chính sách thích hợp để khuyến khích đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và kinh tế hộ gia đình.
2/ Sau cả cách kinh tế (từ 1996- 1999).
Chính sách đổi mới nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã bước đầu khơi đậy những tiềm năng, động lực to lớn còn tiềm tàng trong dân cư. Tuy nhiên, kết quả quan trọng nó cũng còn có nhiều hạn chế và thaaps xa so với tiềm năng và khả năng khaio thác của nước ta, cũng như chưa tương xứng với công cuộc đổi mới ở nước ta đang trong giai đoạn thực hiện quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế. Trong quá trình công nghiệp hoá nó đòi hỏi phải phát triển nền kinh tế với tốc độ cao, ổn định và bền vững, đồng thời phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo hướng các nước công nghiệp phát triển. Bên cạnh nguồn vồn nước ngoài, nguồn vốn trong nước phaior được huy động một cách tối đa, đảm bảo vai trò có ý nghĩa to lớn cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước .
Nhìn vào bảng cơ cấu tốc độ nguồn vốn trong nước ta thấy cơ cấu vốn trong nước tăng dần qua các năm, còn vốn ngoài quốc doanh và các vốn khác thì giảm dần cả về tỷ trọng và tốc độ. Qua đó cho ta thấy được tầm quan trọng của vốn đầu tư trong nước ngày càng quan trọng và quyết định mọi hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh tế. Giai đoạn 1991- 1997 các chính sách về đầu tư đã thực sự phát huy tác dụng thu hút mọi tầng lớp dân cư và mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh bằng tất cả các nguồn lực của mình, nhiều người đã bỏ cả phần của cải tích luỹ vào đầu tư phát triển sản xuất. Tổng cộng trong 7 năm từ năm 1991- 1997 cả nước đã huy động được 386 nghìn tỷ đồng ( tính theo mặt bằng giá cả năm 1995) tương đương với khoảng 35 tỷ đô la. Trong đó vốn bình quân trong nước chiếm trung bình từ 52- 53%. Năm 1998 tổng vốn đầu tư phát triển đạt 9200 tỷ đồng, kế hoạch năm 1999 là 120.000 tỷ đồng. Muốn đạt được kế hoạch đã đề ra thì nhà nước nên ấn định mức lãi suất cao để hấp dãn người gửi. Trên thực tế việc áp dụng biện pháp này bước đầu đã mang lại một số kết quả khả quan đặc biệt là số người gửi tiết kiệm ngày càng gia tăng cả về quy mô và khối lượng.
II/ Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nước trong thời gian qua .
1/ Trong lĩnh vực nông nghiệp.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế có được như trên là do hầu hết các ngành và các lĩnh vực kinh tế chủ yếu đã đạt được những thành tựu rõ nét và tương đối đồng bộ. Nông nghiệp là một trong những ngành đạt được thành tựu nhất trong những năm đổi mới nền kinh tế nói chung và trong những năm 1991- 1997 nói riêng. Sự phát triển của ngành nông nghiệp là tương đối ổn định và vững chắc đặc biệt là ngành sản xuất lương thực. Mức độ huy động và sử dụng vốn nông nghiệp hãy còn phụ thuộc vào các chính sách của Nhà nước đối với nông nghiệp. Khu vực nông nghiệp là khu vực ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nên sản xuất gia tăng, quy mô gia tăng đồng đều qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu làm cho ngành nông nghiệp tiếp tục gia tăng là do các chính sách của Chính phủ khuyến khích phát triển nông nghiệp nên sản lương thực tăng đều qua các năm như sau: Năm 1995 đạt 27,4 triệu tấn, năm 1996 đạt 29,2 triệu tấn, năm 1997 đạt 30,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 31,5 triệu tấn ước đến năm 1999 đạt 33,8 triệu tấn.
2/ Trong lĩnh vực công nghiệp.
Trong những năm gần đây sản xuất công nghiệp đã dần thích ứng với cơ chế quản lý mới và đang đi vào thế phát triển ổn định. Sự phát triển giữa các ngành các khu vực và các loại sản phẩm công nghiệp tuy ở mức độ khác nhau nhưng nhìn chung xu hướng tăng tương đối rõ nét. Công nghiệp ngoài quốc doanh tuy có chậm phát triển hơn do chậm thích ứng với cơ chế quản lý mới và phải khắc phục sự tan vỡ của công nghiệp tập thể nhưng đến nay vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Sự phát triển của ngành công nghiệp trong những năm qua bắt nguồn từ sự đầu tư lớn và có kế hoạch của nhà nước của nhiều năm trước đây cho một số ngành công nghiệp quan trọng như: Dầu khí, điện, xi măng. Việc đẩy mạnh khai thác dầu thô và nâng cao hiệu suất sử dụng của các nhà máy lớn như xi măng Bỉm sơn, xi măng Hoàng Thạch, thuỷ điện Trị An, Hoà Bình.
