Đề tài Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ

KINH TẾ TRANG TRẠI 2

PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY 10

1-/ CHỦ TRANG TRẠI. 11

2-/ CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT CỦA TRANG TRẠI. 11

2.1. Đất đai của trang trại 11

2.2. Vốn và nguồn vốn của trang trại. 13

2.3. Về sức lao động. 15

3-/ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT CỦA TRANG TRẠI. 17

3.1. Các loại hình sản xuất kinh doanh. 17

3.2. Đầu tư chi phí sản xuất của trang trại. 19

3.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại. 19

4-/ KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA TRANG TRẠI. 21

4.1. Tổng doanh thu của trang trại. 21

4.2. Giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại. 22

4.3. Thu nhập và đời sống của trang trại. 23

PHẦN III: XU HƯỚNG HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI 31

PHẦN IV: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TRONG NÔNG NGHIỆP NƯỚC TA 34

MỘT LÀ, GIẢI PHÁP VỀ ĐẤT ĐAI: 34

HAI LÀ, GIẢI PHÁP VỀ VỐN: 35

BÀ LÀ, GIẢI PHÁP VỀ THỊ TRƯỜNG 37

BỐN LÀ, GIẢI PHÁP VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 39

NĂM LÀ, GIẢI PHÁP VỀ THUẾ: 39

SÁU LÀ, GIẢI PHÁP VỀ NHÂN LỰC CHO TRANG TRẠI. 40

BẢY LÀ, GIẢI PHÁP VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG 41

TÁM LÀ, TĂNG CƯỜNG HỆ THỐNG KHUYẾN NÔNG TỪ TW TỚI ĐỊA PHƯƠNG. 41

CHÍN LÀ, TĂNG CƯỜNG HƠN NỮA QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO 44

 

