Đề tài Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 1999

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. SỰ RA ĐỜI LUẬT DOANH NGHIỆP 2

II. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 5

1. Mục tiêu của Luật Doanh nghiệp 5

2. Những nội dung mới được quy định trong luật Doanh Nghiệp . 6

2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập. 6

2.2. Luật Doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành nghề kinh doanh 9

2.3. Luật Doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên 12

2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh. 13

III. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 16

1. Về phía các cơ quan Nhà nước 16

2. Về tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp 17

3. Việc triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần bước đầu thúc đẩy chuyền biến tích cực về cơ cấu kinh tế 21

4. Việc thực hiện Luật Doanh nghiệp đã góp phần tích cực tạo thêm việc làm cho người lao động 21

KẾT LUẬN 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 867 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t là điều kiện để huy động tối đa nguôn lực trong xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. 2. Những nội dung mới được quy định trong luật Doanh Nghiệp . Luật DN đươc chia thành 10 chương và 124 điều. Quy định địa vị pháp lý của các loại hình DN: quyền, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức của mỗi loại hình đó... Luật DN là văn bản kế thừa và phát triển của hai đạo luật, luật DNTN, luật Cty nó không phủ định sạch trơn các chế định trong hai đạo luật này, trên cơ sở giữ lại những quy định phù hợp, sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp, đồng thời bãi bỏ những quy định đã lỗi thời, lạc hậu không đáp ứng dược yêu cầu nền kinh tế trong giai đoạn mới, giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. So với pháp luật kinh doanh trước đây luật Doanh Nghiệp có những nội dung mới cơ bản sau đây: 2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập. Trong thời gian qua do kế thừa tư duy quản lý kinh tế cũ: bộ máy hành chính cồng kềnh, kém hiệu quả, thủ tục nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung do đó tệ giấy tờ, quan liêu của một số cá bộ gây lên sự bất bình trong các tầng lớp nhân dân . Đại hội VIII đã nhấn mạnh vấn đề cải cách nền hành chính nước ta là nhiệm vụ bức thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhằm phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, trong đó cải cách thủ tục hành chính được coi là trọng tâm, cốt lõi trong cải cách hành chính quốc gia . Để thực hiện Nghị Quyết trên, đồng thời đáp ứng những mong muốn thiết thực của giới kinh doanh, phù hợp với sự phát triển mới của nền kinh tế đất nước, phù hợp với thông lệ quốc tế, luật Doanh Nghiệp qui định bỏ giai đoạn xin giấy phép thành lập. Trước đây trong luật Công ty, luật DNTN qui định trước khi thành lập, người muốn lập doanh nghiệp phải gửi hồ sơ xin phép thành lập đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hồ sơ xin giấy phép phải bao gồm các dữ liệu về thân nhân người muốn thành lập, các điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh, phương án kinh doanh ... Trong một chừng mực nào đó việc qui định như vậy cũng có một ý nghĩa nhất định : giúp nhà nước có khả năng quản lý được các doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sắp được thành lập, nắm được qui mô cũng như lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm, đồng thời đảm bảo nguồn vốn cho các nhà đầu tư khi góp vào công ty. Doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép thành lập phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh phải có phương án kinh doanh khả thi ... đây là bước nặng nề nhất đối với doanh nghiệp bởi vì với qui định như vậy, người muốn thành lập phải xin nhiều loại giấy tờ, chứng thực khác nhau. Lợi dụng sơ hở đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều loại giấy phép chuyên ngành, lĩnh vực mà mình quản lý tạo ra nhưng tiêu cực không đáng có trong xã hội, nạn cửa quyền,tham nhũng có đất tồn tại. Sau khi được cấp giấy phép thành lập, người muốn thành lập phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại sở Kế Hoạch-Đầu Tư, nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính. Việc quy định các cơ quan khác nhau cùng có thẩm quyền liên quan đến việc xem xét hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp, trong khi