3/ Trong lĩnh vực dịch vụ.
Mở rộng nhiều hoạt động dịch vụ trong nông thôn nhất là hoạt động cung ứng vật tư kỹ thuật, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính tín dụng, dịch vụ du lịch, dịch vụ y tế, giáo dụcĐã đạt được mức tăng trưởng cao qua các năm là do phát triển hàng hoá và dịch vụ đa dạng phong phú, lưu thông lại thông thoáng nên quan hệ giữa cung và cầu về hàng hoá dịch vụ ngày càng được cải thiện dần ổn định giá cả do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ gây ra.
4/ Các chính sách được sử dụng đẻ huy động nguồn vốn trong nước thời gian qua.
Xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 với trọng tâm cua đổi mới nền kinh tế là công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển của toàn xã hội thời kỳ 1996- 2000 sẽ vào khoảng 45- 50 tỷ USD. Để nhìn nhận và đánh giá việc sử dụng các công cụ vĩ mô nói chung và các công cụ của chính sách tài chính tiền tệ nói riêng cần phải dưạ vào các mục tiêu chủ chốt mà các công cụ và chính sách nhằm đạt tới. Trong thời gan qua nhà nước ta đã sử dụng một số chính sách sau:
Chính sách huy động tiết kiệm:
+ảnh hưởng của công cụ lãi suất đến tiết kiệm: Khi lãi suất tiền gửi của hộ gia đình tăng lên điều này sẽ làm cho nhu cầu về tiết kiệm giảm đi. Điều này trái ngược với lý thuyết kinh tế là khi lãi xuất tiền gửi tăng lên thì chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng nhưng nó lại phản ánh đúng thực tế ở việt nam trong thời gian qua. Như vậy có thể nói trong mấy năm qua tỷ lệ tiết kiệm của nước ta tăng nhanh nhờ chủ yếu vào tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế và cả sự ổn định của nền kinh tế và phần nào vào chính chính sách lãi suất thực dương hợp lý của Nhà nước ta. Mặc dù tiết kiệm tăng nhanh nhưng nó vẫn không đủ khả năng cung cấp đủ nguồn vốn cho đầu tư vào sản xuất.
+ Giá cả tác động đến tiết kiệm. Về mặt lý thuyết khi giá cả tăng thì tiết kiệm sẽ giảm, thì việc ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát có tác động to lớn đến khả năng huy động nguồn vốn nội địa.
+ Tác động của bản thân cầu về đầu tư tới tiết kiệm.
- Các biện pháp kích thích đầu tư.
+ Quan hệ giữa công cụ lãi suất và đầu tư: Thông thường các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, thường vay vốn từ thị trường vốn để mua hàng hoá đầu tư, lãi suất cho các khoản vay đó càng cao, thì lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp thu được từ các khoản vay đó càng giảm.
+ Quan hệ giữa thu nhập và đầu tư: Khi tăng nhu cầu về đầu tư thì thu nhập cũng sẽ tăng lên.
+ Hàm xác định đầu tư tư nhân: Đầu tư tư nhân được tính bằng hiệu số của tổng đầu tư và đầu tư Nhà nước.
+ ảnh hưởng của công cụ tỷ giá: Tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại. Về lý thuyết khi đồng tiền trong nước mất giá tương đối so với tiền nước ngoài thì xuất khẩu có lợi và ngược lại.
Chính sách khơi thông, chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư.
+ Tự đầu tư: Người tiết kiệm đồng thời là chủ đầu tư hoặc có quan hệ gắn bó, thân thuộc với chủ đầu tư. Việc tiết kiệm chuyển thành đầu tư theo kênh này chủ yếu do tác động của cầu kéo, cầu về đầu tư gia tăng sẽ kích thích người đầu tư gia tăng tiết kiệm, hoặc tìm cách huy động vốn đầu tư của bạn bè , gia đình để đầu tư sản xuất.