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2042 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trại. Trang trại ở Gia Lai, Đắc Lắc tỷ trọng giá trị vườn cây lâu năm chiếm trên 84%, giá trị tài sản cố định có nguồn gốc kỹ thuật chiếm 10,41%. Trang trại ở Đồng Nai giá trị tài sản có nguồn gốc kỹ thuật chiếm cao 28,37%, giá trị đàn vật nuôi cơ bản chiếm 11,08%. 2.3. Về sức lao động. Bảng 3 - Phân tổ số trang trại điều tra theo quy mô lao động trong độ tuổi và lao động làm thuê Đơn vị: trang trại Số TT Tiêu thức phân tổ Chia theo Tỉnh Chung 15 tỉnh Sơn La Yên Bái Quảng Ninh Hà Nội Thanh Hoá Nghệ An Gia Lai Đắc Lắc Lâm Đồng Khánh Hoà Ninh Thuận Bình Dương Đồng Nai Long An Cà Mau Tổng số 200 300 80 134 268 270 304 298 280 80 80 300 290 80 80 3.044 I Phân tổ theo số lao động trong độ tuổi Từ 2 LĐ trở xuống 101 169 32 168 181 170 139 153 38 28 162 164 38 23 23 1.636 Từ 3-4 lao động 77 103 41 86 75 95 121 95 31 33 106 92 24 37 37 1.055 Từ 5-6 lao động 17 20 7 14 13 34 33 25 10 17 27 27 13 18 14 299 Từ 7 LĐ trở lên 5 8 0 0 1 5 5 7 1 2 5 7 5 2 2 54 II Phân tổ theo số lao động làm thuê thường xuyên Số trang trại thuê LĐ thường xuyên 13 34 13 64 143 106 169 228 145 26 34 128 46 24 11 1.184 Chia ra: - Thuê từ 1-2 LĐ 9 25 9 38 79 90 123 156 99 18 32 78 35 18 8 817 - Thuê từ 3-4 LĐ 4 5 1 12 41 9 27 47 35 5 1 23 8 4 2 224 - Thuê từ 5 LĐ trở lên 0 4 3 14 23 7 19 25 11 3 1 27 3 2 1 143 III Phân tổ theo số ngày công lao động thuê theo thời vụ Số trang trại thuê LĐ thời vụ 133 203 31 85 264 246 278 270 257 67 68 228 116 79 78 2.403 Chia ra: - Thuê dưới 500 công 128 173 31 70 143 212 232 202 202 67 63 173 96 64 74 1.930 - Thuê từ 500-990 3 23 0 11 75 22 39 55 44 0 3 29 14 12 4 334 - Thuê từ 1000 công 2 7 0 4 46 12 7 13 11 0 2 26 6 3 0 139 Đại bộ phận các chủ trang trại là nam giới và dân tộc kinh. Trình độ văn hoá của chủ trang trại có trình độ cấp II trở lên chiếm 80,7%, trong đó các chủ trang trại ở Hà Nội, Thanh Hoá, Nghệ An chiếm tỷ lệ từ 91,8 đến 96,7%. Các chủ trang trại có trình độ chuyên môn từ sơ cấp đến đại học có 949 người, chiếm 31,8%, trong đó số có trình độ đại học chỉ chiếm 5,6%. Số lao động trong độ tuổi bình quân 1 trang trại là 2,86 người lao động trên độ tuổi là 0,41 người, lao động dưới độ tuổi là 0,84 người. Qua số liệu ở biểu 3 cho thấy số lao động làm thuê ở các trang trại chưa nhiều, bình quân một trang trại thuê 0,98 lao động thường xuyên, trong đó các trang trại ở Đắc Lắc thuê gần 2 lao động, ở Hà Nội, Thanh Hoá thuê gần 1,5 lao động. Trong số 3044 trang trại điều tra có 1184 trang trại thuê lao động thường xuyên (chiếm 38,90%) trong đó các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 51,79%, ở Đắc Lắc là 76,51%. Phân tổ các trang trại thuê lao động thường xuyên từ 1-2 lao động chiếm 69,01%, trong đó tỷ lệ này ở các trang trại Nghệ An là 90%, Gia Lai chiếm 72,79%. Số lao động thuê từ 3-4 lao động thường xuyên chiếm 18,92%, riêng các trang trại ở Lâm Đồng chiếm 24,14%, Thanh Hoá là 28,68%. Số trang trại thuê thường xuyên từ 5 lao động trở lên chiếm 12,08%, trong đó các trang trại ở Hà Nội chiếm 21,88%, Bình Dương 21,10%. Có 2403 trang trại thuê lao động theo thời vụ, chiếm 78,95% tổng số trang trại điều tra, trong đó có 80,32% các trang trại thuê hàng năm dưới 500 ngày công. Số trang trại từ 1000 ngày công trở lên rất ít, chỉ có 139 trang trại. 3-/ Tổ chức hoạt động sản xuất của trang trại. Trên cơ sở đất được giao, vốn tự có và vốn vay kết hợp với sức lao động của gia đình hoặc có thể thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã tiến hành sản xuất kinh doanh, thu được nhiều