các cơ quan độc lập với nhau, chỉ xem xét phần việc của mình do đó thời gian hoàn thành việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh mất rất nhiều thời gian thường từ bốn đến sáu tháng, cùng với một khoản lệ phí không nhỏ. Xét về mặt quản lý trong giai đoạn ngày nay, khi mà Đảng và Nhà nước đang có chủ trương cải cách thủ tục hành chính, thì quy định như vậylà không hợp lý và đi ngược lại với đường lối, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng ngày nay. Xét về mặt hiệu quả, quy định như vậy không tạo ra hiệu quả trong công tác quản lý, vì có quá nhiều cơ quan tham gia vào cùng một vấn đề, trong khi đó khong có một cơ quan nào chịu trách nhiệm chính dẫn đến nhà nước rất khó quản lý một cách tập trung các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa quy định như vậy không khuyến khích được các nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh bởi thủ tục quá rườm rà dẫn đến tốn kém thời gian, tiền của ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất của nhà đầu tư. Xuất phát từ những lý do đó, luật DN quy định trình tự thành lập doanh nghiệp chỉ còn bước đăng ký kinh doanh, trong bước này, người muốn thành lập doanh nghiệp tiến hành lập hồ sơ gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền- phòng ĐKKD cấp tỉnh thuộc sở Kế hoạch - Đâu tư. Luật DN không chỉ bỏ bước xin phép thành lập, mà ngay trong bước ĐKKD luật quy định rõ ràng: cơ quan ĐKKD không được yêu cầu, đòi hỏi những giấy tờ khác ngoài những giấy tờ quy định trong luật DN bao gồm: đơn đăng ký kinh doanh; điều lệ đối công ty; tên chủ sở hữu đối DNTN, danh sách đối công ty; đối ngành nghề kinh doanh đòi hỏi có vốn pháp định thì phải có giấy tờ chứng thực nguồn vốn đó. Rõ ràng với việc quy định cụ thể các loại giấy tờ mà người muốn thành lập doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ của mình là một bước tiến trong cải cách thủ tục hành chính, tránh được hiện tượng các cơ quan nhà nước tuỳ tiện ban hành các loại giấy phép cón gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra với quy định như vậy thì trách nhiệm của nhà nước phần nào được giảm nhẹ, theo quy định tại khoản, điều 12 cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD, còn về các lĩnh vưc khác liên quan đến tình hình tài chính, hoạt động của các doanh nghiệp... thì buộc các nhà đầu tư phải tự tìm hiểu, nếu muốn cùng nhau hợp tác kinh doanh, điều này khác với trước đây, khi mà các doanh nghiệp thường thông qua sự xác nhận của nhà nước để đánh giá tình hình kinh doanh của các đối tác, bạn hàng từ đó xuất hiện tư tưởng dựa dẫm, trông chờ vào các cơ quan nhà nước dẫn đến tình trạng, thông tin thiếu chính xác, không cập nhập và còn là cơ sở phát sinh các tệ nạn trong quản lý hành chính nhà nước. Để việc tìm hiểu được dễ dàng, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết về các doanh nghiệp cho những đơn vị, cá nhân có yêu cầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm được bạn hàng phù hợp nhất với mình. 2.2. Luật Doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành nghề kinh doanh Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất quan trọng nhất để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh, hơn nữa vốn còn là bảo đảm về mặt tài chính của doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Do đó luật DNTN, luật Công ty quy định vốn pháp định là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để có thể thành lập doanh nghiệp. Điều này có nghĩa: vốn đầu tư ban đầu mà doanh nghiệp bỏ ra phải phù hợp với quy mô, ngành nghề dự định kinh doanh. Số vốn này không được thấp hơn số vốn tối thiểu mà pháp luật quy định, tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và loại hình doanh nghiệp, đây là mức bảo đảm tối thiểu về tài sản của doanh nghiệp đối với khách hàng. Tuy nhiên trong khi thi hành hai đạo luật này, thì quy định về mức vốn pháp định không còn phát huy được hiệu quả như ý nghĩa ban đầu của nó, tức thể hiện khả năng kinh tế của doanh nghiệp và đảm bảo khả năng thanh toán cho chủ nợ. Thực tế cho thấy cả hai ý nghĩa trên đều không được đảm bảo, vì nhà nước không quản lý được nguồn vốn của doanh nghiệp sau khi được thành lập, dẫn đến có doanh nghiệp khi làm hồ sơ thành lập đã đi vay mượn toàn bộ số vốn pháp định để đủ điều kiện khi thành lập nhưng sau đó lại rút toàn bộ số vốn để trả nợ, thực tế là doanh nghiệp được thành lập mà không có vốn, đây chính là sơ hở để các doanh nghiệp lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhau. Bên cạnh đó việc quy định về mức vốn pháp định đã tạo điều kiện cho hiện tượng cửa quyền, tham nhũng phát triển làm giảm lòng tin của nhân dân, doanh nghiệp vào các chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Vì vậy luật DN quy định: các doanh nghiệp ĐKKD hầu hết các ngành nghề đều không cần tuân thủ quy định về vốn pháp định, trừ một số ngành nghề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự thăng trầm nền kinh tế dẫn đến đòi hỏi cần có sự đảm bảo về mặt tài chính như: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán... quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp, vừa giảm bớt thủ tục hành chính, vừa nâng cao trách nhiệm của chính doanh nghiệp trước khi giao kết hợp đồng kinh tế . Nhưng một câu hỏi đặt ra: Làm sao có thể bảo vệ được lợi ích của các chủ nợ, khi bỏ các quy định về vốn pháp định? giải pháp cho câu hỏi này trước tiên ở phía các nhà kinh doanh, để đảm bảo quyền lợi của mình đòi hỏi mỗi doanh nhân trước khi ký kết hợp đồng với khách hàng đều phải xem xét kỹ lưỡng năng lực tài chính của khách hàng đó tránh trường hợp lừa đảo, gian lận trong kinh doanh .Về mặt pháp luật để giải quyết vấn đề này trong luật Doanh Nghiệp đã quy định một loạt các nguyên tắc và nghĩa vụ của DN đối với vốn và tài sản. Với các loại hình công ty luật quy định: DN chỉ được giảm vốn điều lệ, thanh toán phần vốn góp hoặc cổ phần được mua lại, chia lợi nhuận, trả cổ tức,... Khi mà doanh nghiệp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các nghĩa vụ tài sản khác. Ngoài ra luật còn quy định các biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi các chủ nợ: Tài sản góp vốn nếu không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì phải được định giá và được thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Trong trường hợp định giá cao hơn so với giá trị tài sản tại thời điểm góp vốn, thì người góp vốn và người định giá phải góp đủ số vốn như trong biên bản định giá, nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có bằng chứng cho rằng tài sản đã được định giá sai so với giá trị thực của nó thì có quyền yêu cầu cơ quan ĐKKD buộc người định giá phải định giá lại giá trị tài sản góp vốn. Sở dĩ phải quy định như vậy, vì với các loại hình doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ trên tài sản hiện có của doanh nghiệp, thì việc định giá cao hơn giá trị thực của tài sản dễ làm cho khách hàng lầm tưởng khả năng thanh toán của doanh nghiệp dẫn đến ký kết hợp đồng, song thực tế tài sản của doanh nghiệp lại không đủ để bảo đảm khoản nợ đối khách hàng, đặc biệt khi doanh nghiệp bị phá sản khách hàng có thể mất một khoản tiền nào đó ứng với phần tài sản bị định giá sai. Đối loại hình Cty TNHH hai thành viên trở lên luật DN quy định, nếu không góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn đó được coi là nợ của thành viên đối công ty và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Bản thân người đại diện theo pháp luật còn phải báo cáo về trường hợp nói trên cho cơ quan ĐKKD trong thời hạn nhất định, kể từ thời điểm cam kết góp vốn, sau thời hạn này mà khong thông báo bằng văn bản đến cơ quan ĐKKD, thì người đại diện theo pháp luật của công ty phải liên đới chịu trách nhiệm cùng với thành viên chưa góp đủ vốn về phần vốnchưa góp và thiệt hại phát sinh do số vốn đó gây ra. Quy định như vậycũng do xuất phát từ bản chất của loại hình Cty TNHH tức chỉ chịu trách nhiệm công nợ công ty trên cơ sở phần vốn góp, do đó số vốn thiếu của thành viên được chuyển sang nợ, tương đương một khoản tài sản mà công ty có, do vậy chủ nợ yên tâm hơn mặc dù tài sản đó không thực có tại Cty. Ngoài những nguyên tắc trên, để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư luật còn quy định chế độ hậu kiểm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối các doanh nghiệp thông qua chế độ thanh tra và kiểm tra, điều này khong những giúp cơ quan nhà nước tình hình các doanh nghiệp, mà còn có tác dụng cung cấp các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn khả dụng của các doanh nghiệp cho các khách hàng có nhu cầu. 2.3. Luật Doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một loại hình doanh nghiệp mới lần đầu tiên được đưa vào nước ta mặc dù nó đã được luật hoá từ lâu trên thế giới. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của giới kinh doanh, một số người trong số họ có vốn và đầu tư vào kinh doanh, song họ không muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân bởi tính rủi ro quá cao của nó, do DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, song họ cũng không muốn góp vốn vào công ty do không muốn chia sẻ quyền chủ động trong kinh doanh cũng như những khoản lợi mà doanh nghiệp có thể thu được. Trong thực tế những năm qua mặc dù pháp luật không quy định loại hình doanh nghiệp này nhưng lại mặc nhiên cho nó tồn tại dưới một số hình thức và tên gọi khác như: DNNN do nhà nước làm chủ sở hữu duy nhất, doanh nghiệp của các tổ chức trính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngoài ra còn tồn tai một thực tế là, hiện nay có nhiều công ty TNHH được thành lập và đang hoạt động trên danh nghĩa hai thành viên trở lên nhưng thực chất là công ty TNHH một thành viên, bởi các thành viên góp vốn có thể là vợ, chồng hoặc anh em bạn bè nhờ đứng tên cho đủ điều kiện đang ký kinh doanh theo quy định của pháp luật . Từ nhu cầu và thực tế đó cùng với việc xem xét kinh nghiệm các nước trên thế giới, luật DN đã đưu vào loại hình công ty TNHH một thành viên . Tại điều 46 luật DN quy định "công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu ,chủ sở hữu chịu trách nhiệm về công nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của công ty". Như vậy theo luật DN thì chỉ có các tổ chức mới đươc phép thành lập công ty TNHH một thành viên, đây là điểm khác biệt giữa pháp luật nước ta với pháp luật các nứơc trên thế giới và khác biệt với luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam. Điều khác biệt cơ bản công ty TNHH một thành viên với DNTN là ở việc quy định trách nhiệm của chủ sở hữu đối nghĩa vụ và các khoản nợ của doanh nghiệp, và đây cũng chính là yếu tố tạo lên ưu điểm của công ty TNHH một thành viên so với DNTN; việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn góp của công ty được thực hiện một cách dễ dàng, khác với loại hình DNTN chủ sở hữu chỉ được cho thuê hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp cho người khác. Công ty TNHH chuyển sang hoạt động theo cơ chế của công ty TNHH hai thành viên trở lên khi một phần vốn được chuyển nhượng cho người khác. Cũng như DNTN, công ty TNHH một thành viên không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào ra công chúng để huy động vốn. Công ty TNHH một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh . 2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh. Trên thế giới từ lâu đã tồn tại hai loại công ty: công ty đối nhân, công ty đối vốn. Việc chia làm hai loại hình công ty là căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp. Cty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, vốn là nhân tố thứ yếu. Đặc điểm cơ bản nhất của công ty đối nhân là: không có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản công ty và tài sản thành viên, các thanh viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ của công ty hoăc it nhât phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ đó. Hiện nay cty Đối nhân tồn tại dưói hai dạng cơ bản: công ty Hợp Danh và công ty Hợp Vốn Đơn Giản . Công ty Hợp Danh là công ty mà trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới cùng một doanh nghiệp và cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty. Vì tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên các thành viên phải có sự hiểu biết rõ về thân nhân cũng như trình độ, chuyên môn và khả năng tài chính của nhau. Công ty Hợp Danh được thành lập khi có ít nhất hai thành viên thoả thuận với nhau trên cơ sở hợp đồng thành lập công ty. Chủ nợ có thể yêu cầu bất cứ thành viên nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với mình và thành viên đó không được quyền từ chối ,song có quyền yêu cầu các thành viên còn lại bồi hoàn.. Trong công ty hợp Danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài sản cá nhân thành viên, sự chuyển dịch từ tài sản chung sang tài sản riêng được thực hiện một cách dễ dàngvà rất khó kiểm soát. Đối với công ty hợp vốn đơn giản thì ngoài thành viên hợp danh còn có thành viên góp vốn, cũng giống như công ty Hợp Danh, thành viên hợp danh của công ty Hợp Vốn Dơn Giản cũng phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty, còn thành góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trên phần vốn mà họ đóng góp. Như vậy, so với công ty Hợp Danh công ty Hợp Vốn Đơn Giản có khả năng thu hút được nguồn vốn lơn hơn, và rủi ro của các