+ Qua ngân sách: Là một kênh hết sức quan trọng đối với nền kinh tế chuyển đổi, là một bộ phận trong toàn bộ kế hoạch đầu tư, nó có vị trí hàng đầu trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thúc đẩy quá trình đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế theo đúng định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
+ Đầu tư qua hệ thốnh tài chính: Các hoạt động chủ yếu của nó như phát hành trái phiếu, cổ phần.
III/ Kết luận.
Trong những năm vừa qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra còn chậm chạp nhất là cơ cấu vùng kinh tế. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian qua Đảng và nhà nước ta đã và đang xúc tiến các kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giả quyết các vấn đề xã hội nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng, trên cơ sở phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của các ngành các thành phần kinh tế và các vùng kinh tế. Việt nam cũng đã phát động chuyển dần nền kinh tế sang thời kỳ phát triển mới- Thời kỳ nền kinh tế bước sang giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo tinh thần nghị quyết hội nghị đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đảng cộng sản Việt nam tháng 1-1994. Đây cũng là một nguồn lực và môi trường trong hành trang kinh tế việt nam tiến vào thế kỷ 21. Vì thế trong những năm tới đây, cơ chế quản lý kinh tế sẽ tiếp tục hoàn thiện theo hướng đồng bộ các yếu tố của thị trường như: Thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường nhà cửa, thị trường chứng khoánĐồng thời hoàn thiện chính sách kinh tế, đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, đổi mới các chính sách tài chính tiền tệ, giá cả và nâng cao hơn nữa năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Việc tạo ra cơ chế như vậy sẽ tạo môi trường thuận lợi để tiếp tục mở rộng quá trình dân chủ hoá nền kinh tế, giải phóng sức sản xuất, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Vì vậy, chiến lược huy động và sử dụng vốn đầu tư cho trung hạn và dài hạn cũng đang được khẩn trương soạn thảo . Theo dự kiến ban đầu chỉ riêng vốn đầu tư cho 5 năm 1996- 2000 đã tăng lên 41- 42 tỷ USD gấp 2,2 lần tổng mức đầu tư trong giai đoạn 1991- 1995. Trong đó năm 1996 là 6,0 tỷ USD, năm 1997 là7,0 tỷ USD, năm1998 là 8,25 tỷ USD , năm 1999 là 9,25- 9,75 tỷ USD , năm 2000 dự đoán là 10,5- 11 tỷ USD. Trong tổng số vốn đầu tư đó thì 50% được lấy từ nguồn vốn trong nước còn lại là nguồn vốn ngoài nước, so với nhu cầu phát triển vốn đầu tư thì số vốn trên còn hạn hẹp, do vậy hướng sử dụng vốn trong thời gian tới: Chính phủ sẽ tập trung vào lĩnh vực mà tư nhân không làm được, đặc biệt là các hạng mục đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Đầu tư các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp chủ yếu là các hoạt động của các doanh nghiệp.
Vốn đầu tư trong 5 năm 1996- 2000 sẽ được tập trung với mức độ tương đối lớn vào ba vùng kinh tế trọng điểm: Bắc- Trung- Nam. Nhằm tạo ra các động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước, đồng thời đặc biệt coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội miền núi và dành một phần lớn để giải quyết các vấn đề bức xúc của vùng kinh tế khác. Trong mỗi vùng mỗi địa phương cũng sẽ đầu tư cho ccác vùng kinh tế trọng điểm nhằm tạo ra các cực tăng trưởng kinh tế cho các vùng, từng địa phương.
Những khó khăn về xây dựng kinh tế xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất có thể khắc phục nhanh các hạn chế nếu có đủ vốn đầu tư. ở nước ta hiện nay đang gặp phải một số khó khăn trong công tác huy động nguồn vốn trong nước. Trong những năm trước đây nguồn vốn cho xây dựng cơ bản được lấy từ nguồn ngân sách nhà nước và một phần khấu hao cơ bản để lại cho các doanh nghiệp, các nguồn vốn khác hầu như không đáng kể. Trong những năm gần đây việc huy động nguồn vốn cho xây dựng cơ bản không phải chỉ có nhà nước đầu tư mà nó được huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Đây là sự chuyển biến nổi bật trong tạo nguồn vốn. Tuy nhiên, theo tính toán sơ bộ thì vốn đầu tư trong nước mới chỉ chiếm trên 20% GDP. Nếu so với một số nước NICs thì tỷ lệ đầu tư này là rất thấp.
Hiện nay cũng như một vài năm tới việc huy động vốn đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV386.doc