lợi nhuận, tạo được việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập ổn định. 3.1. Các loại hình sản xuất kinh doanh. Các chủ trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh sản xuất hàng hoá chính kết hợp với phát triển tổng hợp theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tổng hợp các tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế, sớm đưa các trang trại vào định hình sản xuất. Trong 3044 trang trại được điều tra, hướng hoạt động chủ yếu được tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Nhìn vào biểu 4 ta thấy có 2619 trang trại kinh doanh nông nghiệp là chính, riêng trồng trọt có 2353 trang trại với các hướng kinh doanh chính: cây hàng năm (lúa, mía) có 421 trang trại, cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, điều,...) có 1588 trang trại, cây ăn quả (vải, nhãn, cam, xoài,...) có 344 trang trại. Trong số 1588 trang trại có hướng sản xuất kinh doanh chính là cây công nghiệp lâu năm được phân bố tương đối đều về số lượng giữa ba vùng lớn, song đáng chú ý vùng Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung, số trang trại này chiếm tỷ trọng lớn: 86,95% tổng số trang trại của vùng. Trong đó cây cà phê được trồng nhiều ở các trang trại Đắc Lắc với 1314,6ha, ở Gia Lai 1137,5ha, ở Lâm Đồng 1098,6ha. Cây cao su tập trung chủ yếu ở các trang trại của Bình Dương với 1711,9ha, Gia Lai 128,3ha. Các trang trại kinh doanh chè ở Lâm Đồng với 114,3ha, Yên Bái 178,3ha và Nghệ An 103,6ha. Biểu 4: Số lượng trang trại phân theo hướng sản xuất kinh doanh chính ở 3 vùng lớn của nước ta. Đơn vị: Trang trại Nhóm trang trại theo các hướng kinh doanh Tổng số Trong đó phân theo 3 vùng lớn Các tỉnh miền Bắc Tây Nguyên và Duyên Hải miền Trung Nam Bộ 1. Cây hàng năm 421 218 1 202 2. Cây CN lâu năm 1.588 452 593 543 3. Cây ăn quả 344 238 29 77 4. Chăn nuôi đại GS 50 16 0 34 5. Chăn nuôi lợn 145 14 0 131 6. Chăn nuôi gia cầm 71 25 6 40 7. Lâm nghiệp 121 109 0 12 8. Thuỷ sản 280 173 46 61 9. Hướng kinh doanh khác 24 7 7 10 Tổng 3.044 1.252 682 1.110 Biểu 4 cũng cho chúng ta thấy rằng số lượng các trang trại kinh doanh chăn nuôi còn chiếm tỷ trọng thấp, chỉ mới có 266 trang trại. Trong đó 50 trang trại chăn nuôi đại gia súc, 145 trang trại chăn nuôi lợn và 71 chăn nuôi gia cầm. Số trang trại này lại tập trung phần nhiều tại Bắc và Nam Bộ. 3.2. Đầu tư chi phí sản xuất của trang trại. Đầu tư chi phí sản xuất bình quân chung 1 trang trại khá lớn là 69,722 triệu đồng, trong đó chi phí vật chất chiếm 71,64%, chi phí lao động chiếm 24,94% và chi phí khác chiếm 3,43%. Mức chi phí này lại không đều giữa các tỉnh. Giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất chênh lệch tới 11 lần. Quan hệ giữa đầu tư chi phí vật chất và chi phí lao động của trang trại giữa các vùng cũng khác nhau, nhìn chung các trang trại ở các tỉnh phía Nam tỷ trọng chi phí vật chất cao, trên 80% tổng chi phí sản xuất. Ngược lại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ lại chi nhiều cho lao động và tỷ trọng này lên tới 37%. Đầu tư chi phí trong các trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm rất cao ở chi phí vật chất (trên 90%) chi phí lao động chỉ chiếm từ 6-8,5%. Đầu tư chi phí vật chất lao động bình quân 1 trang trại là 17,387 triệu đồng, trong đó tiền công thuê là 9,376 triệu, chiếm 58,88%. Các trang trại trồng cây lâu năm chiếm 75,3% tổng số tiền công thuê của ngành trồng trọt và chiếm 60,44% chi phí lao động của nhóm trang trại này. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm tỷ trọng tiền công thuê chiếm hơn 16% chi phí lao động. 3.3. Cơ cấu sản xuất của trang trại. Cơ cấu sản xuất của trang trại là biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ về lượng của các ngành, các bộ phận cấu thành trong sản xuất. ở đây, ta tập trung xem xét cơ cấu sản xuất của trang trại trên hai chỉ tiêu chính đó là: cơ cấu giá trị sản xuất (tổng thu) và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các ngành, các bộ phận sản xuất trong trang trại. Biểu 5: Cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá của các trang trại theo hướng kinh doanh khác nhau Đơn vị: % Nhóm trang trại theo hướng kinh doanh Tổng số Trong đó Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Bình quân chung 100 58,01 26,68 15,31 Trong đó: 1. Cây hàng năm 100 91,03 6,33 2,64 2. Cây lâu năm 100 94,86 4,64 0,50 3. Cây ăn quả 100 77,33 16,51 6,11 4. Chăn nuôi đại GS 100 16,72 79,13 4,15 5. Chăn nuôi lợn 100 0,75 99,01 0,25 6. Chăn nuôi gia cầm 100 1,54 97,70 2,76 7. Lâm nghiệp 100 48,09 38,08 13,83 8. Thuỷ sản 100 3,64 3,82 92,54 9. Hướng KD khác 100 78,47 18,99 2,54 Các trang trại nước ta hầu hết tập trung vào sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), lâm nghiệp và thuỷ sản, vì thế cơ cấu sản xuất của trang trại rất đa dạng, tuỳ thuộc vào hướng kinh doanh được lựa chọn và kết hợp với phát triển tổng hợp, lấy ngắn nuôi dài, giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 57,75% tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 27,30%, thuỷ sản chiếm 13,78% và lâm nghiệp chiếm 1,18%. Cơ cấu sản xuất của trang trại ở các vùng cũng có đặc trưng riêng, khác biệt, vùng miền núi phía Bắc giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm 66,23% (trong đó chủ yếu là cây công nghiệp và cây ăn quả) chăn nuôi chiếm 19,99%, thuỷ sản và lâm nghiệp chiếm 17,09%. ở Duyên hải miền Trung tỷ trọng giá trị sản xuất thuỷ sản chiếm 77,27%, tỷ trọng ngành trồng trọt chiếm 21,8% (chủ yếu là cây ăn quả). Các trang trại thuộc nhóm có hướng kinh doanh cây ăn quả, cây hàng năm, cây lâu năm, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành trồng trọt chiếm từ 73 đến 97%. Nhóm trang trại chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi gia cầm, chăn nuôi lợn tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi chiếm từ 78-98%. Nhìn vào biểu 4 ta cũng thấy rằng cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá các trang trại cũng phản ánh xu thế chung tương tự như cơ cấu giá trị sản xuất. Nhìn chung các trang trại có tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành, sản phẩm cao hoặc thấp thì tương tự cũng có tỷ trọng giá trị sản phẩm hàng hoá của các ngành, sản phẩm tương ứng cao hoặc thấp. Giữa hai chỉ tiêu có sự chênh lệch nhưng đều phản ánh xu hướng chung đó. 4-/ Kết quả và hiệu quả sản xuất của trang trại. Kinh tế trang trại nước ta mới phát triển và đã phát triển tương đối mạnh trong những năm gần đây, nhưng phần lớn trang trại đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản đối với các vườn cây lâu năm, rừng trồng nguyên liệu, nhất là các trang trại bước đầu đã đem lại kết quả rõ rệt. Điều này thể hiện trên nhiều mặt, tuy nhiên chúng ta chỉ xem xét trên một số mặt chủ yếu sau đây: 4.1. Tổng doanh thu của trang trại. Biểu 6: Tổng thu bình quân một trang trại năm 1998 Đơn vị: triệu đồng Trang trại ở các tỉnh Tổng thu Trong đó Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Lâm nghiệp Bình quân chung 105,426 60,880 28,776 14,526 1,246 Trong đó: Sơn La 46,05 41,07 4,21 0,48 0,29 Yên Bái 33,25 16,10 10,02 2,28 4,85 Quảng Ninh 24,48 12,00 4,73 6,86 0,89 Hà Nội 129,74 18,48 52,05 58,64 0,57 Thanh Hoá 101,94 51,03 6,23 43,23 1,45 Nghệ An 38,58 20,65 