thành viên hợp danh cũng phần nào được san sẻ cho các thành viên góp vốn, vì thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ của công ty trên phần vốn mà họ đóng góp, do đó họ bị hạn chế quyền điều hành và quản lý công ty, cụ thể :họ không có quyền đại diện công ty trong các quan hệ đối ngoại, cũng như không có quyền tham gia biểu quyết trong các cuộc họp của công ty. Thực tế ở nước ta trong thời gian qua có một bộ phận dân cư có tiền, muón tham gia kinh doanh, nhưng họ không muốn góp vốn vào công ty cổ phần vì loại hình này chưa phát triển, và không phù hợp với tâm lý cộng đồng của người Việt Nam, hơn nữa thị trường chứng khoán ở nước ta chưa đi vào hoạt động. Đối với công ty TNHH thì qui định quá chặt chẽ về đối tượng tham gia thành lập công ty, đồng thời do tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, nên nó không tạo được sự tin tưởng đối với khách hàng đặc biệt là những dịch vụ mà hậu quả của nó có thể xảy ra rất nghiêm trọng như: dịch vụ tư vấn pháp lý, tư vấn xây dựng ... Trong khi đó họ không muốn một mình gánh chịu rủi ro dưới hình thức DNTN, vì như vậy có thể dẫn tới sự khánh kiệt gia tài của họ . Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở luật Khuyến Khích Đầu Tư Tong Nước và chủ trương thu hút mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế. Luật DN đã qui định một loại hình doanh nghiệp mới đó là công ty hợp doanh. Công ty Hợp Doanh theo luật DN ngày 12/6/1999 nó không giống với loại hình công ty HD truyền thống của các nước trên thế giới, mà nó là sự hoà trộn giữa hai loại hình công ty HD và công ty hợp vốn đơn giản, tức là vừa có các thành viên hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn về công nợ công ty, lại vừa có các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về công nợ công ty trên phần vốn mà mình đã góp. Việc qui định loại hình công ty HD trong luật DN là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở nước ta, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của giới kinh doanh mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế, là loại hình doanh nghiệp phù hợp nhất đối với các ngành nghề đòi hỏi trách nhiệm cao của cá nhân với chất lượng của dịch vụ mà mình cung ứng . Trên đây là những nội dung mới, cơ bản mà luật DN đã đưa ra, ngoài ra luật DN còn qui định mới về đối tượng được quyền tham gia thành lập, quản lý và góp vốn vào các doanh nghiệp nhằm bảo đảm tnhs thống nhất giữa luật DN với các văn bản pháp luật khác như: Bộ Luật Dân Sự, luật Thương Mại, pháp lệnh Công Chức ... đồng thời góp phần phát huy tối đa mọi nguồn lực hiện có trong xã hội vào đầu tư và phát triển sản xuất, thúc đẩy mọi người làm giàu hợp pháp bằng tài năng và nguồn vốn của mình. Luật DN qui định mọi người đều được quyền quản lý và thành lập doanh nghiệp chỉ trừ các đối tượng sau: cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước và công quĩ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho đơn vị mình: cán bộ, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân Đội Nhân Dân, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các đơn vị thuộc Công An Nhân Dân; cán bộ lãnh đạo quản lý nghiệp vụ trong các DNNN ,người chưa thành niên, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự ; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đang trong thời gian bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm một số tội về kinh tế ;những người đảm nhiệm một số chức danh của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ; người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam . Cùng với việc mở rộng đối tượng được thành lập và quản lý doanh nghiệp , luật DN còn cho phép mọi cá nhân , tổ chức được quyền góp vốn vào doanh nghiệp , trừ cơ quan nhà nước ,đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước và công quĩ góp vốn thu lợi riêng cho cơ quan , đơn vị mình, các đối tượng không được quyền góp vốn vào doanh nghiệp theo qui định của pháp luật về cán bộ , công chức . Ngoài ra luật còn qui định tổ chức , cá nhân nước ngoài không thường trú tai Việt Nam , người Việt Nam định cư ở nước ngoài được góp vốn vào công ty TNHH ,công ty cổ phần và công ty Hợp Danh theo qui định luật Khuyến Khích Đầu Tư Trong Nước . III. Những thành tựu đạt được của luật doanh nghiệp Trong hơn 3 năm thi hành Luật doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đã làm được nhiều việc và thu được những kết quả nổi bật trong đổi mới phát triển