8,96 5,81 3,16 Gia Lai 104,33 98,57 5,72 0,03 0,0 Đắc Lắc 162,92 160,97 1,76 0,20 0,0 Lâm Đồng 150,83 130,23 20,45 0,154 0,0 Khánh Hoà 164,67 35,91 1,52 127,24 0,0 Ninh Thuận 148,25 35,66 20,33 91,99 0,28 Bình Dương 57,79 41,85 13,11 2,79 0,04 Đồng Nai 224,94 23,60 198,63 0,27 2,41 Long An 110,86 95,65 11,15 2,34 1,75 Cà Mau 70,98 30,19 1,17 38,99 0,03 Nghiên cứu biểu 6 ta thấy rằng mức tổng thu trung bình một trang trại là 105,426 triệu đồng. Trong đó trồng trọt 60,880 triệu, chăn nuôi 28,776 triệu, thuỷ sản 14,526 triệu và lâm nghiệp 1,246 triệu. Mức tổng thu giữa các tỉnh có sự chênh lệch rất lớn, tới 9 lần, cụ thể Đồng Nai đạt 224,94 triệu, trong khi đó Quảng Ninh chỉ đạt 24,48 triệu. Nhìn chung mức tổng thu của các trang trại ở các tỉnh phía Bắc và khu 4 cũ thấp do có vốn đầu tư thấp, chủ yếu dựa vào trồng trọt và đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Ngược lại các trang trại ở Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ đạt mức doanh thu khá cao. Các trang trại có hướng kinh doanh chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản có quy mô doanh thu lớn, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung. Chủ trang trại nông dân và chủ trang trại khác có mức tổng thu cao hơn mức trung bình chung, đạt 110 đến 139 triệu đồng. 4.2. Giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại. Sản xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản và bản chất của kinh tế trang trại, để đánh giá trình độ phát triển kinh tế hàng hoá có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá và tỷ suất giá trị sản phẩm hàng hoá. Giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại điều tra là 91,449 triệu đồng, trong đó các trang trại ở các tỉnh có quy mô nhỏ đạt từ 18-27 triệu đồng như Quảng Ninh, Yên Bái, Nghệ An. Ngược lại các tỉnh như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà, Ninh Thuận đạt quy mô từ 132 triệu đồng trở lên. Các sản phẩm hàng hoá của trang trại điều tra, chủ yếu là nông sản và thuỷ sản. Chưa có lâm sản vì đại đa số rừng trồng đang trong thời gian chăm sóc và tu bổ. Tất cả những điều này được thể hiện rất rõ ở biểu 7. Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại giữa các vùng có sự chênh lệch khá lớn. Trong khi các trang trại vùng núi phía Bắc quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá còn nhỏ, phần lớn đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản thì ở vùng Duyên Hải miền Trung chủ yếu kinh doanh thuỷ sản có quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá lớn. Nhóm trang trại lâm nghiệp quy mô giá trị sản phẩm mới đạt 19,322 triệu đồng, trong đó ngành chính là lâm nghiệp chưa có sản phẩm hàng hoá, giá trị sản phẩm hàng hoá trên là kết quả của mô hình lâm nông kết hợp, lấy ngắn nuôi dài. Biểu 7: Quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại Đơn vị: triệu đồng Trang trại ở các tỉnh Giá trị hàng hoá Trong đó Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Bình quân chung 91,449 53,048 24,403 13,998 Trong đó: Sơn La 40,816 36,407 3,981 0,428 Yên Bái 21,916 12,882 7,037 1,997 Quảng Ninh 18,056 7,396 4,128 6,533 Hà Nội 117,551 15,132 15,479 56,941 Thanh Hoá 90,766 45,322 6,946 38,498 Nghệ An 28,103 16,613 6,358 5,231 Gia Lai 82,892 78,321 4,540 0,030 Đắc Lắc 141,867 140,355 1,383 0,129 Lâm Đồng 132,744 114,165 18,472 0,107 Khánh Hoà 163,126 34,988 1,384 126,754 Ninh Thuận 139,766 33,298 14,481 91,988 Bình Dương 57,187 41,335 11,793 4,059 Đồng Nai 189,192 20,816 168,128 0,248 Long An 103,177 91,403 9,478 2,296 Cà Mau 67,159 28,334 1,407 37,418 4.3. Thu nhập và đời sống của trang trại. Thu nhập trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ đi phần chi phí vật chất, tiền công thuê lao động và chi phí khác. Biểu 8: Quy mô thu nhập của các trang trại Đơn vị: Triệu đồng Trang trại ở các tỉnh Tổng thu nhập Trong đó Trồng trọt Chăn nuôi Thuỷ sản Lâm nghiệp Bình quân chung 46,112 29,359 8,726 7,493 0,534 Trong đó: Sơn La 29,512 26,707 2,226 0,333 0,206 Yên Bái 21,425 10,384 6,332 1,494 3,244 Quảng Ninh 13,310 7,791 2,073 3,275 0,474 Hà Nội 43,231 5,667 11,517 26,883 -0,836 Thanh Hoá 54,260 27,618 2,626 23,237 0,778 Nghệ An 18,076 9,061 5,376 2,985 0,653 Gia Lai 43,109 40,651 2,435 0,018 0,005 Đắc Lắc 79,262 78,455 0,836 0,127 -0,156 Lâm Đồng 71,303 66,416 4,797 0,097 -0,007 Khánh Hoà 93,380 25,745 0,927 66,709 0,0 Ninh Thuận 78,986 19,740 11,953 47,652 0,0 Bình Dương 18,927 13,981 4,373 0,716 -0,14 Đồng Nai 62,932 8,304 53,092 0,149 1,416 Long An 46,128 41,248 2,792 1,613 0,415 Cà Mau 45,726 22,590 0,975 22,472 -0,310 Các kết quả tính toán cho thấy thu nhập trang trại bình quân là 43,47% tổng thu. Một số tỉnh có mức thu nhập thấp như Yên Bái, Nghệ An, Quảng Ninh từ 13-20 triệu đồng, ở các tỉnh như Đắc Lắc, Ninh Thuận, Khánh Hoà có mức thu nhập rất cao từ 75-91 triệu đồng. Nhóm chủ trang trại là nông dân có mức thu nhập 48,463 triệu đồng. Nhóm trang trại có hướng kinh doanh gia cầm, chăn nuôi lợn, thuỷ sản có mức thu nhập rất cao từ 49-88 triệu đồng/năm. Biểu 9: Mức thu nhập bình quân lao động trong độ tuổi và nhân khẩu của các trang trại điều tra Đơn vị: 1.000.000đ Chỉ tiêu Trang trại ở các tỉnh Thu nhập của 1 lao động TN của một nhân khẩu BQ 1 năm BQ 1 tháng BQ 1 năm BQ 1 tháng Bình quân chung 16,120 1,343 7,920 0,660 Trong đó: Sơn La 9,772 0,814 4,611 0,384 Yên Bái 7,762 0,640 4,012 0,334 Quảng Ninh 4,452 0,371 2,874 0,239 Hà Nội 14,315 1,193 7,817 0,651 Thanh Hoá 21,113 1,759 9,974 0,831 Nghệ An 7,230 0,602 3,347 0,279 Gia Lai 15,233 1,269 7,185 0,599 Đắc Lắc 26,073 2,173 11,055 0,921 Lâm Đồng 25,285 2,107 11,211 0,934 Khánh Hoà 30,220 2,518 15,434 1,286 Ninh Thuận 22,632 1,886 11,220 0,935 Bình Dương 7,113 0,593 4,009 0,334 Đồng Nai 22,004 1,834 11,099 0,925 Long An 13,978 1,165 7,818 0,652 Cà Mau 12,737 1,061 7,672 0,639 Nếu ta tính thu nhập trang trại tính bình quân cho 1 lao động thì mức đó là 16,120 triệu đồng/năm tức 1,343 triệu đồng/tháng. ở chỉ tiêu này mức độ chênh lệch giữa các tỉnh cũng rất lớn, như ở Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà các trang trại đạt từ 24 đến 29 triệu đồng/năm tức 2,033 đến 2,643 triệu đồng/tháng. Trong khi đó một số tỉnh như Quảng Ninh, Nghệ An mức này chỉ có 4,340 đến 6,971 triệu đồng/năm, tức là 0,362 đến 0,573 triệu đồng/tháng. Nếu ta tính cho nhân khẩu thì mức thu nhập là 7,513 triệu đồng/năm tức 0,626 triệu đồng/tháng. Do mức thu nhập của các trang trại tương đối cao cho nên mức chi tiêu cho đời sống cũng lớn, bao gồm cả đời sống vật chất và tinh thần. Mức chi tiêu về ăn uống bình quân năm 1998 của trang trại là 13,294 triệu đồng. Trong đó một số tỉnh có thu nhập cao như Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hoà có mức chi từ 18 đến 22 triệu đồng cho việc ăn uống. Các trang trại ở vùng núi phía Bắc, khu 4 cũ, mức chi tiêu ăn uống thấp, chỉ bằng khoảng 1/2 mức chi tiêu ở các trang trại Tây Nguyên. Không những chỉ có đời sống vật chất được nâng cao mà đời sống tinh thần của các trang trại cũng ngày càng được đầy đủ hơn. Từ tài liệu điều tra cho chúng ta thấy giá trị tài sản sinh hoạt bình quân một trang trại là 83,938 triệu đồng. Trong đó Đắc Lắc đạt bình quân 160,76 triệu đồng, Yên Bái chỉ đạt 33,62 triệu. Diện tích