kinh tế đất nước. Những kết quả quan trọng phải kể đến là: 1. Về phía các cơ quan Nhà nước Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành tương đối kịp thời và đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Để thi hành Luật doanh nghiệp, ngày 3 tháng 2 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký 3 văn bản quan trọng hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đó là: Nghị định số 02/2000/NĐ - CP về đăng ký kinh doanh; Nghị định số 03/2000/ NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp; Quyết định 19/2000/QĐ -TTg về bãi bỏ 84 loại giấy phép trái với quy định của Luật doanh nghiệp. Ngày 2/3/2000, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư 03/2000/TT-BKH hướng dẫn về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp quy đinh tại Luật doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, ban hành 25 biểu mẫu về kinh doanh và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước. Như vậy, chỉ sau một tháng, kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành được các văn bản quan trọng nhất hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp, đảm bảo thực thi những tư tưởng đổi mới chủ yếu của Luật về quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được tiến hành thuận lợi. Có thể nói, tuy có chậm hơn so với yêu cầu cuộc sống, song việc hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp đã được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và có nhiều tiến bộ hơn so với một số Luật khác. Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm theo dõi và trực tiếp chỉ đạo việc triển khai thi hành Luật doanh nghiệp. Ngày 22/5/2000 tại công văn số 34/CP-ĐMDN về việc thi hành Luật doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan có liên quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết một số vấn đề vướng mắc trong việc thực hiện Luật doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp, Chính phủ tiếp tục xem xét, rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con trái với quy đinh của Luật doanh nghiệp. NĐ 30/CP (có hiệu lực từ ngày 26/8/2000 ra đời, bãi bỏ 61 giấy phép con, và chuyển một số giáy phép này thành điều kiện kinh doanh. 2. Về tổ chức hoạt động của các loại hình doanh nghiệp Luật doanh nghiệp ra đời là khâu đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, nhất là tư duy về quyền và nghĩa vụ của công dân, của cơ quan Nhà nước, thúc đẩy xây dựng và thực thi luật pháp theo nguyên tắc “công dân được quyền kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”. Luật doanh nghiệp tạo ra một bước phát triển mới, thực sự cải cách khâu gia nhập thị trường; tức là tự do thành lập doanh nghiệp với các hình thức khác nhau (với thủ tục thành lập đơn giản ít tốn kém); tự do lựa chọn, thay đổi và bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh mới; tự do lựa chọn địa bàn kinh doanh, và mở rộng kinh doanh sang địa bàn, vùng lãnh thổ mới, v.v Những cản trở đối với các công việc nói trên về cơ bản đã được xoá bỏ. Thời gian trung bình cần thiết để thành lập được doanh nghiệp trước năm 2000 là 90 ngày, thì nay rút xuống còn 7 ngày; nhiều nơi đã rút xuống còn 2 đến 4 ngày, so với thời hạn 15 ngày theo luật định. Tại thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời hạn đăng ký kinh doanh xuống chỉ còn 1 giờ. Chi phí trung bình bằng tiền để thành lập một doanh nghiệp trước đây là hơn 10 triệu đồng (có trường hợp cá biệt là 380 triệu đồng) thì nay giảm xuống còn 500 ngàn đồng. Thành tựu đạt được từ việc thực hiện Luật Doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của người dân được thể chế hoá và đảm bảo tốt hơn; nhờ đó, mọi tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp đều thành lập được doanh nghiệp một cách kịp thời và nhanh chóng. Khảo sát thực tế cho thấy không ít người đã có ý định thành lập doanh nghiệp từ 2 - 3 năm trước đây nhưng đã không làm được điều đó; bởi vì, họ không xin được giấy phép thành lập, hoặc khi đã xin được giấy phép thành lập rồi thì lại không xin được các loại giấy phép kinh doanh khác. Luật doanh nghiệp đã trở thành công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp; là yếu tố góp phần củng cố niềm tin của ngời dân vào công cuộc đổi mới. Có thể nói, việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã thổi một luồng sinh khí mới vào môi trờng kinh doanh, khơi d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV185.doc
Tài liệu liên quan