nhà ở cũng ngày một khang trang và kiên cố, bình quân chung mỗi trang trại có 84,38m2 nhà ở, trong đó tỷ lệ nhà mái bằng chiếm 24,4%, nhà mái ngói tường xây chiếm 63,54%. Các phương tiện phục vụ đời sống cũng ngày một nâng cao, xe gắn máy bình quân một trang trại có 0,886 cái, ti vi màu 0,778 cái, điện thoại 0,186 cái... - Tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Sự phát triển kinh tế trang trại hiện nay trong nông nghiệp nước ta đòi hỏi một lượng lao động khá lớn. Ngoài số lao động của bản thân trang trại, hàng năm các trang trại còn thuê thêm lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Trong tổng số 3044 trang trại được điều tra đã tạo thêm việc làm cho 6079 lao động, trong đó có 2983 lao động được thuê thường xuyên và 3096 lao động làm thuê theo thời vụ quy đổi. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tính chung cho cả nước, kinh tế trang trại đã tạo ra việc làm cho hơn 60 vạn lao động với mức tiền công thoả đáng. Bình quân mức tiền công hàng tháng đạt 434,29 ngàn đồng, trong đó Đắc Lắc và Bình Dương có mức tiền công từ 521 đến 527 ngàn đồng, thấp nhất như các trang trại ở phía Bắc cũng đạt 272 đến 296 ngàn đồng/tháng. Nhóm trang trại chăn nuôi lợn đạt mức tiền công 538 ngàn đồng. Tiền công thuê lao động thời vụ được chủ trang trại trả 18 ngàn đồng/ngày công. Từ kết quả phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp nước ta như đã nêu ở trên, em nhận thấy rằng, trong thời gian qua kinh tế trang trại trong nông nghiệp đã đạt được những thành công bước đầu khả quan, mở ra một hướng phát triển mới cho nền nông nghiệp nước nhà. Thực tế cho thấy phát triển kinh tế trang trại là một hướng đi đúng đắn và phù hợp với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước. Kinh tế trang trại đã tỏ ra được ưu thế và tương lai phát triển của mình so với các hình thức sản xuất khác. Kinh tế trang trại tỏ ra vượt trội về khả năng sản xuất hàng hoá, khả năng tận dụng những ưu thế của vùng và cả khả năng cho thu nhập cao. Tuy nhiên, từ thực tế phân tích thực trạng như trên cũng mở ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong thời gian tới. Cụ thể chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và đánh giá về sự phát triển của kinh tế trang trại trong nông nghiệp thời gian vừa qua như sau: Một là, những ưu điểm đã làm tốt, cần phát huy hơn nữa trong thời gian tới: - Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là trung du, miền núi và ven biển. Mặc dù còn nhiều mới mẻ và đang trong quá trình phát triển, nhưng trang trại đã thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn, một mặt đã tạo ra lượng giá trị lớn về nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá mà quy mô đã vượt trội so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính, sản phẩm sản xuất ra là để bến trên thị trường. - Kinh tế trang trại đóng vai trò là nhân tố mới trong nông thôn, là động lực mới, nối tiếp và phát huy động lực kinh tế hộ nông dân, là khâu đột phá trong quá trình chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Các trang trại đã tạo ra khối lượng lớn về nông sản hàng hoá đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là quá trình tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn. - Chủ trang trại với cơ cấu xuất thân rất đa dạng, trong đó chủ yếu có nguồn gốc từ hộ làm ăn kinh tế giỏi ở khắp các vùng trong cả nước, là lực lượng chủ yếu phát triển kinh tế trang trại, với tỷ trọng 71,19% là nông dân, nói lên rằng để phát triển kinh tế trang trại ở nước ta trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng nông dân làm kinh tế giỏi. Điều này thật đúng với mong muốn của Đảng và Nhà nước là làm sao để nông dân có thể giàu lên một cách chính đáng. - Phát triển kinh tế trang trại đã huy động được một số vốn lớn nhàn dỗi trong dân đầu tư sản xuất có hiệu quả. - Một số đáng kể các trang trại đã chọn hướng kinh doanh phù hợp với vùng chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá theo quy hoạch của Nhà nước và của các địa phương. Góp phần sớm định hình các vùng sản xuất chuyên môn hoá gắn với các trang trại chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển cùng với sự phát triển của toàn vùng. - ở nước ta, bình quân đất nông nghiệp trên đầu người rất thấp, nhưng đất có khả năng trồng trọt và diện tích có khả năng chăn nuôi còn rất lớn chưa được khai thác và sử dụng. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng tốt hơn quỹ đất, đưa đất đang hoang hoá vào sản xuất nhất là ở các vùng trung du và miền núi, ven biển. - Nước ta có trên 70% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, đó là một tỷ lệ quá cao đối với bất kỳ một quốc gia nào, điều đó dẫn đến vấn đề là làm thế nào để giải quyết nạn thất nghiệp, lao động không có việc làm thường xuyên. Phát triển kinh tế trang trại đã tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể dân cư sống ở nông thôn. - Mặt khác với sự hình thành và phát triển của mình, trang trại, nhất là các trang trại trồng cây lâu năm và trồng rừng đã cải thiện đáng kể môi trường sinh thái - một lợi ích không thể tính được bằng tiền. - Trang trại còn là cầu nối truyền tải khoa học kỹ thuật và công nghệ về nông thôn, là tấm gương làm ăn giỏi cho mọi người cùng noi theo. Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn như vậy và tác dụng và ưu điểm của việc hình thành và phát triển kinh tế trang trại trong nông nghiệp là không thể chối cãi nhưng bên cạnh những ưu điểm đó kinh tế trang trại nước ta cũng có nhiều tồn tại đang đặt ra một loạt các vấn đề còn tiếpt ục nghiên cứu và giải quyết trong thời gian tới, đó là: - Chúng ta chưa có một hệ thống chính sách thật sự đồng bộ, cụ thể nhằm khuyến khích, phát triển kinh tế trang trại mặc dù đã có rất nhiều chính sách được đưa ra. Điều này gây không ít khó khăn cho các hộ nông dân, cho các trang trại và cho cả những người quản lý. Sở dĩ có tình trạng này là do có sự chưa thống nhất thực sự về nhiều vấn đề trong các cơ quan lãnh đạo như: phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại có nên hay không? có làm chệch hướng XHCN mà chúng ta đã xác định hay không? có nên để cán bộ đương chức, đảng viên thành lập, làm chủ trang trại hay không?.... kinh tế trang trại mới phát triển ở nước ta nên chưa có thật nhiều kinh nghiệm giải quyết vấn đề này. Mặc dù Nghị quyết số 03/2000 của Chính phủ đã được ban hành, đã phần nào giải quyết được những thắc mắc nêu trên nhưng về lâu dài thì việc hoàn thiện hệ thống chính sách vẫn là việc hết sức cần thiết. - Trong những năm gần đây kinh tế trang trại phát triển khá mạnh, song chủ yếu là tự phát và phân tán, chưa thật gắn với quy hoạch các vùng sản xuất chuyên môn hoá và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Tình trạng này diễn ra là do chưa có sự chỉ đạo, phối hợp sát sao của các cơ quan, các đơn vị làm công tác thu gom chế biến, quy hoạch chưa tốt, trình độ của người nông dân còn thấp và thói quen tiểu nông vẫn còn tồn tại. - Quỹ đất của trang trại có nguồn gốc rất đa dạng bao gồm cả phần đất đã được giao sử dụng lâu dài và phần đất chưa được giao, trong đó phần đất chưa được giao chiếm tỷ trọng đáng kể.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc66413.doc
Tài liệu liên quan